Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

luận văn Các nhân vật Chèo trong các vở Chèo từ truyền thống đến hiện đại chỉ dưới góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.8 KB, 140 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của công trình
Nghệ thuật Chèo đã hiện hữu trong đời sống tinh thần của dân tộc
Việt Nam không phải một, hai thế hệ mà là lớp lớp thế hệ; không phải một hai
thế kỷ mà nhiều thế kỷ; không phải một hai nơi mà khắp cả vùng đồng bằng
châu thổ sông Hồng. Nó là kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người lao động, là
thành quả của trí tuệ dân gian, là công trình sáng tạo nghệ thuật thẩm mỹ, là
khát vọng về tự do, công bằng và lý tưởng nhân văn hướng tới chân - thiện -
mỹ.
Từ thập kỷ văn hóa những năm 80 của thế kỷ XX, người ta thường
nhắc đến văn hóa như là một động lực để phát triển xã hội và đòi hỏi ở tất cả
các lĩnh vực của đời sống của hoạt động con người một chất lượng, một trình
độ văn hóa hay nói đúng hơn là trên mọi lĩnh vực đều cần có một sự đòi hỏi
được văn hóa hóa.
Hơn một nửa thế kỷ qua, ngành Chèo đã có nhiều công trình nghiên
cứu về nghệ thuật Chèo một cách sâu sắc. Tuy nhiên việc nghiên cứu Chèo
chủ yếu vẫn dừng lại xung quanh những vấn đề của nghệ thuật Chèo (tìm
hiểu, khảo sát Chèo với tư cách là một nghệ thuật ) cũng có một vài nhà
nghiên cứu mở rộng phạm vi tìm hiểu của mình theo xu thế của thập kỷ văn
hóa, chẳng hạn nghiên cứu Chèo dưới góc nhìn triết học, đạo đức học nhưng
mới chỉ là tiểu luận lẻ tẻ mà chưa có một chuyên luận tìm hiểu Chèo dưới góc
nhìn văn hóa. Lý do của hiện tượng này có thể là giới nghiên cứu đã mặc
nhiên coi Chèo là một loại hình văn hóa (nghệ thuật), một lý do khác rất ngẫu
nhiên là các nhà nghiên cứu chưa hoặc là không quan tâm đến vấn đề này, và
điều đó đã tạo nên một khoảng trống khiến cho chúng tôi là người nghiên cứu
đi sau bước đầu mạnh dạn đi vào tìm hiểu. Bởi vì, khi nói đến những vấn đề
mà người đi trước đã nói thì rất khó mà tìm kiếm phát hiện ra những điểm
1
mới. Và trong quá trình nghiên cứu về Chèo đặc biệt là những vở Chèo hiện
đại, chúng tôi thấy là có một số vở diễn cần phải xem xét và bàn bạc trên khía
cạnh văn hóa, đúng hơn là trên những yếu tố văn hóa phi nghệ thuật như triết


học, đạo đức học, mỹ học chính vì thế mà công trình này đã mạnh dạn ra đời.
Trong sự vận động và phát triển không ngừng của xã hội, Chèo cần
phải đổi mới sáng tạo, nhưng để sáng tạo cách tân đạt được hiệu quả mong
muốn thì ngoài việc nhận thức đúng, quan điểm đúng, cần phải có một bản
lĩnh văn hóa vững vàng. Là người đã từng theo dõi thực tế nghệ thuật Chèo
nhiều năm, lại đã từng thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về
Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trên sân khấu Chèo truyền thống,
tôi nhận thấy rất rõ rằng, cần phải tiếp cận hiện tượng Chèo từ góc nhìn văn
hóa mới có khả năng đi sâu thấu hiểu, thâm nhập vào ý nghĩa bên trong và các
giá trị đích thực của đối tượng nghiên cứu (Chèo). Từ đó thấy rõ được
phương hướng động lực phát triển trong Chèo hôm nay. Bởi thế, việc nghiên
cứu nghệ thuật Chèo dưới góc nhìn văn hóa là một việc làm hết sức cần thiết
đến cấp thiết.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu của công trình
2.1. Đề cập đến vấn đề nhân vật Chèo, tuy chưa có công trình nào
chuyên sâu nghiên cứu vấn đề này một cách có hệ thống và toàn diện, nhưng
trong hầu hết các công trình nghiên cứu của các giáo sư, các nhà nghiên cứu
đầu ngành của làng Chèo như: GS. Trần Bảng, PGS. Hà Văn Cầu, nhạc sĩ
Hoàng Kiều, TS. Trần Đình Ngôn, PGS. Trần Trí Trắc đều khẳng định tầm
quan trọng của vấn đề nhân vật Chèo.
2.2. Một số công trình nghiên cứu lý luận có giá trị về Chèo cũng đã
có phần nào đứng từ góc nhìn văn hóa. Đáng kể nhất là các công trình: "Chèo -
một hiện tượng sân khấu dân tộc" của GS. Trần Bảng. Dù là một tác phẩm
nghiên cứu mang tính khái luận về Chèo, về các vấn đề lý luận cơ bản của
nghệ thuật Chèo, nhưng khi đề cập đến vấn đề Chèo - tiếng nói tâm hồn dân
tộc - ông cũng khẳng định: "Có thể nói rằng, thuộc về một loại sân khấu tổng
2
thể (theatre total) nghệ thuật Chèo đã hội tụ ở nơi mình tinh hoa của cả nền
văn hóa gốc gác lâu đời của lưu vực sông Hồng. Xuất phát từ một nghệ thuật
dân gian, Chèo đã nhanh chóng phát triển và phổ biến rộng rãi để trở thành

