Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Hoàn thiện cơ chế mua bán và xử lý nợ đối với doanh nghiệp Nhà nước của Công ty Mua bán nợ Việt Nam- DATC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.03 KB, 62 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I 3
LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN NỢ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 3
1.1. LÝ THUYẾT VỀ MUA BÁN NỢ 3
1.1.1. Thế nào là mua bán nợ? 3
1.1.2. Các bên tham gia trong hoạt động mua bán nợ 3
1.1.3. Vai trò của hoạt động mua bán nợ 4
1.1.4. Các hình thức mua bán nợ 6
1.2. LÝ THUYẾT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 7
1.2.1. Doanh nghiệp Nhà nước là gì ? 7
1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước 8
1.3. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC 10
1.3.1. Nhân tố bên ngoài 10
1.3.2. Nhân tố bên trong 12
CHƯƠNG II 13
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ XỬ LÝ NỢ TẠI DATC 13
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DATC 13
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 13
2.1.3. Lĩnh vực kinh doanh của công ty 14
2.1.4. Sự cần thiết phải có hoạt động mua bán và xử lý nợ của DATC đối với các
doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam 15
2.2.1. Nguyên tắc thực hiện 19
2.2.2. Quy trình mua bán và xử lý nợ 21
2.3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ XỬ LÝ NỢ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỦA DATC 23
2.3.1. Những thành tựu đã đạt được của DATC trong hoạt động mua bán và xử lý nợ
đối với doanh nghiệp Nhà nước 23
2.3.2. Đánh giá kết quả hoạt động mua, bán và xử lý nợ của DATC đối với doanh


nghiệp Nhà nước 48
MỘT SỐ GIÁI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ MUA BÁN VÀ XỬ LÝ NỢ
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI DATC 53
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA DATC 53
3.2. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI DATC 53
3.3. KIẾN NGHỊ 55
3.3.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động mua bán nợ 55
LỜI KẾT 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
4.Báo cáo tổng kết 5 năm (2004-2009) hoạt động của Công ty Mua bán nợ Việt Nam-
DATC 60
Đào Thái Ngân – CQ491925 1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, thành phần
kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thể hiện ở việc các ngành trọng tâm, then chốt của
đất nước đều do khối doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ. Tuy nhiên, do nặng tâm lý chủ
quan, ỷ lại- hậu quả của một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã được duy trì một thời gian
dài trong quá khứ mà thời kỳ đổi mới hiện nay vẫn chưa xóa được hoàn toàn dấu vết của
nó, các doanh nghiệp Nhà nước đang dần dần thể hiện rất nhiều yếu kém của mình so với
các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế. Nếu không có
những biện pháp hỗ trợ từ phía chủ sở hữu và sự tích cực vận động của chính các doanh
nghiệp này, thì thành phần kinh tế Nhà nước sẽ không thể duy trì vai trò được giao của
nó, để đất nước ta có thể thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
trong ngắn hạn và tiến lên nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa trong dài hạn.
Tình trạng các doanh nghiệp Nhà nước đầu tư dàn trải, vượt quá khả năng cân đối
của Ngân sách đã diễn ra từ lâu và trên phạm vi rộng. Hơn nữa, do có sự bảo lãnh của
Nhà nước, có một thực tế khách quan là doanh nghiệp Nhà nước càng làm ăn kém hiệu
quả lại càng vay nợ nhiều, và không có khả năng tìm ra nguồn để thanh toán các khoản
nợ này. Trong bối cảnh phức tạp như thế, rất cần sự chia sẻ trách nhiệm của các cơ quan

quản lý Nhà nước vĩ mô, của địa phương và của doanh nghiệp, để từng bước xử lý dứt
điểm nợ đọng, tránh để tình trạng này kéo dài, càng để lâu càng khó khăn hơn.
Việc Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng Việt Nam (DATC) ra đời chính là
nhằm mục đích cứu giúp các doanh nghiệp Nhà nước đang làm ăn kém hiệu quả, đứng
bên bờ vực phá sản. Nhờ có hoạt động mua bán và xử lý nợ của DATC, doanh nghiệp
Nhà nước có thể giảm bớt rủi ro tài chính, quản lý nguồn vốn hiệu quả, tạo thêm nguồn
vốn và góp phần rất lớn vào công cuộc Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, theo chủ
trương của Đảng và Chính phủ. Chính vì thực trạng đó, em đã chọn đề tài cho chuyên đề
thực tập cuối khóa của mình là « Hoàn thiện cơ chế mua bán và xử lý nợ đối với doanh
nghiệp Nhà nước của Công ty Mua bán nợ Việt Nam- DATC », với mong muốn có thể
đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động mua bán nợ của DATC, góp phần
vực dậy và hoàn thành cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam.
Chuyên đề của em được chia thành 3 phần chính :
Chương I : Lý luận về mua bán nợ của doanh nghiệp Nhà nước.
Chương II : Thực trạng hoạt động mua bán và xử lý nợ tại DATC.
Chương III : Các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế mua bán và xử lý
nợ đối với các doanh nghiệp Nhà nước tại DATC.
Đào Thái Ngân – CQ491925 2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN NỢ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. LÝ THUYẾT VỀ MUA BÁN NỢ
1.1.1. Thế nào là mua bán nợ?
Hoạt động mua bán nợ đã hình thành, phát triển và trở thành một hoạt động tài
chính phổ biến trên thế giới. Không chỉ các quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, Nhật, mà
ngay cả các quốc gia trong khu vực như Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan cũng đã có hoạt
động mua bán nợ kể từ khi bùng phát cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Ở Việt
Nam, Chính phủ đã có một số biện pháp xử lý nợ tồn động từ những năm 90 của thế kỷ
trước, nhưng những hoạt động này hầu như vẫn chưa đạt hiệu quả do thiếu cơ chế và cách
làm còn mang nặng tính hành chính.

Đã có rất nhiều khái niệm về mua bán nợ được đưa ra. Tuy nhiên, khái niệm sau đây
được các nhà kinh tế học công nhận một cách rộng rãi :
Mua bán nợ là hoạt động kinh tế được thực hiện nhằm trao đổi và chuyển giao
các khoản nợ phải thu từ đối tượng này sang đối tượng khác.
Từ khái niệm trên đây, có thể rút ra bản chất của hoạt động mua bán nợ, đó là việc
chuyển nhượng lại quyền thu hồi nợ từ một khoản nợ phải thu của bên bán nợ đối với
khách nợ sang cho bên mua nợ để bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của bên khách nợ.
Trên thực tế, hoạt động mua bán nợ xấu tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Mọi rủi ro của việc
không thu được nợ đều do chủ nợ mới gánh chịu. Đây chính là nguyên nhân khiến cho
những người mua nợ sẽ trả giá mua rất thấp cho hàng hoá được giao dịch, ở đây chính là
các khoản nợ. Giá cả các khoản nợ phụ thuộc vào chất lượng khoản nợ hoặc chất lượng
tài sản bảo đảm dựa trên nguyên tắc rủi ro càng lớn giá mua càng thấp. Thông thường, giá
của các khoản nợ trong hoạt động mua bán này sẽ thấp hơn giá trị thực của khoản nợ đó.
Phần chênh lệch do bên mua nợ được hưởng.
1.1.2. Các bên tham gia trong hoạt động mua bán nợ
• Bên chủ nợ cũ (bên bán nợ): là các đơn vị sản xuất hàng hoá, kinh doanh
dịch vụ, các tổ chức tài chính, ngân hàng là người sở hữu hợp pháp những khoản nợ
chưa đến hạn thanh toán.
• Bên khách nợ: là các đơn vị sản xuất kinh doanh, đó chính là người mua
hàng hoá hay nhận các dịch vụ cung ứng, là người có nghĩa vụ phải thanh toán các
khoản nợ cho chủ sở hữu khoản nợ đó.
Đào Thái Ngân – CQ491925 3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
• Bên chủ nợ mới (bên mua nợ): là người thực hiện việc mua bán các khoản
nợ, bao gồm: các ngân hàng, công ty tài chính, những công ty đặc thù chuyên mua
bán và xử lý nợ.
1.1.3. Vai trò của hoạt động mua bán nợ
1.1.3.1. Về phía bên bán nợ
Mua bán nợ giúp giải phóng được lượng vốn chết, đó chính là các khoản nợ chưa
được thu hồi được hoặc khó có khả năng thu hồi, trở lại thành vốn hoạt động. Một trong