một sân khấu dân tộc mang màu sắc đa dạng của từng chiếng Chèo khác
nhau: Chèo Đông, Chèo Đoài, Chèo Kinh Bắc, Chèo Sơn Nam "
(1)
.
Hoặc trong một loạt những chuyên luận nghiên cứu với chủ đề "Đi
tìm bản sắc dân tộc trong Chèo từ góc nhìn văn hóa", nghiên cứu về Thi pháp
Chèo dưới sức ép thẩm mỹ của ý đồ giáo huấn đạo đức, PGS Tất Thắng cũng
có những đóng góp đáng kể trong việc chỉ ra những bản sắc dân tộc trong
việc xây dựng các nhân vật nữ, trong ngôn ngữ Chèo, trong các yếu tố Trò,
hoặc cụ thể hơn là trong một vai diễn Thị Mầu, một vai diễn Súy Vân Hiện
tượng Chèo chú trọng xây dựng các hình tượng nhân vật phụ nữ với quá trình:
tại gia - xuất gia - xa phu được PGS phân tích tìm hiểu từ ngọn nguồn: ý đồ
giáo huấn đạo đức cùng với sức ép thẩm mỹ của nó.
2.3. Ở lĩnh vực nghiên cứu các tác phẩm văn chương, từ việc đặt vấn
đề nghiên cứu với tính cách là một (những) sản phẩm tinh thần đa trị, đa chiều,
đa tầng nghĩa nhiều nhà nghiên cứu đã không còn thỏa mãn với việc khảo
sát tác phẩm bằng các tri thức của lý luận văn học mà cố gắng mở rộng môi
trường nghiên cứu thông qua thao tác vận dụng những lý thuyết có khả năng
hỗ trợ việc giải mã tác phẩm văn chương, sao cho có thể khám phá tác phẩm
ngày càng sâu sắc hơn, bản chất hơn như việc sử dụng thi pháp học, phân tâm
học, cấu trúc học chẳng hạn. Gần đây, tại hội thảo quốc tế với chủ đề Văn
học Việt Nam trong bối cảnh giáo lưu văn hóa khu vực và quốc tế do Viện
Văn học (Việt Nam) phối hợp với Harvad Senching Institute (Hoa Kỳ),
PGS.TS Đỗ Lai Thúy trong bản tham luận "Mối quan hệ văn hóa - văn học
nhìn từ lý thuyết hệ thống" đã đề xuất ý tưởng nghiên cứu văn chương từ
quan hệ giữa văn hóa với văn học; còn TS. Nguyễn Hòa thì cho rằng nên tiếp
cận văn hóa và văn chương từ quan hệ giữa "cái chung" và "cái riêng", theo
(
1) Trần Bảng (1993), Chèo - Một hiện tượng sân khấu dân tộc, Nxb Sân khấu, H Nà ội, tr. 6.
3

ông thì đây cũng là hướng tiếp cận mang tính chất triết học, trực tiếp giải
thích quan hệ biện chứng giữa văn hóa và văn chương.
Hướng nghiên cứu nghệ thuật từ góc độ văn hóa ở nước ta thực sự
chưa được chú trọng nhiều, tuy nhiên đó là một hướng nghiên cứu thực sự cần
thiết. Theo PGS.TS Phan Thu Hiền thì trong quá trình phát triển, nghệ thuật
học đã trải qua nhiều chặng đường và hướng nghiên cứu nghệ thuật từ góc độ
văn hóa "dần dà được manh nha từ thế kỷ XIX, Jacob Burckhardt nghiên cứu
nghệ thuật học từ hướng lịch sử văn hóa, xem nghệ thuật có vị trí chủ đạo
trong các bộ phận hợp thành của văn minh "
(1)
. Nghệ thuật không đơn giản
chỉ là bộ phận của văn hóa mà hơn thế, theo M. Kagan: "Nghệ thuật một mặt
trở thành sự "tự ý thức" của văn hóa, mặt khác, trở thành mã (code) văn hóa
của nó"
(2)
.
3. Giới hạn phạm vi đề tài
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các nhân vật Chèo trong các vở
Chèo từ truyền thống đến hiện đại chỉ dưới góc nhìn văn hóa.Cụ thể là các
yếu tố văn hóa xoay quanh các nhân vật Chèo.
4. Các nguồn tư liệu
- Từ các kịch bản và các vở diễn Chèo tiêu biểu.
- Từ các nghệ nhân
- Từ các nghệ sĩ biểu diễn (các vở Chèo truyền thống của các đoàn
Chèo trong cả nước).
- Từ các thư tịch và chứng tích lịch sử liên quan đến sân khấu Chèo
qua các thời kỳ.
- Từ phim ảnh tư liệu (Nhà hát Chèo)
(
1) Phan Thu Hiền, Văn hóa học nghệ thuật như một chuyên ng nh và ăn hóa học, Tạp chí Văn hóa nghệ

thuật, số 10/2006, tr. 10.
(
2) M. Kagan, Tiếp cận văn hóa để nghiên cứu nghệ thuật sân khấu, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, số 3/1983,
tr. 95
4
5. Phương pháp nghiên cứu
Công trình chọn lựa việc hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu đi từ diện
đến điểm làm phương pháp nghiên cứu chủ yếu.
Nhưng trên cơ sở thực tiễn của nghệ thuật Chèo truyền thống, một
nghệ thuật từ xa xưa, vốn là hình thức sân khấu được sáng tạo theo chu trình
mở: thế hệ này nối tiếp thế hệ kia và bổ sung, hoàn chỉnh để rồi lại làm cơ sở
cho thế hệ tiếp theo sáng tạo nên trong quá trình triển khai thực hiện, công
trình sẽ phải kết hợp cả phương pháp nghiên cứu tiếp cận liên ngành (triết
học, mỹ học, lịch sử, dân tộc học, xã hội học ).
6. Mục đích và đóng góp của công trình
Từ góc nhìn văn hóa, công trình đi tìm hiểu một số phương diện cần
thiết của nhân vật Chèo, qua đó để thấy được bản sắc văn hóa tiềm ẩn trong
nhân vật Chèo. Có thể nhận thấy rằng, ngày nay, việc tìm kiếm, phát hiện các
công cụ lý thuyết mới, xác lập những góc độ tiếp cận mới đối với nghệ thuật
sân khấu nói chung và đối với nghệ thuật Chèo nói riêng không phải là ý
muốn chủ quan của những người làm lý luận, nghiên cứu, đó là đòi hỏi tự
thân, là sự đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong sự khám phá các tác phẩm
cũng như từng loại hình nghệ thuật. Đây thực sự là một vấn đề nghiên cứu
vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Tiếp cận từ góc nhìn văn
hóa, ta có thể thấy rõ những nét đặc thù của Chèo không phải là những ngẫu
nhiên tùy hứng, mà chính là những đặc thù cơ bản, khoa học, đảm bảo cho
nghệ thuật Chèo tồn tại và phát triển. Vấn đề nghiên cứu rất hay nhưng khó,
người viết không hy vọng trong phạm vi một công trình nghiên cứu có thể
giải quyết được vấn đề ấy. Toàn bộ nội dung cơ bản của công trình mới chỉ
bước đầu khám phá và cắt nghĩa thế giới văn hóa tinh thần kết tinh trong các

hình tượng nhân vật Chèo, khẳng định vị thế văn hóa của nghệ thuật Chèo
trong đời sống xã hội hiện đại, đưa ra nhận định rằng, Chèo chỉ có thể đạt đến
5
những đỉnh cao nghệ thuật, những thành tựu nghệ thuật rực rỡ trên cơ sở đạt
đến một mặt bằng văn hóa cao, đó là những nội dung mà tác giả công trình cố
gắng lý giải, chứng minh. Hơn nữa, mỗi người sáng tạo đồng thời phải là một
nhà văn hóa hoặc ít ra là phải đạt được một vài tiêu chí văn hóa tối thiểu nào
đó. Ở đây chúng tôi cũng đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần gìn giữ bản
sắc nghệ thuật Chèo - niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
7. Kết cấu của công trình
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của công trình gồm 4 chương:
Chương 1: Nghệ thuật Chèo từ cội nguồn văn hóa.
Chương 2: Nhân vật Chèo truyền thống từ góc nhìn văn hóa.
Chương 3: Nhân vật Chèo hiện đại dưới góc nhìn văn hóa.
Chương 4: Phương tiện thể hiện hình tượng nhân vật Chèo từ góc
nhìn văn hóa
6
Chương 1
NGHỆ THUẬT CHÈO TỪ CỘI NGUỒN VĂN HÓA
1.1. TỪ ĐỊNH NGHĨA VỀ VĂN HÓA
Nhận thức luôn là một quá trình biến đổi không ngừng và ngày càng
tiếp cận chân lý. Trong khoa học xã hội hiện đại, khái niệm văn hóa gắn liền
với số lượng những khái niệm cơ bản và khó có thể tìm thấy một khái niệm
nào có nhiều sắc thái ngữ nghĩa đến thế. Cho đến nay, đã có đến hơn 500 định
nghĩa về văn hóa.
Từ mục đích của công trình, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến một định
nghĩa về văn hóa trong Từ điển Bách khoa Việt Nam: "Văn hóa là toàn bộ
những hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân dân một nước, một dân
tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ

nước. Khái niệm văn hóa hiểu theo nghĩa nhân văn rất rộng. Nguyên tổng
giám đốc UNESCO, ông Mayo (F.Mayor), đưa ra một khái niệm văn hóa vừa
mang tính khái quát vừa có tính đặc thù: "Văn hóa bao gồm tất cả những gì
làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện
đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động". Khái
niệm này được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về
các chính sách văn hóa tại Vơnidơ 1970"
(1)
.
Như thế, văn hóa chính là cốt lõi sáng tạo của trí tuệ và tâm hồn của
mỗi dân tộc, là tính năng động đầy sáng tạo được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, nó thâu tóm, xác định bản thể và sự tiến triển của một dân tộc đã
được xác định. Văn hóa của mỗi một dân tộc đều có một bản sắc riêng, bản
sắc văn hóa là căn cước của mỗi dân tộc giữa cộng đồng quốc tế, cái "căn
cước" được xác nhận bởi cách suy nghĩ, cách cảm nhận của mỗi dân tộc, bởi
(
1) Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển Bách khoa, H Nà ội, tr. 789.
7
sự tiến triển của tâm hồn mỗi dân tộc trước thiên nhiên, trước nhân loại và
cuối cùng bởi cảm quan của mỗi dân tộc về thế giới, cảm quan đó quyết định
mọi ứng xử của mỗi dân tộc. Tất cả các nền văn hóa, Việt Nam cũng như
Trung Quốc hay Pháp, Mỹ, Cuba… đều cho thấy một tổng thể các giá trị duy
nhất và không thể thay thế được, bởi vì chính là nhờ vào văn hóa mà mà mỗi
dân tộc có thể biểu lộ một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện của mình trên thế
giới. Từ đây có thể phát hiện ra tính cách dân tộc, khám phá những đặc điểm
về tâm lý, tình cảm, tâm thức dân tộc. Vấn đề bản lĩnh, bản sắc mà chúng ta
thường nhắc trong quá trình phát triển và hội nhập của mỗi quốc gia không
phải là vấn đề gì khác, xa lạ với vấn đề nhận thức đầy đủ các giá trị văn hóa
của mỗi dân tộc.
1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM

Giá trị văn hóa Việt Nam được hình thành bởi nhiều nhân tố xã hội,
địa lý, lịch sử, vừa đa dạng, vừa lâu dài trên mảnh đất mang hình chữ S.
1.2.1. Khát vọng hòa mình với thiên nhiên và ý thức độc lập dân
tộc trong quá trình tiếp biến văn hóa
Trước hết, bao trùm và thấm đượm trong toàn bộ nền văn hóa dân tộc
Việt là khát vọng chung sống hòa mình với thiên nhiên, khát vọng độc lập,
đấu tranh chống cường quyền đòi tự do, bình đẳng, dân chủ.
Nhìn từ góc địa lý, Việt Nam ở góc bán đảo Đông Nam Á trông ra
biển Đông và Thái Bình Dương với trên 3.200 km bờ biển nằm trên các tuyến
giao thông đường biển. Địa thế Việt Nam nối tiếp giữa ba vùng núi - đồng
bằng - bờ biển theo các triền sông chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam,
đồng thời ở thế "diện hải bối sơn" (mặt trông ra biển, lưng dựa vào núi), tạo
nên một hành lang Bắc - Nam tương đối hẹp. Phương tiện đi lại phổ biến từ
ngàn xưa là đường thủy. Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng, người Việt cổ
"lặn giỏi, bơi tài, thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền".
8
Khí hậu nhiệt đới gió mùa - nóng ẩm, mưa nhiều, đã từng tồn tại một
thảm thực vật tiền sử lớn Đông Nam Á, tạo điều kiện cho một nền nông
nghiệp nguyên thủy từ rất sớm, dẫn đến nền nông nghiệp lúa nước. Tuy
nhiên, đất đai canh tác hạn hẹp, quanh năm chống chọi với thiên tai, bão tố,
lụt lội và hạn hán.
Sống trong điều kiện của một tự nhiên khắc nghiệt, người Việt biết
khắc phục, biết hòa mình vào tự nhiên, xem tự nhiên như nguồn sống, điều
kiện sống của mình. Không bất bình, trái lại người Việt luôn ca ngợi thiên
nhiên, biến cảnh vật tự nhiên thành một phần cơ sở tạo nên văn hóa dân tộc.
Từ cấy cày, làm lụng, lối sinh hoạt cho đến lời ăn tiếng nói, văn chương, nghệ
thuật con người đều sử dụng, mô phỏng, hòa hợp với cái đại thế giới bên
ngoài con người một cách tự tin với một tinh thần lạc quan qua những huyền
thoại Mẹ Âu Cơ; Ông Đổng ông Đùng; Sơn Tinh Thủy Tinh
Như thế, thiên nhiên Việt là điểm xuất phát của văn hóa Việt. Văn hóa