những nguyên nhân gây nên tình trạng phá sản ở một số công ty là việc bị chiếm dụng
vốn do khách hàng không thanh toán các khoản nợ. Do đó, việc quản lý rủi ro các khoản
nợ không có khả năng thanh toán của khách hàng trong quan hệ tín dụng là một trong
những mối quan tâm hàng đầu của các công ty. Tuy nhiên, rủi ro này có thể tránh được
khi công ty chuyển giao các khoản nợ của mình cho một công ty chuyên biệt chuyên mua
các khoản nợ - đó là các công ty mua nợ. Công ty mua nợ sẽ trả tiền ngay tức thì khi được
chuyển quyền sở hữu các hoá đơn tạo điều kiện cho lượng vốn chết có khả năng sinh lời,
giúp công ty không bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh mới.
Hầu như, các công ty mua bán nợ tiến hành mua lại các khoản nợ với giá chiết khấu
không cao. Do vậy, rất nhiều công ty đã để mắt tới dịch vụ này. Không những vậy, có
nhiều khách hàng còn sẵn sàng trả phí để nhờ các công ty mua bán nợ điều tra và cung
cấp thông tin nhằm đảm bảo quản lý tín dụng một cách hiệu quả nhất, từ đó tăng vòng
luân chuyển vốn cũng như hạn chế rủi ro tài chính. Ngoài ra, một số công ty mua bán nợ
còn có dịch vụ theo dõi các khoản kỳ hạn thanh toán, kiểm tra các quy định thanh toán,
nhắc nhở, quản lý các khoản nợ khó đòi. Việc làm này của công ty đã góp phần tạo thói
quen cho người mua hàng thanh toán đúng hạn.
1.1.3.2. Về phía bên mua nợ
Hoạt động mua bán nợ tạo ra một cơ hội đầu tư có chi phí thấp nhưng thu nhập
trong tương lai sẽ rất khả quan, nếu bên mua nợ đã nghiên cứu về rủi ro của khoản nợ đã
mua. Ngoài ra, với các nghiệp vụ kinh doanh chuyên nghiệp của mình, các công ty này sẽ
được hưởng lợi nhuận chênh lệch từ việc mua các khoản nợ thấp hơn giá trị thực của các
khoản nợ đó và lợi nhuận từ việc cung cấp các dịch vụ tài chính, như thu hồi nợ; bảo lãnh
tín dụng, bảo lãnh phát hành cổ phần lần đầu cho doanh nghiệp Nhà nước khi cổ phần
hoá; môi giới tư vấn mua bán, xử lý nợ; tư vấn về định giá, đấu giá. Dịch vụ của các công
ty mua bán nợ không giống nhau mà có thể có những khác biệt về điều khoản, điều kiện
Đào Thái Ngân – CQ491925 4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
mua bán nơ cũng như tỷ lệ chiết khấu tuỳ theo nhu cầu của khách hàng, con số nợ nần,
khả năng thu hồi nợ.
1.1.3.3. Về phía bên khách nợ

Nhờ mua bán nợ, bên khách nợ có thể tránh khỏi nguy cơ lâm vào phá sản do không
có khả năng trả nợ. Từ đó, doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động, tạo ra lợi nhuận.
Ngoài ra, hoạt động này còn thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới, tái cơ cấu doanh
nghiệp, tăng giá trị doanh nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh để phát triển.
Các công ty mua bán nợ với đặc thù là các công ty tài chính chuyên biệt, đã mang
lại một giải pháp toàn diện cho việc quản lý nguồn vốn cho nhiều công ty đang trên bờ
vực phá sản. Công ty mua nợ sẽ cung cấp những nhận định phân tích một cách toàn diện
cũng như xác định những bất thường, từ đó đưa ra những ý kiến tư vấn về mặt tài chính
cho cả hai bên có quan hệ đối với khoản nợ: bên chủ nợ cũ và bên khách nợ.
1.1.3.4. Về phía thị trường
Mua bán nợ thúc đẩy tiến trình phát triển và tạo thêm nguồn hàng hoá cho thị trường
tài sản và thị trường vốn. Qua đó, thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
trong nền kinh tế quốc dân đi đôi với việc tạo lập khung pháp luật đảm bảo sự quản lý,
giám sát và hỗ trợ doanh nghiệp của Nhà nước.
Ngoài ra, những công ty mua bán nợ tiên phong còn tạo ra và thúc đẩy một hướng
kinh doanh mới cho một số định chế tài chính trung gian như các công ty mua bán nợ,
dịch vụ đòi nợ thuộc các thành phần kinh tế; góp phần vào việc hình thành các tổ chức
định giá tài sản, định giá doanh nghiệp và các công ty dịch vụ tư vấn tài chính. Thông qua
đó, những nghiệp vụ kỹ thuật đơn thuần được chuyển giao, cải tiến và phát triển bởi các
tổ chức kinh tế đa dạng độc lập hoạt động có tính chuyên nghiệp cao theo cơ chế thị
trường.
1.1.3.5. Về mặt xã hội
Một lượng lớn lao động sẽ tránh được thất nghiệp do doanh nghiệp phá sản thông
qua mua bán nợ, tạo việc làm và đảm bảo an sinh xã hội. Dân cư sinh sống trong khu vực,
nơi doanh nghiệp hoạt động sẽ chịu ảnh hưởng từ hoạt động của các doanh nghiệp này.
Khi doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản, sẽ tạo ra công ăn, việc làm cho họ. Khi
mức sống của người dân tăng và ổn định sẽ tạo ra hiệu ứng dây chuyền cho các hoạt động
Đào Thái Ngân – CQ491925 5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
khác như nâng cao đời sống văn hóa, giáo dục, y tế, ổn định dân cư, ổn định an ninh - xã

hội, tạo ra công ăn việc làm cho các lao động gián tiếp tại địa phương.
Nhà nước còn có thể giữ lại một nguồn thu trong tương lai thông qua thuế, do các
doanh nghiệp sẽ vẫn có cơ hội tiếp tục hoạt động, tạo lợi nhuận. Ngoài ra, hoạt động mua
bán nợ còn giúp Nhà nước tiết kiệm được những khoản chi phí để xử lý các vấn đề chính
trị, xã hội, đặc biệt là chi phí giải quyết việc làm, lao động dôi dư phát sinh từ việc phá
sản doanh nghiệp, ngăn chặn việc phát sinh thêm những tổn thất tài chính đối với Nhà
nước, giúp cho các khoản nợ đọng thuế, nợ bảo hiểm xã hội và kinh phí cho hoạt động
đoàn thể của người làm công đều được giải quyết và thanh toán triệt để.
1.1.4. Các hình thức mua bán nợ
1.1.4.1. Phân loại theo sự hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của bên khách nợ
• Mua bán nợ truy đòi là hình thức mua bán nợ, trong đó đơn vị mua bán nợ
có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không
có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Vì vậy, trong mua bán
nợ truy đòi, tổn thất chỉ thực sự xảy ra trong trường hợp khoản phải thu không được
thanh toán và người bán không thể bù đắp khoản thiếu hụt.
• Mua bán nợ miễn truy đòi là hình thức mua bán nợ, trong đó đơn vị mua
bán nợ chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ
thanh toán khoản phải thu. Đơn vị mua bán nợ chỉ có quyền đòi lại số tiền đã ứng
trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua từ chối thanh toán khoản phải thu
do bên bán giao hàng không đúng hợp đồng hoặc vì lý do khác không liên quan đến
khả năng thanh toán của bên mua hàng.
1.1.4.2. Phân loại theo sự độc lập trong hoạt động mua bán nợ
 Mua bán nợ theo thoả thuận là hình thức mua bán và xử lý nợ mà trong đó
công ty mua nợ các chủ nợ, chủ tài sản trực tiếp liên hệ nhau để tìm hiểu nhu cầu
mua, bán nợ, việc mua bán nợ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa hai
bên.
 Mua bán theo chỉ định: là hoạt động mua bán nợ được tiến hành dưới sự chỉ
định, điều hành, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền.
Đào Thái Ngân – CQ491925 6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú

1.2. LÝ THUYẾT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.2.1. Doanh nghiệp Nhà nước là gì ?
Theo Luật Doanh nghiệp 2005:
Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50%
vốn điều lệ.
Theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003:
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều
lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Công ty Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ,
thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật này. Công ty
Nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước độc lập, Tổng Công ty Nhà
nước.
Nếu phân loại doanh nghiệp Nhà nước theo lĩnh vực hoạt động, sẽ có 2 loại doanh
nghiệp Nhà nước :
 Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh, với các đặc điểm :
• Mục tiêu chính của loại hình doanh nghiệp này là lợi nhuận, giống như bất
cứ các doanh nghiệp nào khác trong nền kinh tế.
• Được sử dụng vốn và các quỹ của doanh nghiệp để phục vụ kịp thời các nhu
cầu trong kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và có hoàn trả;
• Tự huy động vốn để hoạt động kinh doanh, nhưng không thay đổi hình thức
sở hữu; được phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật; được thế chấp giá trị
quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp tại các
ngân hàng Việt Nam để vay vốn kinh doanh theo quy định của pháp luật;
• Được sử dụng quỹ khấu hao cơ bản của doanh nghiệp; mức và tỷ lệ trích quỹ
khấu hao cơ bản, chế độ sử dụng và quản lý quỹ khấu hao cơ bản do Chính phủ quy
định;
• Sau khi đã làm đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, lập quỹ đầu tư phát triển và
các quỹ khác theo quy định, doanh nghiệp được chia phần lợi nhuận còn lại cho
người lao động theo cống hiến của mỗi người vào kết quả kinh doanh trong năm và

theo cổ phần;
Đào Thái Ngân – CQ491925 7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
• Được hưởng các chế độ trợ cấp, trợ giá hoặc các chế độ ưu đãi khác của Nhà
nước khi thực hiện các nhiệm vụ sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ phục vụ quốc
phòng, an ninh, phòng chống thiên tai, hoạt động công ích hoặc cung cấp sản phẩm,
dịch vụ theo chính sách giá của Nhà nước không đủ bù đắp chi phí sản xuất, sản
phẩm, dịch vụ này của doanh nghiệp;
• Được hưởng các chế độ ưu đãi đầu tư hoặc tái đầu tư theo quy định của Nhà
nước.
• Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh thực hiện các nghĩa vụ nộp
thuế và các khoản nộp Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
 Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích, với các đặc điểm:
• Loại hình doanh nghiệp Nhà nước này ra đời và hoạt động chủ yếu với mục
đích xã hội, nhằm bảo đảm an sinh qua việc thực hiện các mục tiêu, yêu cầu mà
chính phủ trực tiếp đề ra.
• Được Nhà nước cấp kinh phí theo dự toán hàng năm hoặc theo đơn đặt hàng
của Nhà nước do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền duyệt, phù hợp với nhiệm vụ kế
hoạch Nhà nước giao cho doanh nghiệp;
• Được huy động vốn, gọi vốn liên doanh, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất
gắn liền với tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp tại các ngân hàng của
Việt Nam để vay vốn phục vụ hoạt động công ích theo quy định của pháp luật khi
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép;
• Doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm hoặc dịch vụ có thu phí được sử dụng
phí theo quy định của Chính phủ để phục vụ hoạt động của doanh nghiệp.
• Có nghĩa vụ nộp Ngân sách các khoản thu về phí và các khoản thu khác (nếu
có)
• Trường hợp doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích có thực hiện hoạt
động kinh doanh thì phải tổ chức hạch toán riêng và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối
với hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.

1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước
1.2.2.1. Đặc điểm chung với các loại hình doanh nghiệp khác
Các doanh nghiệp Nhà nước đều có tư cách pháp nhân như các doanh nghiệp khác
trong nền kinh tế, theo điều 94- Bộ luật Dân sự, một doanh nghiệp được coi là có tư cách
pháp nhân khi:
Đào Thái Ngân – CQ491925 8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
• Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập,
đăng ký hoặc công nhận.
• Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ
• Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó.
• Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
1.2.2.2. Đặc điểm riêng của doanh nghiệp Nhà nước
• Các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực trọng
yếu của nền kinh tế. Do chủ sở hữu là Nhà nước, nên doanh nghiệp này được hưởng
nhiều ưu đãi và lợi thế hơn những doanh nghiệp thuộc các thành phần khác trong nền
kinh tế, đặc biệt là những quốc gia lựa chọn phát triển nền kinh tế thị trường có định
hướng của Nhà nước như Việt Nam.
• Chủ sở hữu: Nhà nước sở hữu toàn bộ hoặc một phần vốn trong doanh
nghiệp.
• Vốn khi thành lập doanh nghiệp Nhà nước là vốn do Nhà nước cấp. Về
việc chuyển nhượng, tăng giảm vốn:
Đối với doanh nghiệp Nhà nước họat động kinh doanh: Tự huy động vốn để hoạt
động kinh doanh, nhưng không thay đổi hình thức sở hữu; được phát hành trái phiếu theo
quy định của pháp luật; được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc
quyền quản lý của doanh nghiệp tại các ngân hàng Việt Nam để vay vốn kinh doanh theo
quy định của pháp luật. (điều 8, Luật Doanh nghiệp Nhà nước).
Đối với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích: Được huy động vốn, gọi vốn
liên doanh, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền quản lý

của doanh nghiệp tại các ngân hàng của Việt Nam để vay vốn phục vụ hoạt động công ích
theo quy định của pháp luật khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép (điều 8-
Luật Doanh nghiệp Nhà nước).
• Cách thức huy động vốn: doanh nghiệp Nhà nước được phép thế chấp giá
trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp tại các
ngân hàng của Việt Nam để vay vốn phục vụ hoạt động công ích theo quy định của pháp
luật khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng không thay đối hình thức
sở hữu. Riêng doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh được phép phát hành trái
phiếu để huy động vốn.
Đào Thái Ngân – CQ491925 9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
• Hội đồng thành viên: Hội đồng quản trị gồm chủ tịch, tổng giám đốc hoặc
giám đốc và một số thành viên khác. Tuỳ theo quy mô, loại hình doanh nghiệp, Chính
phủ quy định số lượng thành viên Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị có thành viên
chuyên trách và thành viên kiêm nhiệm. Chủ tịch Hội đồng quản trị là thành viên chuyên
trách.
1.3. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Mua bán nợ là hoạt động kinh tế có tác động tích cực tới tình hình tài chính, sản
xuất- kinh doanh của cả bên khách nợ và chủ nợ liên quan tới khoản nợ được mua bán. Vì
thế, mua bán nợ ra đời chính là tất yếu khách quan khi doanh nghiệp gặp phải khó khăn
trong việc thanh toán, xử lý các khoản nợ khó đòi.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới cơ chế và hiệu quả của hoạt động mua bán và xử
lý nợ đối với doanh nghiệp Nhà nước. Cụ thể như sau:
1.3.1. Nhân tố bên ngoài
Những yếu tố kinh tế vĩ mô: lạm phát, lãi suất, tỷ lệ tăng trưởng.
Đối với nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao và ổn định, lạm phát ở mức an toàn, các
hoạt động tài chính, điển hình ở đây là hoạt động mua bán nợ sẽ có điều kiện để phát triển
mạnh mẽ và đa dạng dưới nhiều hình thức hơn. Vì thế, không có gì là khó hiểu khi mua
bán nợ - công cụ giúp các doanh nghiệp Nhà nước thoát hiểm lại được tiến hành rộng rãi

tại các nước có nền kinh tế phát triển, còn tại Việt Nam vẫn đang là một hoạt động hết
sức mới mẻ đối với các doanh nghiệp.
Yếu tố lãi suất cũng có ảnh hưởng rất lớn trong việc mua bán các khoản nợ. Vì có
một điều tất yếu là các bên tham gia giao dịch sẽ phải tham khảo lãi suất trên thị trường
trước khi đưa ra giá cả cho các khoản nợ được mua, bán.
Chính sách của cơ quan quản lý vĩ mô về kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới cơ
chế mua bán và xử lý nợ.
Hoạt động mua bán nợ tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì thế không phải bất cứ một tổ chức tài
chính nào cũng có đủ khả năng tham gia và hoạt động hiệu quả. Tại Việt Nam, do nền
kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự điều tiết của Nhà nước, nên hoạt động mua
bán nợ đầy rủi ro được Nhà nước trực tiếp quản lý. Mặt khác, thành phần kinh tế Nhà
nước chiếm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, để tiến lên Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa,
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đang tiến hành Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà
Đào Thái Ngân – CQ491925 10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
nước làm ăn kém hiệu quả, vì thế, mua bán nợ được thực hiện trực tiếp lên khối doanh
nghiệp Nhà nước, nhằm vực dậy những doanh nghiệp lớn, đang trên bờ vực phá sản
thông qua việc tái cấu trúc doanh nghiệp.
Trên thế giới, có nhiều ý kiến khác nhau về tái cấu trúc, song những định nghĩa
được đưa ra hầu hết đều có chung một bản chất. Theo từ điển kinh tế học:
Tái cơ cấu là quá trình tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp nhằm tạo ra trạng thái
tốt hơn cho doanh nghiệp để thực hiện những mục tiêu đề ra. Tái cơ cấu công ty là
việc khảo sát, đánh giá lại cấu trúc hiện tại và đề xuất giải pháp cho mô hình cấu trúc
mới. Việc tái cấu trúc có thể làm thay đổi hoàn toàn bộ máy hoặc chỉ làm thay đổi một
phần.
Cần phân biệt khái niệm “tái cấu trúc” và “tái lập”.
“Tái lập” là quá trình thiết kế lại tận gốc các quá trình hoạt động trong một doanh
nghiệp, đặc biệt là các quá trình kinh doanh nhằm giúp cho tổ chức hoạt động hiệu quả
hơn. Mục tiêu của “tái lập” là tạo ra những quy trình được thiết kế lại tốt hơn, giúp doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, cũng dựa trên những nền tảng về sứ mệnh, tầm nhìn, định