còn là sự thích nghi và biến đổi thiên nhiên. Thiên nhiên đặt trước con người
những thử thách, những thách đố. Văn hóa là sản phẩm của con người, là
phản ứng, là sự trả lời của con người trước những thách đố của tự nhiên. Văn
hóa Việt cổ truyền vừa là sự hòa điệu, vừa là sự đấu tranh với thiên nhiên.
Bên cạnh đó, người Việt luôn có ý thức đối kháng bất khuất và thường
trực trước nguy cơ xâm lược từ phía phong kiến Trung Quốc. Các cuộc khởi
nghĩa ngoan cường liên tiếp xảy ra: Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh, Lý Bôn,
Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng và đỉnh cao là cuộc khởi
nghĩa thắng lợi của Ngô Quyền (năm 938).
Từ những thành tựu rực rỡ của nền văn hóa Đông Sơn, rồi đến nền
văn hóa Đại Việt (thế kỷ VI, VII trước công nguyên đến một vài thế kỷ sau
công nguyên), đến nền văn hóa Lý - Trần (thế kỷ XV) đã thể hiện một
trình độ văn minh khá cao, một bản sắc dân tộc độc đáo từ thời người Việt
cổ Có thể nói, chính những nền văn hóa này đã hun đúc cho người Việt
9
một ý chí, một bản lĩnh vững vàng để sẵn sàng đương đầu và chiến thắng với
bất kỳ một kẻ thù xâm lược nào. Trải qua một ngàn năm phong kiến Bắc
thuộc, 80 năm thực dân Pháp đô hộ, rồi đến 30 năm chiến tranh xâm lược
của đế quốc Pháp, Mỹ, người Việt đã chiến đấu hết mình với một khát vọng
độc lập dân chủ, kiên cường:
"Như nước Đại việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu"
Tư tưởng độc lập dân chủ như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc
Việt 4.000 năm đã thấm sâu vào mọi hoạt động của người dân Việt.
Thế giới văn hóa người Việt là thế giới của những gì xuất phát từ cuộc
sống thực để vươn lên cái cao cả, cái chí thượng; song cũng chỉ là để trở về
với đời sống thực tế vốn cần được cao đẹp hơn, nhân văn hơn. Khát vọng độc
lập dân tộc còn chi phối trong cả quan điểm tư tưởng của người Việt.
Phương thức tồn tại là lấy thực tiễn dân tộc làm cốt lõi, nền tảng
Từ góc độ tư tưởng, phương thức tồn tại và các biểu hiện văn hóa (kể

cả văn hiến, văn minh) Việt Nam là lấy thực tiễn dân tộc - cộng đồng làm cốt
lõi, nền tảng.
Ở vị trí ngã tư của các nền văn minh, người Việt Nam tiếp nhận nhiều
giá trị văn hóa nhân loại: tiếp thu văn hóa Ấn Độ theo cách của mình, ta có
nền văn hóa Chăm độc đáo và một nền Phật giáo Việt Nam; tiếp thu văn hóa
Trung Hoa ta có Nho giáo và Đạo giáo mang sắc thái Việt Nam; tiếp thu văn
hóa phương Tây, ta cũng có Kitô giáo nhưng cùng với nó là những giá trị vật
chất và tinh thần mới mẻ. Đặc trưng nổi bật trong quá trình giao lưu văn hóa
nhiều thế kỷ là tính tổng hợp - chung hợp - tích hợp.
Giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc đã mở đầu cho quá trình giao lưu
tiếp nhận văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, cũng chính là mở đầu cho quá trình văn
hóa Việt Nam hội nhập vào văn hóa khu vực.
10
Trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất, nhân dân Giao Chỉ sống dưới ách
đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, những âm mưu đồng hóa mà
các thái thú Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp trực tiếp mở trường dạy học
để truyền bá văn hóa Trung Hoa, thủ tiêu văn tự ngôn ngữ Việt. Thậm chí Mã
Viện đem cả quân Mã Lưu sang cũng không những không thực hiện được
nhiệm vụ đồng hóa người Việt và làm chỗ dựa cho chính quyền, mà trái lại
còn bị người Việt đồng hóa hoàn toàn.
Từ thế kỷ thứ II, người Ấn Độ đã sang nước ta buôn bán và truyền
giáo. "Luy Lâu là trung tâm chính trị của chính quyền đô hộ phương Bắc
trong nhiều thế kỷ Các nhà buôn người Ấn Độ và người Trung Hoa đến
buôn bán ở đây rất sớm và theo sau họ là các nhà sư đến hành đạo và truyền
đạo"
(1)
.
Phật giáo truyền từ Ấn Độ song đã đi vào đời sống người Việt và trở
thành quốc giáo trong suốt bốn triều vua liên tiếp: Đinh, Lê, Lý, Trần.
Những biến đổi của đạo Phật ở Việt Nam cho ta thấy một cách rõ ràng