hướng chiến lược sẵn có của doanh nghiệp.
Các lợi ích của việc tái cơ cấu phải được kể tới như:
• Nắm bắt và tận dụng tốt hơn những cơ hội kinh doanh, vượt qua đc những thách
thức ngày càng khốc liệt, để sống còn trước những thay đổi mạnh mẽ trong mội trường
kinh doanh.
• Có đủ khả năng để thực hiện những công việc của mình một cách hiệu quả và bền
vững, thoả mãn những lợi ích nhiều khi xung đột nhau.
• Phát triển kinh tế.
Khi nào doanh nghiệp cần tái cấu trúc:
• Khi thiếu hụt các chiến lược và kế hoạch.
• Khi cơ cấu vốn, cơ cấu tài chính chưa phù hợp và thiếu các kiểm soát tài chính.
• Khi quản trị nguồn nhân sự yếu.
Các công việc cần làm khi tái cấu trúc:
• Điều chỉnh cơ cấu các hoạt động: điều chỉnh cơ cấu các mục tiêu chiến lược,
ngành nghề kinh doanh, chủng loại sản phẩm hàng hóa, địa bàn hoạt động.
• Điều chỉnh cơ cấu tồ chức bộ máy: tái bố từ phân công chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các bộ phận, các cấp quản lý, các chức danh.
• Điều chỉnh cơ cấu thể chế: điều chỉnh các cơ chế, chính sách thông qua sự rà soát,
thay đồi hợp lý hóa từ các quy trình công việc đến các quy chế, quy định.
Đào Thái Ngân – CQ491925 11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
• Điều chỉnh cơ cấu các nguồn lực: điêu chỉnh cơ cấu đầu tư tạo lập các nguồn lực
và tái phân bổ sử dụng các nguồn lực.
Khi tiến hành tái cấu trúc, doanh nghiệp có thể mắc phải rất nhiều sai lầm. Mua bán
và xử lý nợ đối với các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam cần chú ý để tránh mắc phải
một trong những sai lầm đáng tiếc có thể làm giảm hiệu quả của hoạt động này. Cụ thể
như sau:
• Không hiểu rõ những nguyên nhân, tồn tại dẫn tới việc phải tái cấu trúc. Việc áp
dụng một cách máy móc mô hình tái cấu trúc đã được thực hiện của những doanh nghiệp
có đặc thù hoàn toàn khác vào trường hợp của mình, khiến cho nhiều doanh nghiệp không

những tái cấu trúc không hiệu quả mà còn dẫn tới nhiều sai lầm nghiêm trọng hơn.
• Tái cấu trúc thiếu phương pháp và kế hoạch.
• Nôn nóng, đốt cháy giai đoạn mà nhiều doanh nghiệp quên mất rằng việc tái cấu
trúc doanh nghiệp là cá một quá trình lâu dài và gian khổ.
• Chưa chuẩn bị tinh thần cho nhân viên về một cuộc thay đổi.
1.3.2. Nhân tố bên trong
Tác động của các nhà quản trị: Các nhà quản trị phải chịu trách nhiệm rất cao trong
việc huy động và sử dụng nguồn vốn. Khi doanh nghiệp gặp phải các vấn đề tài chính, họ
thường không muốn công khai một cách minh bạch, do lo sợ ảnh hưởng tới hoạt động
cũng như các dự án đang tiến hành của doanh nghiệp. Điều đó, có thể sẽ khiến cho tình
hình của doanh nghiệp ngày càng khó cứu vãn, và hậu quả nặng nề nhất đó là dẫn đến phá
sản. Trong trường hợp này, nếu các nhà quản lý vẫn muốn duy trì hoạt động của doanh
nghiệp, họ phải cùng với bên chủ nợ của mình chấp nhận hợp tác với các công ty chịu
chấp nhận đứng ra mua bán các khoản nợ nhằm tiến hành cơ cấu lại nguồn vốn, tiếp tục
hoạt động sản xuất- kinh doanh của đơn vị mình. Từ đó, hoạt động mua bán và xử lý nợ
mới được tiến hành với các cơ quan chuyên môn theo nguyện vọng của doanh nghiệp.
Còn nếu doanh nghiệp chọn phương án tiêu cực hơn, đó là tuyên bố phá sản, thì hoạt
động mua bán nợ của doanh nghiệp sẽ không thể ra đời.
Đào Thái Ngân – CQ491925 12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ XỬ LÝ NỢ TẠI DATC
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DATC
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Để đẩy mạnh tiến trình sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước, góp phần lành mạnh hoá
tình hình tài chính của doanh nghiệp, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách về cơ cấu lại tài chính của doanh nghiệp Nhà nước,
trong đó có các quy định về xử lý nợ tồn đọng. Theo đó, doanh nghiệp có thể xử lý các
khoản nợ tồn đọng, thông qua hoạt động mua bán nợ. Sau khi được Nhà nước mở đường,
nhiều doanh nghiệp đã tìm được lối thoát, tránh khỏi phá sản, tiếp tục hoạt động sản xuất

kinh doanh.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
IX về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà
nước, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 109/2003/QĐ - TTg ngày 05/06/2003
thành lập Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, với vốn điều lệ là 2
tỷ đồng, do Ngân sách Nhà nước cấp và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2004,
được công nhận doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt theo Quyết định số 55/2004/QĐ -
TTg ngày 06/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu xử lý các khoản nợ tồn đọng
và tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, vật tư ứ đọng kém, mất phẩm chất (gọi tắt là nợ
và tài sản tồn đọng), góp phần lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp, thúc
đẩy quá trình sắp xếp và chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước.
Năm 2010, Công ty đã đệ trình Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính phê duyệt kế
hoạch chuyển đổi loại hình kinh doanh sang Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên,
và đổi tên gọi thành “Công ty Mua bán nợ Việt Nam”.
Kể từ khi thành lập tới nay, với tiềm năng sẵn có với sự nhiệt huyết, sáng tạo của
đội ngũ cán bộ nhân viên và sự nhạy bén, dày dạn kinh nghiệm từ Ban Lãnh đạo, Công ty
đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, đổi mới, ngày một lớn mạnh với từng bước đi vững
chắc, gây dựng niềm tin ở các nhà đầu tư, tạo sự tín nhiệm đối với khách hàng, đáp ứng
được những mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Chính phủ đã đề ra. Hiện nay, phạm vi
hoạt động của Công ty đã được mở rộng, ngoài Trụ sở chính tại Hà Nội còn có thêm Chi
nhánh, Trung tâm tại Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh và các đơn vị thành viên khác trên
khắp địa bàn trong cả nước.
Đào Thái Ngân – CQ491925 13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
2.1.2. Mục tiêu hoạt động
• Hỗ trợ các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại lành mạnh hóa tình hình
tài chính trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua hoạt động mua
bán nợ.
• Góp phần giải quyết những tồn tại về tài chính nhằm thúc đẩy quá trình sắp
xếp, cổ phần hóa, giao, bán, khoán và cho thuê doanh nghiệp thông qua việc xử

lý các khoản nợ tồn đọng trước khi thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp; xử lý các
khoản nợ được loại trừ khi xác định giá trị doanh nghiệp.
• Thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường nợ, tạo thêm nguồn hàng
cho thị trường tài chính. Qua đó thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
trong nền kinh tế quốc dân đi đôi với việc tạo lập khung pháp luật đảm bảo sự quản
lý và giám sát của Nhà nước.
• Xây dựng mô hình mẫu và định hướng cho việc hình thành và phát triển của
một số định chế tài chính trung gian (thuộc các thành phần kinh tế) như các công ty
mua bán nợ, dịch vụ đòi nợ, các công ty dịch vụ tư vấn tài chính.
2.1.3. Lĩnh vực kinh doanh của công ty
 Mua các khoản nợ và tài sản tồn đọng của các doanh nghiệp (bao
gồm cả tài sản và quyền sử dụng đất được sử dụng để đảm bảo cho khoản nợ) bằng
các hình thức thoả thuận trực tiếp, đấu giá, hoặc theo chỉ định của các cấp có thẩm
quyền.
 Tiếp nhận, xử lý các khoản nợ và tài sản đã loại trừ không tính vào
giá trị doanh nghiệp khi tiến hành chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước.
 Xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng đã mua và tiếp nhận bằng các
hình thức sau:
- Tổ chức đòi nợ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tài chính trung gian.
- Bán các khoản nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (bao gồm cả tài sản và
quyền sử dụng đất (được sử dụng để đảm bảo cho khoản nợ) bằng các hình thức thoả
thuận trực tiếp, đấu thầu, đấu giá.
- Sử dụng các khoản nợ và tài sản đã mua, tiếp nhận để đầu tư dưới các hình thức:
Góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh, hợp tác kinh doanh.
 Bảo quản, sửa chữa, nâng cấp tài sản đã mua, tiếp nhận để bán, cho thuê,
đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh, liên doanh khai thác tài sản. Huy động vốn
Đào Thái Ngân – CQ491925 14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
bằng hình thức phát hành trái phiếu mua nợ để mua một khoản nợ nhất định có giá
trị lớn, có tài sản đảm bảo.