nhất cách thức của người Việt - với truyền thống của nền văn hóa Đông Sơn,
đã tiếp thu hai nền văn hóa lớn của châu Á như thế nào. Đạo Phật ở Giao
Châu lúc bấy giờ vừa có dáng dấp của đạo Hoàng Lão vừa mang đậm dấu ấn
của tín ngưỡng thờ thần linh của người Việt xưa. "Phật được quan tâm như
một vị thần linh có nhiều phép lạ, có thể biến hóa thành các hiện tượng thiên
nhiên quanh con người, thành các vật thần, thánh, các vật linh thiêng mang
phúc trừ họa như hòn đá và tượng Tứ pháp trong "truyện Man Nương", hay là
cái gậy, cái nón trong chuyện Chử Đồng Tử"
(2)
.
Phật giáo ở Việt Nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với đời. Vốn là một tôn
giáo xuất thế, nhưng vào Việt Nam, Phật giáo trở nên nhập thế (sự gắn bó đạo -
đời không chỉ thể hiện ở các nhà sự tham gia chính sự mà còn ở chỗ có quá
(
1) Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H Nà ội, tr. 28.
(
2) Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Sđd, tr. 40.
11
nhiều vua quan quý tộc đi tu. Đến đầu thế kỷ XX, Phật tử Việt Nam còn hăng
hái tham gia các hoạt động xã hội - vận động đòi ân xá Phan Bội Châu và tổ
chức đám tang Phan Chu Trinh. Trong phong trào đấu tranh đòi hòa bình và độc
lập dân tộc, các Phật tử xuống đường phản đối nền độc tài Ngô Đình Diệm,
đỉnh cao là sự kiện hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè 1963).
Có thể nói, sự chi phối mạnh mẽ của tính dung hợp truyền thống đã
khiến cho hầu hết các tôn giáo vào Việt Nam đều tìm được chỗ đứng thích
đáng của mình. Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo vào Việt Nam và tạo thành
"Tam giáo". Tam giáo đồng nguyên (ba tôn giáo cùng phát nguyên từ một
gốc), Tam giáo đồng quy (ba tôn giáo cùng quy về một mục đích). Sự dung
hòa tam giáo là một thực thể hình thành một cách tự nhiên trong tình cảm và
việc làm của người dân, và đến thời Lý - Trần thì triều đình công nhận rộng

rãi, tổ chức những kỳ thi Tam giáo để tìm những người thông thạo cả ba giáo
lý ra giúp nước.
Khi lựa chọn cho mình các giáo lý của Tam giáo, người Việt nhận ra
rằng Tam giáo mới nhìn thì khác nhau, nhưng suy ngẫm kỹ sẽ thấy nhiều khi
chỉ là những cách diễn đạt khác nhau về cùng một khái niệm. Vua Trần Thái
Tông (1218 - 1277) từng chỉ ra rằng, để khuyến khích con người làm điều
thiện: "Sách Nho thì dạy thi nhân bố đức; kinh Đạo dạy yêu vật, quý sự sống;
còn Phật thì chủ trương giữ giới, cấm sát sinh". Hoặc có khi là những phạm
trù khác nhau, thì những biện pháp khác nhau đều nhằm đến cùng một mục
đích. Cái khác nhau ấy không mâu thuẫn đối chọi với nhau mà bổ sung hỗ trợ
cho nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội sao cho quy củ; Đạo giáo lo thể xác con
người sao cho an khang; Phật giáo lo tâm linh con người sao cho thoát khổ
Tuy nhiên, vào Việt Nam, Tam giáo đồng nguyên không phải là phép tính
cộng mà thực chất là một sự sáng tạo, một sự lựa chọn hòa hợp của người
Việt nhằm phục vụ cho cuộc sống đấu tranh với thiên nhiên và với kẻ thù xâm
lược.
12
Người Việt luôn luôn có khả năng tiếp thu và làm sáng hóa các tư tưởng
ngoại lai. Đúng như nhận xét của thiền sư Nguyễn Đăng Thục: "Sáng hóa hay
Việt hóa tức là đứng trước hai, ba hay nhiều trào lưu mâu thuẫn để gây ra xung
đột nội bộ, nhân dân Việt cùng với giới lãnh đạo biết vượt lên trên hình thức cố hữu
để hợp hóa vào một trào lưu mới, thích hợp cho ý chí sinh tồn của một dân tộc"
(1)
.
Trong mối giao lưu đa phương, qua nhiều thế thế kỷ này, người Việt
có dịp tiếp xúc, chọn lọc tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật ngoài vào, Việt
hóa chúng trở thành những tài sản nghệ thuật của dân tộc.
Nghệ thuật múa Rối, một trong những loại hình sân khấu lâu đời nhất
của nhân loại có thể đã theo chân những người Ấn Độ và Trung Quốc du
nhập vào nước ta. Và người Việt vốn quen với sông nước đã sáng tạo ra nghệ

thuật múa Rối nước độc đáo của mình.
Nét hoa tay với những ngón đuổi nhau, cuộn vào và mở ra như cánh
hoa khép mở cùng với sự chuyển động uyển chuyển, mềm mại của đôi cánh
tay trong múa Chèo phải chăng là sự biến dạng tài tình và độc đáo của đôi
cánh tay và bàn tay trong múa Ấn Độ. Nhưng khác với múa Campuchia và
múa Chăm, hoa tay của Việt Nam đã thoát ra khỏi tính quy ước nghiêm ngặt
của múa cổ điển Ấn Độ trở nên thanh thoát, tự do. GS. Trần Bảng đã kể lại
rằng trong chuyến đi lưu diễn của Đoàn nghệ thuật Chèo sang Trung Quốc
năm 1960 mà ông làm Trưởng đoàn, báo chí đã nhanh chóng nhận ra tính độc
đáo của múa Chèo Việt Nam. Vương Văn Quyên, nghệ sĩ ưu tú của Đoàn
kinh kịch Thượng Hải đã gọi là đôi tay biết nói vì chúng có khả năng biểu
hiện không những tính cách nhân vật mà còn đủ các dạng khác nhau như
trong các nhân vật Súy Vân, Thị Mầu
1.2.2. Khát vọng dân chủ, tinh thần nhân văn - nét nổi trội của
văn hóa Việt
(
1) Nguyễn Đăng Thục, Thiền học Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 137.
13
Nền văn hóa Đại Việt ngay từ thuở ban đầu đã tỏ ra phong phú và có
một bản sắc ổn định. Phật giáo đã phát triển thành quốc giáo có những nét đặc
sắc, đại diện sau này có giáo phái Trúc Lâm.
Nhà lý về Thăng Long, nơi thật sự là "địa linh nhân kiệt", mở đầu sự
nghiệp xây dựng đất nước bằng chính sách dân tộc và dân chủ. Nêu cao ý
thức "tự chủ tự cường", các vua Lý chủ trương: "Quốc gia trị có pháp độ,
không cần mô phỏng Đường, Tống", khuyến khích trồng dâu, nuôi tằm để tự
cung cấp vải lụa, gấm vóc. Xuất phát từ tinh thần bình đẳng, bác ái của đạo
Phật, các vua Lý – Trần theo chính sách thân dân, Trong dân ai có oan ức có
thể "đánh chuông" để tâu lên với vua. Vua và dân cùng vui cùng buồn, cùng
tham dự hội hè, cùng xem biểu diễn văn nghệ. Các hình thức nghệ thuật sân
khấu như diễn xướng, rối, xiếc thường diễn ra ngoài trời và phát triển mạnh.

Ý thức dân chủ thấm sâu vào mọi hoạt động tinh thần của từng người dân,
cuối đời Lý (1182), sử sách còn ghi lại cả một trò nhại trực tiếp châm biếm
vào tính hống hách của viên thái sử đương thời là Đỗ An Thuận.
Sang thời Lê thì tình hình đảo ngược. Các vua Lê chủ trương độc tôn
Nho giáo, coi nhẹ và giảm dần Phật giáo và Đạo giáo. Mọi nghi thức lớn nhỏ
đều phỏng theo triều đình phương Bắc. Khuynh hướng "vọng ngoại" dẫn đến
thái độ miệt thị nền văn nghệ dân gian, thực chất là dân tộc. Coi "nhà phường
Chèo con hát" ngang với "kẻ phản nghịch, ngụy quan", còn cấm bản thân và
con cháu họ không được đi thi. Tuy nhiên, không dễ gì mà phá nổi cái truyền
thống dân tộc dân chủ đã ăn sâu hàng ngàn năm vào tâm hồn người Việt.
Lệnh cấm của triều đình không thể ngăn nổi các phường Chèo tồn tại và gắn
bó với người nông dân trong những ngày sinh hoạt hội hè. Chèo vẫn tồn tại và
phát triển ở làng quê như một món ăn tinh thần không thể thiếu được. Sự bó
kết cộng đồng, tinh thần đồng cam cộng khổ giữa con người ở cái làng Việt
với lũy tre xanh càng trở nên thắm thiết. Tư tưởng dân chủ thường được biểu
hiện ở tiếng cười châm biếm của các nhân vật Hề, Hề hầu quan chạy ra báo
14
với khán giả: "Quan sắp ra, ai có gà thì nhốt lại" và sau đó nói với quan:
"Quan là quan quàn dân, con là dân con dần quan"
Ở thái độ đối với người phụ nữ, đề cao người phụ nữ với tràn ngập
tình yêu thương. Yêu thương con người, yêu thương cuộc sống. Trong lịch sử
tồn tại đầy gian nan, nghiệt ngã của mình, dân tộc Việt đã dùng tiếng cười để
cân bằng sinh thái tâm linh. Nét văn hóa lạc quan yêu đời đó luôn thường trực
trong mỗi tâm hồn Việt. Trước những bất công, phi lý, thiếu minh bạch của
cuộc đời, tinh thần lạc quan mang yếu tố dân chủ trong sự đấu tranh không
khoan nhượng với những thói hư tật xấu ấy chẳng kể vua, quan hay dân
thường. Đó chính là ước vọng về một cuộc sống tốt đẹp, lý tưởng mà người
Việt hằng ao ước. Đó cũng chính là lòng bao dung với một cách xử thế mềm
mỏng, cương, nhu hài hòa trong tâm thức người Việt, trong tâm hồn Việt -
một biểu hiện thiên về nữ tính. Người phụ nữ Việt xưa chưa bao giờ có địa vị

cá nhân đầy đủ, nên cũng ít phát triển cá nhân chủ nghĩa cực đoan. Phụ nữ
Việt vốn là con người của trách nhiệm và bổn phận một cách tự giác. Có tinh
thần trách nhiệm với tất cả mọi người, với cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai.
Họ thường tự coi mình là một khâu của cả một dây chuyền, nếu không phải là
hệ quả của kiếp luân hồi thì chí ít cũng có thừa hưởng âm phúc của tổ tiên, cố
tránh "ăn mặn" để con cháu sau này không phải "khát nước" Từ đó có sự
gắn bó trong gia đình, coi trọng chữ "hiếu thảo", chữ "thủy chung", cũng từ
đó mà có mối quan hệ khăng khít với gia đình, với bà con làng xóm. Thước
đo giao tiếp xã hội không phải chỉ là lý mà thiên về tình Khát vọng dân chủ
thể hiện rất rõ ở những nhân vật mà chế độ phong kiến gọi là "nghịch nữ".
Một Thị Mầu xuất hiện như một ngọn lửa rừng rực tình yêu, táo báo, thách
thức, phá tan mọi ràng buộc của lễ giáo phong kiến đi tìm quyền tự do yêu
đương. Một Súy Vân giả dai để thoát khỏi cảnh cô đơn lạnh lùng ở sân khấu
Chèo. Bên cạnh đó những truyện cười, truyện sử, những sáng tác của văn học
dân gian (đặc biệt là tác phẩm Thiên nam ngữ lục), các tích trò của múa Rối
15
cũng lên tiếng khá mạnh mẽ đòi quyền tự do dân chủ đến nỗi ở nhiều nơi
chính quyền phong kiến phải sợ hãi ra lệnh cấm mà vẫn không ngăn nổi.
Bên cạnh cái tình, người Việt còn coi trong cái nghĩa. Cái nghĩa của
dân tộc Việt nam bao trùm lên mọi thứ mà sinh thời nhà văn hóa Nguyễn
Khắc Viện cho rằng không thể dịch sang cái ngôn ngữ Âu - Mỹ được. Cái
nghĩa đó luôn luôn điều chỉnh lại các hành vi ứng xử của mọi thành viên trong
xã hội.
Cũng chính từ cái nghĩa này mà các tác giả vở Chèo Nàng Thiệt Thê
đã xây dựng nhân vật Chu Mãi Thần thành một nhân vật chính nhân quân tử
đặc biệt Việt Nam, đã được GS. Vũ Khiêu đánh giá rất cao.
Yếu tố dân chủ thấm sâu trong đời sống tinh thần làng xã Việt Nam.
Có một hiện tượng kỳ thú - đó là bất kỳ nhà nho nào, hễ cầm bút viết bằng
chữ Nôm là "quên" ngay hệ tư tưởng Khổng giáo. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm dùng tục ngữ trong thơ của mình; Lê Quý Đôn trong Kinh nghĩa nói