 Tư vấn, môi giới xử lý nợ và tài sản tồn đọng:
- Tư vấn, môi giới cho các doanh nghiệp đòi nợ và xử lý các khoản nợ, tài sản tồn
đọng.
- Tư vấn xây dựng cơ chế, chính sách liên quan đến việc xử lý, cơ cấu lại các khoản
nợ để làm lành mạnh tài chính và sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp theo yêu cầu
của doanh nghiệp hoặc theo nhiệm vụ Nhà nước giao.
 Được sử dụng vốn để đầu tư bằng các hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu,
góp vốn liên doanh và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
 Tái cơ cấu doanh nghiệp và cung cấp dịch vụ tài chính cho nền kinh tế.
 Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước để thúc đẩy xử lý nợ.
 Kinh doanh những ngành nghề khác theo quy định của pháp luật.
2.1.4. Sự cần thiết phải có hoạt động mua bán và xử lý nợ của DATC đối với
các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam
Doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam được hưởng rất nhiều ưu đãi về đất đai, về
vốn, thị trường. Số lượng các doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam không lớn nhưng quy
mô cả về vốn và lao động lớn hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(không kể các doanh nghiệp nước ngoài hay có vốn đầu tư nước ngoài).
Theo như ghi nhận, có khoảng 89% doanh nghiệp Nhà nước có địa điểm kinh doanh
ở địa điểm cố định, hay nói cách khác mặt bằng dành cho doanh nghiệp Nhà nước gần
như được cấp sẵn, trong khi đó, các doanh nghiệp ngoài Nhà nước thì có tới 51% số
doanh nghiệp phải sử dụng nhà ở và 31% số doanh nghiệp phải đi thuê địa điểm làm mặt
bằng sản xuất – kinh doanh.
Mặc dù được hưởng rất nhiều ưu đãi để tiến hành sản xuất – kinh doanh, song cơ
cấu trong tổng doanh thu cả nước của doanh nghiệp Nhà nước chỉ ở mức thấp. Ngoài ra,
cơ cấu trên tổng lao động của doanh nghiệp Nhà nước cũng không cao. Theo số liệu từ
Tổng Cục thống kê, trong tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế, đóng góp
của doanh nghiệp Nhà nước chỉ ở mức 27% trong năm 2008. Ngoài ra, doanh nghiệp Nhà
nước cũng không tạo thêm công ăn việc làm, làm mất đi hơn 182.000 việc làm từ năm
2000 tới 2006. Giá trị sản xuất công nghiệp doanh nghiệp Nhà nước tạo ra cũng chỉ chiếm
20% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các thành phần kinh tế.

Đào Thái Ngân – CQ491925 15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, thành tích nộp Ngân sách Nhà nước của doanh
nghiệp Nhà nước cũng khá khiêm tốn. Từ năm 2000 tới 2008, thu Ngân sách từ các doanh
nghiệp Nhà nước giảm từ 21,7% xuống còn 16,43%.
Theo Báo Lao Động số ra ngày 06/11/2009, đã có bài nói về thực trạng của các
doanh nghiệp Nhà nước như sau: “Về hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, theo báo
cáo có tới 45,05% các tập đoàn, Tổng Công ty hoạt động hiệu quả thấp (tỉ suất lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu dưới 10%”. Có thể thấy, chính điều này làm ảnh hưởng đến hiệu quả
chung của khu vực kinh tế Nhà nước.
So sánh với các loại hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp ngoài Nhà nước, các
doanh nghiệp có vốn FDI thì hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của Nhà nước tại Tập đoàn,
Tổng Công ty còn thấp, chưa tương xứng với quy mô, nguồn lực tài chính của Nhà nước,
vị trí và vai trò trong nền kinh tế.
Cơ cấu trên tổng lao động của doanh nghiệp Nhà nước cũng không cao, năm 2005 là
32,67%, 2006 là 28,29% và 2007 là 23,88%.
Tóm lại: Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước chưa cao, chưa tương
xứng với quy mô, vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế.
Việc sản xuất- kinh doanh không hiệu quả chính là nguyên nhân dẫn tới tình trạng
nợ nần của các doanh nghiệp Nhà nước.
Trong năm 2009, năm mà cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính toàn cầu diễn ra với
những hậu quả rất nhanh, mạnh và ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam, theo
báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội ngày 01/11/2010 thì nợ của 81/91 Tập đoàn, Tổng
Công ty Nhà nước (chưa tính Vinashin) là 813.435 tỷ đồng, tương đương với 49% GDP.
Đặc biệt, những doanh nghiệp Nhà nước bị tác động nhiều nhất của khủng hoảng nằm
trong nhóm: chế biến nông- lâm- thủy sản, xuất khẩu, xây dựng, giao thông, vì khi khủng
hoảng thì luồng tiền vào doanh nghiệp này giảm đi rất lớn, hàng hóa không thể xuất khẩu
được. Nếu tính cả nợ của Vinashin, theo Báo cáo của Bộ Tài chính là 86.000 tỷ đồng, thì
nợ của khu vực doanh nghiệp Nhà nước đến cuối năm 2009 (không kể chín Tập đoàn,
Tổng Công ty chưa có số liệu) đã lên tới 54,2% GDP năm 2009.

Nhìn vào những số liệu trên, có thể thấy nợ của cả doanh nghiệp Nhà nước và Chính
phủ đều tăng rất nhanh trong một thời gian rất ngắn, trong đó mức tăng nợ của khu vực
doanh nghiệp Nhà nước thật sự đáng lo ngại. Đối với hệ thống ngân hàng, theo thống kê,
quy mô nợ xấu khoảng 60-70 tỷ đồng. Nếu theo tiêu chuẩn quốc tế có thể còn cao hơn.
Nhưng điều đáng chú ý, đa số khoản nợ này lại nằm trong các ngân hàng thương mại Nhà
nước và khách nợ chủ yếu vẫn là doanh nghiệp Nhà nước.
Đào Thái Ngân – CQ491925 16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
Nếu nhìn vào con số tuyệt đối, sau khi trừ đi các khoản nợ nước ngoài và với những
tính toán thận trọng nhất thì trong năm 2009, khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm
không dưới 60% trong tổng tín dụng nợ nội địa tăng thêm của toàn nền kinh tế. Đây là
bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp Nhà nước là đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất
từ chương trình hỗ trợ lãi suất và kích cầu của Chính phủ năm 2009.
Trong cơ cấu vốn của các doanh nghiệp Nhà nước, khi nợ tồn đọng của các doanh
nghiệp còn ở mức khá cao, khả năng trả nợ thấp, gây nên hệ số nợ và rủi ro của doanh
nghiệp tăng cao. Nợ và tài sản tồn đọng là một thực trạng nan giải, gây cản trở và làm
giảm hiệu quả của tiến trình chuyển đổi hình thức sở hữu và cải cách doanh nghiệp Nhà
nước.
Theo một cách tiếp cận khác để đánh giá các khoản nợ của doanh nghiệp Nhà nước,
số nợ phải trả của doanh nghiệp Nhà nước thường gấp 1,2-1,5 lần vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp, thậm chí có nhiều doanh nghiệp nợ gấp vài lần đến hàng chục lần vốn chủ
sở hữu. Số nợ phải thu cũng chiếm từ 50-60% vốn chủ sở hữu, đặc biệt nợ khó đòi chiếm
đến 15-20% lợi nhuận hàng năm, nhưng lại không được ghi đầy đủ trong sổ sách kế toán
doanh nghiệp. Đến thời điểm này, việc xử lý các khoản nợ tồn đọng của khối doanh
nghiệp Nhà nước mà Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước đưa ra biện pháp chủ yếu vẫn là
giãn nợ, khoanh nợ.
Ví dụ: Các Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ Giao thông Vận
tải là nhóm doanh nghiệp có số nợ quá hạn lớn nhất, kéo dài nhất và nan giải đối với các
ngân hàng thương mại. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ, công
trình giao thông, xây dựng, chế biến nông sản, may mặc, cung ứng vật tư nông nghiệp, in