đến nỗi khát khao lấy chồng của một cô gái mới lớn - điều mà Kinh lễ không
thể nào chấp nhận được; Nguyễn Công Trứ dùng phú để "chửi" cái nghèo và
chống lại toàn bộ tư tưởng Nho giáo, đòi hỏi phải an bần, vui cái phận hèn
rồi Hồ Xuân Hương, Tú Xương
1.3. NGHỆ THUẬT CHÈO - TỪ CỘI NGUỒN VĂN HÓA
1.3.1. Từ diễn xướng dân gian
Tìm về ngọn nguồn của nghệ thuật Chèo, các nhà nghiên cứu đều cho
rằng: Nghệ thuật Chèo ra đời từ rất xa xưa, hình thành dần trong cuộc diễn
xướng dân gian, ở các hội làng thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, cái nôi văn hóa
của cả nước.
Diễn xướng vốn là một hình thức sinh hoạt văn nghệ nguyên hợp sơ
khai, gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển công cuộc lao động mưu sinh và
16
cải tạo thiên nhiên của con người. Là những sinh hoạt mang tính chất văn hóa,
nghi lễ thờ cúng, lúc xa xưa phản ánh quá trình lao động sản xuất, chiến đấu,
tín ngưỡng, tập tục diễn ra bằng sự nhân cách hóa, những nhân vật vẽ mặt -
săm mình, đeo mặt nạ bằng những vật tượng trưng và những lời cầu khấn,
ước mong phóng dụ, đối đáp, kể chuyện, hát ca và những động tác nhảy
múa với sự tham gia của cả người diễn và người xem.
Trong diễn xướng, ta thấy có sự tham gia của nhiều yếu tố: âm nhạc,
nhảy múa, tạo hình văn học, sân khấu Trong dạng dân gian và nguyên sơ,
tính chất nguyên hợp này đã khiến cho diễn xướng dân gian đã và đang trở
thành đối tượng cho công tác nghiên cứu - khai thác vốn văn hóa cổ truyền
dân tộc của hầu hết các bộ môn văn học nghệ thuật.
Tại các cuộc diễn xướng ấy, người ta làm trò diễn miêu tả những hoạt
động sản xuất, những cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, và những lễ tục…Đi
sâu tìm hiểu diễn xướng dân gian trên sân khía cạnh là mầm mống của sự
hình thành nghệ thuật sân khấu để từ đó tìm hiểu nguồn gốc của việc xây
dựng những hình tượng nghệ thuật trên sân khấu Chèo, chúng tôi đặc biệt chú
ý đến cách biểu đạt tư tưởng, tình cảm của người xưa qua diễn xướng dân

gian, chú ý đến quy luật vận động đặc thù của diễn xướng dân gian.
Theo nhà nghiên cứu Đặng Văn Lung thì tất cả các hình thức tồn tại
trên thực tế của sáng tác dân gian đã và chỉ tồn tại khi có nghệ thuật diễn
xướng. Điều này chứng tỏ cái xu thế là nhân dân biểu đạt tư tưởng tình cảm
của mình không những bằng lời, bằng nhạc, bằng kết cấu nghệ thuật mà còn
cả bằng giọng nói, điệu bộ, nét mặt…. Trong những cái có khả năng tạo ra
một hình tượng kịch nhất định. Ông viết: " màu sắc sân khấu chung của tất
cả các loại hình văn nghệ dân gian, không phân biệt loại hình nào được xác
định bằng tính trình diễn, tức là tính diễn xướng, hay tính truyền miệng của
17
nó (…) Văn bản cổ tích nếu không kể đến tính trình diễn của nó thì chỉ còn là
một cái xác không hồn"
(1)
.
Chỉ trong một hình thức kể chuyện cổ tích đơn giản nhất ta cũng thấy
có hai yếu tố:
- Yếu tố tái tạo của người kể.
- Yếu tố phản ứng trực tiếp chủ quan của người nghe.
Cả hai yếu tố này tác động qua lại một cách tự nhiên, đơn giản, nhưng
vô cùng hào hứng (sự hứng khởi của cả người nghe và người kể) - chân lý
nghệ thuật nằm ngay trong cái đơn giản, tự nhiên ấy. Ông còn cho rằng:
"Thực chất của việc nghiên cứu diễn xướng là nghiên cứu con người diễn
xướng. Sở dĩ có con người diễn xướng là do có con người chiếm lĩnh thẩm mỹ
thế giới. Sẽ như thế nào mà con người tạo nên lại tác phẩm giả và tạo nên
một hình thức diễn xướng phù hợp với loại tác phẩm ấy"
(1)
.
Khi bàn về Diễn xướng dân gian và nghệ thuật sân khấu, nhà nghiên
cứu Nguyễn Hữu Thu đã đưa ra hàng loạt những yếu tố cấu thành nên diễn
xướng như: Con người, tác phẩm, địa điểm, động tác, ngôn ngữ, hóa trang,