ấn và bao bì, mía đường cũng có số nợ quá hạn ở mức cao. Tính đến ngày 31/12/2008,
một số đơn vị có tỷ lệ tổng nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu trên 10 lần là: Tổng Công ty
Xây dựng công trình giao thông 1 (21,6 lần), Tổng Công ty lắp máy Việt Nam (17,4 lần),
Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 4 (14 lần), Tổng Công ty Thành An (13,9
lần), Tổng Công ty Xây dựng công nghiệp Việt Nam (12,9 lần), Tổng Công ty Cổ phần
Xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam (12,2 lần), Tổng Công ty Xây dựng Công trình
Giao thông 8 (12 lần), Tổng Công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng (11,3 lần), Tập đoàn
Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam Vinashin (10,9 lần).
Những nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên tại doanh nghiệp Nhà nước là:
* Tính kém minh bạch trong công bố thông tin. Trong các doanh nghiệp Nhà nước ở
nước ngoài, công khai thông tin về tình hình tài chính và tình hình hoạt động một cách
đầy đủ và thường xuyên như một doanh nghiệp niêm yết, chịu sự giám sát, chất vấn từ
Đào Thái Ngân – CQ491925 17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
các cổ đông thông qua nhiều hình thức, thì tại Việt Nam, chưa có cơ chế để doanh nghiệp
Nhà nước phải công bố báo cáo tài chính lên website và các phương tiện thông tin đại
chúng, trừ lĩnh vực tài chính- ngân hàng. Rất ít có doanh nghiệp Nhà nước tự nguyện
công bố báo cáo tài chính lên website, và do đó rất khó nắm bắt được tình hình tài chính
và tình hình hoạt động một cách chi tiết.
* Nguyên nhân từ các nhà quản lý doanh nghiệp: như năng lực yếu kém. Đội ngũ
cán bộ trong nhiều doanh nghiệp Nhà nước thiếu những kiến thức căn bản trong quản lý
và điều hành, trình độ chuyên môn không đáp ứng được nhu cầu công việc. Sự bao cấp và
cơ chế điều hành mang nặng tính hành chính của Nhà nước khiến cho nhiều doanh nghiệp
ỷ lại, thiếu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mình. Cơ cấu tài
chính của doanh nghiệp Nhà nước không hợp lý có một phần lỗi từ các nhà quản lý.
Đối với vấn đề huy động vốn, trong khi doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam có thể
được Nhà nước cấp vốn và không thể huy động được vốn cổ phần thì ở nước ngoài doanh
nghiệp Nhà nước có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn từ cổ đông Nhà nước và tư
nhân, vì hầu hết doanh nghiệp Nhà nước đều là những doanh nghiệp lớn và phải thực hiện
niêm yết. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu chỉ phụ thuộc vào nợ vay, mà không chú ý

tới việc tự chủ tài chính và cân đối các khoản mục trong cơ cấu nguồn vốn của mình.
* Quản lý vĩ mô không nhất quán, gây cản trở cho sự phát triển doanh nghiệp. Tại
Việt Nam, tiến trình ra quyết định của doanh nghiệp Nhà nước hiện cũng ghi nhận sự
khác biệt đáng kể. Tại Việt Nam, những quyết định quan trọng phải xin phê chuẩn từ cơ
quan đại diện Nhà nước và tiến trình thông qua quyết định mất nhiều thời gian. Trong khi
ở nước ngoài, Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối những hoạt động như một cổ đông lớn
và cổ đông nhỏ lẻ có thể phủ quyết những quyết định không có lợi cho doanh nghiệp hoặc
cho họ.
Hậu quả trực tiếp của những tồn tại trên, đó là việc các doanh nghiệp Nhà nước đưa
ra các quyết định đầu tư kém hiệu quả, nợ chồng lên nợ.
Các doanh nghiệp nhà nước cần phải đánh giá tình trạng nợ tại các doanh nghiệp
một cách toàn diện, chặt chẽ và nghiêm túc để có thể kiểm soát thời điểm doanh nghiệp
bắt đầu rơi vào tình trạng khó khăn trong việc thực hiện các nghĩa vụ nợ. Cơ chế chủ
quan đã ngày càng bộc lộ những nhược điểm lớn kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế
Việt Nam.
Lịch sử đã cho thấy, các cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997-1998 và
khủng hoảng toàn cầu hiện này cũng có nguyên nhân từ các khoản nợ xấu. Nếu Nhà nước
tiếp tục để tình trạng các doanh nghiệp Nhà nước tồn tại kém hiệu quả, nợ đọng tràn lan
Đào Thái Ngân – CQ491925 18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
sẽ gây nguy hại cho nền kinh tế. Thực trạng này dẫn tới một yêu cầu bức thiết đó là tái
cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước, mà trong đó, đa dạng hóa sở hữu của doanh nghiệp Nhà
nước chính là biểu hiện sinh động nhất.
Tuy nhiên, nhìn vào hiện trạng các doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp
chưa đủ điều kiện để Cổ phần hóa do âm vốn, hoặc có những doanh nghiệp tuy đã Cổ
phần hóa xong nhưng hết vốn và nợ nần chồng chất. Theo Hiệp hội Các nhà đầu tư tài
chính (VAFI), tại Việt Nam, số lượng doanh nghiệp Nhà nước hiện có trên 1.000 doanh
nghiệp không cổ phần hóa, trong khi đó các nước phát triển (như nhóm G7) còn rất ít
doanh nghiệp Nhà nước hoặc chỉ tồn tại ở những lĩnh vực cực kỳ quan trọng như dầu khí,
xăng dầu, vận tải công cộng.

Để tiến hành Cổ phần hóa thành công, các doanh nghiệp Nhà nước, vấn đề ở đây là
cần xử lý xong âm vốn chủ sở hữu (mà nguyên nhân chính dẫn đến là nợ vay quá lớn).
Hoạt động mua bán nợ của DATC đặc biệt hiệu quả với các doanh nghiệp Nhà nước
không đủ điều kiện Cổ phần hóa, hoặc đã Cổ phần hóa không triệt để nhưng có tiềm năng
phát triển. Do đó, có thể nói rằng, DATC đã góp phần rất lớn vào việc cứu nhiều doanh
nghiệp sắp phá sản.
2.2. QUY TRÌNH CHUNG TRONG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ XỬ LÝ NỢ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỦA DATC
2.2.1. Nguyên tắc thực hiện
* Hồ sơ của chủ nợ, chủ tài sản đề nghị bán nợ gửi cho Công ty hoặc các Chi nhánh,
trung tâm thuộc Công ty phải tuân theo đúng thủ tục đã được đề ra đối với các văn bản
đến.
* Các cá nhân đơn vị tham gia hoạt động mua, xử lý nợ phải chủ động tiếp cận
thông tin, khai thác thị trường mua, xử lý nợ.
* Các khoản nợ được xem xét xây dựng phương án mua, xử lý (trừ trường hợp
mua, bán theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ) phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
Khoản nợ có hồ sơ đảm bảo tính pháp lý, không có tranh chấp, khách nợ phải còn tồn tại
và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
* Trong thời hạn tối đa 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị bán
nợ hoặc tài sản của khách hàng, cá nhân được giao nhiệm vụ xử lý hồ sơ mua, xử lý nợ
chủ động liên hệ với các bên có liên quan thu thập thông tin cần thiết theo quy định để
xây dựng phương án mua, xử lý nợ báo cáo Trưởng phòng, Giám đốc chi nhánh, Giám
Đào Thái Ngân – CQ491925 19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
đốc trung tâm xem xét, quyết định theo phân cấp của Tổng giám đốc hoặc trình Tổng
giám đốc xem xét, quyết định để trả lời bằng văn bản cho khách hàng.
* Trường hợp khách hàng có nhu cầu mua bán nợ liên hệ trực tiếp với Công ty, cá
nhân được giao tiếp khách hàng có trách nhiệm giới thiệu, giải thích rõ cho khách hàng về
trình tự, thủ tục mua bán, xử lý nợ.
* Việc thành lập DATC thực chất không phải là để Nhà nước xoá nợ cho các doanh

nghiệp Nhà nước làm ăn không hiệu quả.
Kinh doanh hoạt động mua bán nợ là loại hình kinh doanh khá là phức tạp, đặc biệt
là khi khoản nợ được mua bán vốn đã là các khoản nợ xấu- việc mua nợ gắn với việc cơ
cấu lại doanh nghiệp. Mua bán nợ và sau đó cơ cấu lại doanh nghiệp khách nợ là hoạt
động kinh doanh của DATC, vì vậy hiệu quả kinh tế phải được đặt lên hàng đầu, mọi
phương án mua bán nợ và tái cơ cấu doanh nghiệp đều được DATC nghiên cứu kỹ để
đảm bảo đạt được hiệu quả, không để xảy ra tình trạng doanh nghiệp tiếp tục hoạt động
không có hiệu quả sau khi được tái cơ cấu lại. Có nhiều tiêu chí cần phải được xem xét
trước khi quyết định mua bán nợ:
Một là, doanh nghiệp có tiềm năng phát triển và có thể phát triển có hiệu quả nếu
được hỗ trợ giải quyết những khó khăn tạm thời đang gặp phải.
Hai là, doanh nghiệp và các cơ quan liên quan (như các chủ nợ khác, cơ quan chủ
quản của doanh nghiệp) sẵn sàng hợp tác với DATC trong việc áp dụng các biện pháp
thích hợp nhằm xử lý khó khăn cho doanh nghiệp, để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại, phát
triển có hiệu quả hơn.
Ba là, phải xem xét tác động tích cực đối với xã hội của việc mua và xử lý nợ (như
việc góp phần thúc đẩy quá trình sắp sếp lại, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước,
tạo công ăn việc làm cho một bộ phận lớn người lao động, ổn định chính trị - xã hội)
DATC đã phân loại 2 hình thức mua, bán nợ nói chung. Đó là:
• Mua, bán nợ theo thoả thuận: đối với hình thức này, DATC, các chủ nợ
trực tiếp liên hệ nhau để tìm hiểu nhu cầu mua, bán nợ, việc mua bán nợ được thực
hiện trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa hai bên. Việc mua, bán nợ thực hiện theo cơ
chế thị trường, giá cả được thực hiện theo phương thức thỏa thuận, đấu giá, đấu
thầu. Khi mua các khoản nợ và tồn đọng theo hình thức thoả thuận, Công ty Mua
bán nợ được quyền chủ động sử dụng nguồn vốn hoạt động của mình để tiến hành
kinh doanh theo nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Các hình thức xử
lý nợ trong mua bán nợ theo thoả thuận là: xử lý nợ thông qua xử lý các tồn tại tài
chính và tái cơ cấu doanh nghiệp, chuyển nhượng tài sản đảm bảo để thanh toán nợ
Đào Thái Ngân – CQ491925 20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú

do khách nợ tự thực hiện hoặc phối hợp cùng Công ty thực hiện, bán nợ thông qua
đấu giá hoặc thoả thuận, thu nợ theo phương án thoả thuận với khách nợ, thu hồi nợ
có chiết khấu, hoán đổi nợ lấy tài sản, thoả thuận để khách nợ hoán đổi nghĩa vụ trả
nợ cho bên thức ba, cơ cấu lại giá trị và thời gian trả nợ, kể cả việc ân hạn nợ gốc và
lãi với lãi suất ưu đãi, chuyển nợ thành vốn góp cổ phần theo thoả thuận, chứng
khoán hoá khoản nợ, khởi kiện ra Toà án để áp dụng các biện pháp tố tụng thu hồi
nợ.
• Mua, bán nợ theo chỉ định: đây là hình thức mua bán nợ được thực hiện khi
có sự ban hành chỉ thị bằng văn bản của Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp có thẩm
quyền chỉ định đối tượng bán nợ. DATC sẽ liên hệ với chủ nợ, đề nghị cung cấp các
hồ sơ cần thiết liên quan tới khoản nợ. Công ty Mua bán nợ chỉ là người đại diện cho
Nhà nước để quản lý, theo dõi, đề xuất và thực hiện các biện pháp xử lý cụ thể đối
với khoản nợ đã mua nhằm thu hồi lại phần vốn mà Nhà nước phải bỏ ra để chỉ định
việc mua bán nợ.
Còn trong hoạt động xử lý nợ, DATC tập trung chủ yếu vào thực hiện ba hình
thức. Cụ thể như sau:
• Tổ chức thu hồi nợ thông qua các biện pháp đòi nợ, phát mại tài sản.
• Tái cơ cấu lại doanh nghiệp khách nợ để giúp doanh nghiệp khôi phục lại
hoạt động sản xuất- kinh doanh, tạo nguồn trả nợ.
• Bán nợ để chủ nợ mới thực hiện thu hồi nợ.
Việc áp dụng biện pháp nào trong các biện pháp xử lý nợ nêu trên sẽ tùy thuộc vào
đặc điểm, trình độ môi trường pháp lý và tập quán kinh doanh của mỗi nước cũng như
điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn của nền kinh tế. Ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, biện pháp xử lý khoản nợ đã mua bán gắn với tái cơ cấu lại doanh nghiệp khách nợ
là biện pháp có tính khả thi cao, đảm bảo thực hiện tốt nhất mục tiêu hoạt động của Công
ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng nói riêng và mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước nói
chung.
2.2.2. Quy trình mua bán và xử lý nợ
Quy trình mua bán và xử lý nợ được tiến hành với nhiều bước và thủ tục tuân theo
đúng những nguyên tắc đã được đề ra. Song, có thể tóm tắt quy trình đó thông qua các

bước chủ yếu sau đây:

Đào Thái Ngân – CQ491925 21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
2.2.2.1. Khảo sát doanh nghiệp để đánh giá tiềm năng phát triển và khả năng tái cơ
cấu (đối với các khoản nợ có phương án xử lý gắn với tái cơ cấu), sau đó đàm phán với
ngân hàng để ký hợp đồng mua bán nợ.
Trong bước này, DATC sẽ tiến hành thu thập, kiểm tra hồ sơ khoản nợ. Đối với mua
bán nợ theo thoả thuận, hồ sơ khoản nợ bao gồm: các tài liệu chứng minh quyền sở hữu
khoản nợ, các biện pháp đảm bảo cho khoản nợ, báo cáo tài chính của khách nợ 03 năm
trước, liền kề (nếu có) hoặc báo cáo tài chính tại thời điểm gần nhất kể từ thời điểm chào
bán nợ của chủ nợ, hồ sơ pháp lý của khách nợ, các giấy tờ khác liên quan tới khoản nợ.
Đối với mua bán nợ theo chỉ định, hồ sơ khoản nợ bao gồm: phương án trình cấp có
thẩm quyền về việc bán nợ theo chỉ định, văn bản đề nghị bản nợ, các tài liệu được yêu
cầu trong hình thức mua bán nợ theo thoả thuận.
Tiếp theo, DATC sẽ tiến hành thu thập thông tin về tài sản, qua việc tiếp xúc với
chủ nợ, chủ tài sản, khách nợ và các cơ quan hữu quan. Sau khi kết thúc quá trình này,
DATC sẽ lập phương án sơ bộ để mua khoản nợ. Hợp đồng mua bán nợ sẽ được đàm
phán, ký kết đồng thời với việc chuyển giao quyền sở hữu khoản nợ đó. Việc ký kết này
phải được thông báo cho tất cả các bên có liên quan tới khoản nợ được biết.
2.2.2.2. Tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp (nếu là doanh nghiệp Nhà nước)
hoặc kiểm toán độc lập (nếu là công ty cổ phần) để làm rõ những tồn tại tài chính cần xử
lý. Bước này chỉ áp dụng đối với những quy trình xử lý nợ gắn với tái cơ cấu doanh
nghiệp.
Tiếp sau đó, đối với doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước: DATC sẽ giảm trừ trách
nhiệm trả nợ tương ứng với số âm vốn chủ sở hữu trên cơ sở giá trị doanh nghiệp đã được
kiểm toán. Đối với doanh nghiệp khác, dựa vào kết quả kiểm toán mà áp dụng các hình
thức xử lý như: giảm trừ trách nhiệm trả nợ tương ứng với số lỗ luỹ kế của doanh nghiệp,
giảm trừ trách nhiệm trả nợ tương ứng số âm vốn chủ sở hữu, giảm trừ trách nhiệm trả nợ
tương ứng với phần nợ lãi phát sinh từ số nợ gốc mua từ chủ nợ cũ.

2.2.2.3. Lập phương án xử lý nợ và tái cơ cấu (đối với xử lý nợ gắn với tái cơ cấu
doanh nghiệp) theo mẫu.
Trong phương án này, phải chứa các nội dung phù hợp với quy trình xử lý nợ đã
được lựa chọn. Nếu chọn xử lý nợ bằng hình thức chuyển nhượng tài sản bảo đảm để
thanh toán nợ, thì phương án phải bao gồm các thông tin về khoản nợ, thông tin chi tiết về
tài sản, cách thức xử lý tài sản, đề xuất chi phí xử lý tài sản, phương thức chuyển nhượng
Đào Thái Ngân – CQ491925 22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
tài sản, đề xuất giá khởi điểm và định giá tài sản trên cơ sở kết quả thẩm định và định giá
của các tổ chức, cơ quan chức năng, kèm theo cơ sở pháp lý cho việc chuyển nhượng
Nếu chọn xử lý nợ bằng hình thức bán nợ, phương án phải gồm các nội dung sau:
thông tin về khoản nợ, thông tin chi tiết về tài sản đảm bảo (nếu có), cơ sở pháp lý cho
việc bán nợ, phương thức bán nợ, đề xuất giá khởi điểm và định giá khoản nợ.
2.2.2.4. Phê duyệt phương án xử lý nợ và phương án tái cơ cấu (đối với xử lý nợ gắn
với tái cơ cấu doanh nghiệp) để thực hiện.
Việc trình duyệt phương án phải được thực hiện theo quy trình chung của Công ty
Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, thực hiện từ các nhân xử lý hồ sơ trực
tiếp tới Trưởng đơn vị và từ Trưởng đơn vị đến Tổng giám đốc. Trước khi trình Tổng
giám đốc, các phương án do Chi nhánh, Trung tâm xây dựng phải có ý kiến thẩm định
của đơn vị đầu mối theo phân công của Tổng giám đốc. Tổng giám đốc có thể trực tiếp ký
trình hoặc uỷ quyền cho cấp phó hay Trưởng đơn vị ký trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt phương án.
2.3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ XỬ LÝ NỢ ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỦA DATC
2.3.1. Những thành tựu đã đạt được của DATC trong hoạt động mua bán và xử
lý nợ đối với doanh nghiệp Nhà nước
Do đặc thù của nền kinh tế Việt Nam,cùng với những chủ trương của Đảng và Nhà
nước, hoạt động của DATC tập trung phần lớn vào việc giúp đỡ các doanh nghiệp Nhà
nước trong công cuộc tái cấu trúc. Nguyên nhân sâu xa ở đây là do:
* Những khoản nợ Ngân hàng muốn bán trên thực tế đều là những khoản nợ đã

được ngân hàng sử dụng các biện pháp đòi nợ, phát mại tài sản nhưng vẫn không thực
hiện được. Vì vậy, mục tiêu mua nợ để sau đó đòi nợ, phát mại tài sản là hoạt động rất
khó thực hiện trên thực tế. Số lượng khoản nợ có thể thực hiện được với mục đích này sẽ
không nhiều, nên nó không thể góp phần vào xử lý dứt điểm các khoản nợ và tài sản tồn
đọng của các ngân hàng và doanh nghiệp Nhà nước. Mặt khác, mua nợ để xử lý theo hình
thức này nếu thực hiện được chỉ có tác dụng giúp các chủ nợ sớm thu hồi được vốn,
nhưng chưa có tác dụng giúp các doanh nghiệp khách nợ khắc phục được những tồn tại
tài chính nên chưa thực sự góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính, thúc đẩy quá trình
sắp xếp và chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước.
Đào Thái Ngân – CQ491925 23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
* Hiện nay thị trường mua bán nợ ở nước ta chưa phát triển, nên việc tìm người mua
để bán lại nợ là rất khó khăn. Như vậy, cũng tương tự như việc mua nợ để sau đó đòi nợ,
phát mại tài sản, việc mua nợ để sau đó bán lại có tính khả thi rất thấp, không thực sự đáp
ứng được mục tiêu mà DATC đã đề ra.
* Khi xử lý nợ theo phương án tái cơ cấu doanh nghiệp thì DATC sẽ giúp được
doanh nghiệp khách nợ cơ cấu lại tài chính để đảm bảo cho doanh nghiệp có vốn tiếp tục
hoạt động, đủ điều kiện để chuyển đổi sở hữu thông qua việc giảm một phần nghĩa vụ trả
nợ và chuyển nợ thành vốn góp tại doanh nghiệp, đồng thời DATC tìm kiếm các nhà đầu
tư chiến lược tham gia đầu tư vốn, hỗ trợ về kỹ thuật và quản lý để giúp doanh nghiệp cơ
cấu lại tổ chức bộ máy quản lý và hoạt động sản xuất- kinh doanh để doanh nghiệp có thể
phát triển có hiệu quả sau khi được chuyển đổi sở hữu, từ đó có nguồn trả nợ. Biện pháp
xử lý nợ này vừa giúp cho chủ nợ (thường là các ngân hàng thương mại Nhà nước) thu
hồi được vốn vay, từ đó góp phần đẩy nhanh quá trình Cổ phần hóa Ngân hàng thương
mại Nhà nước, vừa giúp cho doanh nghiệp khách nợ lành mạnh tài chính, tiếp tục tồn tại
và phát triển tốt hơn.
Hoạt động tái cơ cấu thông qua nghiệp vụ mua và xử lý nợ xấu là sự tương tác giữa
DATC với các doanh nghiệp. DATC tiến hành xử lý nợ xấu cho các doanh nghiệp thông
qua các hoạt động như sau :
* Giảm trừ một phần nghĩa vụ trả nợ và chuyển nợ thành vốn góp tại doanh nghiệp,

đây chính là bản chất của hoạt động mua bán và xử lý nợ của DATC đối với doanh
nghiệp. Đối với một doanh nghiệp doanh nghiệp thì một trong những điều kiện tiên quyết
để có thể Cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu được là phải xử lý triệt để số âm vốn chủ
sở hữu, bởi lẽ không nhà đầu tư nào sẵn sàng bỏ vốn ra để bù đắp những tổn thất tài chính
trước đó của doanh nghiệp mà người được lợi lại là chủ nợ của doanh nghiệp đó. Mặt
khác, đối với chủ nợ, số âm vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cũng chính là phần giá trị
các chủ nợ đã thực tế bị mất đi nếu thanh lý toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Như vậy,
việc miễn giảm một phần nghĩa vụ trả nợ cho doanh nghiệp khách nợ để doanh nghiệp đó
không còn âm vốn chủ sở hữu - xét về bản chất - thì chỉ là thủ tục mang tính hình thức, vì
đó chỉ là việc miễn giảm phần giá trị không còn tồn tại, cũng tương tự như việc đánh giá
lại giá trị của khoản nợ theo giá trị thị trường.
Tuy nhiên, việc miễn giảm này lại cho phép DATC quyền được chuyển nợ thành
vốn góp tại doanh nghiệp theo mức giá hợp lý, quyền được tái cơ cấu lại doanh nghiệp
đó. Như vậy, đây thực chất là sự trao đổi để Công ty có quyền đầu tư vào và quản lý
doanh nghiệp theo điều kiện phù hợp với Công ty. Điều này hoàn toàn khác với việc xóa
Đào Thái Ngân – CQ491925 24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp TS.Trần Thị Thanh Tú
nợ mà Nhà nước thực hiện đối với các tổ chức, cá nhân - một hình thức mà Nhà nước từ
bỏ quyền của mình đối với khoản nợ, nhưng không nhận lại bất kỳ quyền lợi nào khác từ
phía tổ chức, cá nhân được xóa nợ. Vấn đề đặt ra là việc miễn giảm này có phải là việc
hợp thức hóa những sai phạm dẫn đến những tổn thất tài chính trước đây ở doanh nghiệp
khách nợ hay không. Một điều rất rõ ràng là việc miễn giảm một phần nghĩa vụ trả nợ nêu
trên không làm thay đổi được quá khứ của doanh nghiệp, không làm thay đổi được số liệu
và hồ sơ tài liệu về hoạt động kinh doanh trước đây của doanh nghiệp khách nợ. Vì vậy,
các cơ quan quản lý Nhà nước vẫn có đầy đủ căn cứ để xem xét, đánh giá và truy cứu
trách nhiệm của những tổ chức, cá nhân đó sau khi doanh nghiệp khách nợ được miễn
giảm một phần nghĩa vụ trả nợ. Do vậy, để DATC có thể chuyển đổi sở hữu được những
doanh nghiệp Nhà nước đã âm vốn chủ sở hữu thông qua hoạt động mua bán nợ, thì việc
miễn giảm một phần nghĩa vụ trả nợ cho doanh nghiệp khách nợ cần được coi là thẩm
quyền cần thiết của DATC.

* Tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược tham gia đầu tư góp vốn.
* Hỗ trợ về kỹ thuật và quản lý để giúp doanh nghiệp cơ cấu lại tổ chức bộ máy
quản lý và hoạt động sản xuất- kinh doanh.
Kể từ thời điểm thành lập cho tới nay, DATC đã tiến hành mua bán và xử lý thành
công nhiều khoản nợ xấu, vực dậy nhiều doanh nghiệp bên bờ vực phá sản, giúp các
doanh nghiệp khách nợ lành mạnh hóa tài chính.
DATC được Chính phủ thành lập với chức năng chủ yếu là tiếp nhận, mua bán, xử
lý nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, nhằm góp phần thúc đẩy quá trình sắp xếp
lại, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng DATC không phải là một kênh để
tiếp tục thực hiện sự bao cấp của Nhà nước cho các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn
không hiệu quả. DATC là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính.
Trong hoạt động xử lý nợ, trước hết, DATC thường bắt đầu từ việc tái cấu trúc lại
vấn đề tài chính, cân đối lại, xác định lại quy mô, mời đối tác. Trên thực tế, cơ hội luôn đi
kèm rủi ro. Mặc dù những doanh nghiệp nhà nước được DATC cứu đều là những doanh
nghiệp đang “hấp hối”, nhưng đối với những doanh nghiệp này, họ vẫn có rất nhiều tiềm
năng phát triển nhưng họ không thể biến tiềm năng đó thành cơ hội để phát triển vì những
trục trặc tài chính, quản trị điều hành. Nếu tập trung tái cấu trúc thì cơ hội đó có thể sẽ
được hiện thực hóa.
Từ tháng 2/2004, DATC đã nhanh chóng triển khai các nhiệm vụ được giao ngay
sau lễ chính thức ra mắt thành lập công ty. Ngay từ khi mới đi vào hoạt động, DATC đã
chủ động làm việc với các Bộ, ngành, các địa phương và Tổng Công ty.
Đào Thái Ngân – CQ491925 25

×