người thưởng thức
Trong những yếu tố cấu thành đó, thì con người là trung tâm xuất phát
điểm của nghệ thuật biểu diễn. Đi vào phân tích hai yếu tố chủ yếu là động tác
và ngôn ngữ, ông cho rằng: "Động tác là yếu tố khởi đầu vai diễn xướng và
bắt nguồn từ hoạt động nội tại của con người. Lúc đầu là những động tác "tự
thân" và mô phỏng lao động. Sự mở rộng hay thu hẹp động tác là tùy thuộc
vào đối tượng tác động và nội dung biểu đạt"
(2)
. Động tác cũng phát triển từ
cụ thể đến trừu tượng. Động tác cụ thể là những điệu bộ, cử chỉ, đi đứng,
hiện thực trong đời sống. Động tác trừu tượng là những điệu bộ, cử chỉ cách
(
1) Đặng Văn Lung, Diễn xướng sân khấu - Diễn xướng dân gian v nghà ệ thuật sân khấu, Tư liệu in
rônêô, Viện Nghệ thuật, 1978, tr. 51.
(
1) Đặng Văn Lung, Diễn xướng sân khấu - Diễn xướng dân gian v nghà ệ thuật sân khấu, Tư liệu in
rônêô, Viện Nghệ thuật, 1978, tr. 53.
(
2) Đặng Văn Lung, Diễn xướng sân khấu , Sđd, tr. 61.
18
điệu, tưởng tượng hay phóng đại mang tính ước lệ của nghệ thuật (động tác
múa, động tác kịch câm). Ông đưa ra bốn cấp độ của động tác: cấp độ thông
báo, cấp độ cách điệu, cấp độ tượng trưng, cấp độ trừu tượng hóa. Và sự tìm
hiểu nghiên cứu bốn cấp độ động tác này đều có sự liên quan chặt chẽ và là
một trong những yếu tố cấu thành của diễn xướng hết sức quan trọng với
nhiều ảnh hưởng trong việc thể hiện nhân vật trên sân khấu Chèo.
Cùng với động tác là ngôn ngữ, nó là hiện tượng âm thanh biểu hiện
khác của tư duy khác với động tác, tức là nhận thức bằng nghe. Nói trong diễn
xướng không phải là khẩu ngữ giao tiếp hàng ngày mà nói theo tình huống, có
nghệ thuật. Cũng tiếng "vâng", tiếng "dạ", nhưng hai người làm trò nói lên có

âm điệu, sắc thái, tình cảm khác với cách nói bình thường. Chính đó là nhịp
cầu nối tiếp, là một trong những yếu tố làm nền tảng cho hình thức nói riêng
của nghệ thuật phô diễn của nhân vật Chèo.
Trong những tiền đề dẫn đến hình thành một sân khấu Chèo, chúng tôi
đặc biệt chú ý đến trò nhại. Trò nhại là một hình thức "bắt chước", "mô
phỏng" lại những sinh hoạt trong xã hội. Trò nhại là một đặc điểm mang màu
sắc Việt rất rõ, nó không những là một trong những cội nguồn của Chèo mà
còn đi vào đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật như một nguyên tắc lớn, một thành
tố quan trọng.
Đến thời Lý - Trần, những hình thức hát, múa, trò nhại đã phát triển
khá cao và được ghi lại trên văn bia, sử sách. Bia Sùng thiện diên linh (1121)
đã chép tỷ mỷ về một đội múa "Đội của Thiên Vương từ bốn phương đến
(Chùa Một Cột) nhất tề giơ khí cụ lên, quanh co đi lại dâng điệu múa ở giữa
bậc dưới, những cô gái tiên lượn vòng. Nhạc quan đứng thành hàng dưới sân
nhảy lướt một lúc ".
Các trò diễn thời kỳ này đã có những bước phát triển vượt bậc, các trò
diễn từ áng trò bước vào sân chùa như những mẫu phác thô sơ đã được gọt rũa,
bổ sung, nâng cao để dần dần chuyển hóa thành những mảnh đời. Sách Hý
19
phường phả lục đã ghi tên các hậu tổ cuối ngành Chèo như Đào Hoa, Từ Đạo
Hanh, Sai Ất, Chính Vinh Càn đã có công làm cho "Chèo hát tiến hóa mạnh
mẽ từ cấp độ hồn nhiên lên cấp độ ước lệ và tổng hợp; trong trò diễn dung
hợp cả lời trò, đối thoại và hát múa trong thời gain và không gian ước lệ"
(1)
.
Chúng tôi lưu ý đến những hậu tổ ngành Chèo nói trên ở phương diện là
những cá nhân tài năng vượt trội trong đội ngũ những người sáng tạo của
diễn xướng dân gian, tiền thân của nghệ thuật Chèo. Chính nhờ những đóng
góp trong diễn xuất của họ (hát, múa, diễn) mà những trò diễn dần được hoàn
chỉnh hơn. Ở thời điểm này, các diễn viên mới chỉ đóng trò (đóng các vai, chứ

không phải sống các nhân vật) trong một trò diễn, được gọi là "bách nghệ
khôi hài".
Hội làng luôn gắn liền với lễ hội. Hội làng vừa góp vào việc sùng bái
thần thánh, vừa làm vui cho các thành viên công xã. Một mặt, nó lý giải sự ra
đời và tồn tại của các sự vật - sự tích - nguồn gốc bánh chưng, bánh dày, sự
tích Quan thế âm Bồ tát, sự tích Chử Đồng Tử, sự tích Trương Chi , lý giải
về "nồi cơm ăn hết lại đầy" của Thạch Sanh, về sự lớn nhanh như thổi của
Thánh Gióng, về đôi ngọc lưu ly, vật báu làm sống lại mắt của Thị Phương
Và khi trò diễn bắt đầu tách ra khỏi lễ hội của làng, nó được "giải thiêng",
trở thành các "tích" - tích là cơ sở của diễn trò. Các văn bản Chèo cổ hiện còn
được lưu giữ đều có ghi "Lưu Bình trò", "Quan Âm trò" Theo PGS. Hà Văn
Cầu thì các cụ nghệ nhân xưa vẫn thường hay nói đến việc "xếp trò, cắm trò,
làm trò, pha trò, giòn trò, nhạt trò ". Đó là cơ sở để chứng minh rằng Chèo
buổi đầu là trò sinh ra trong lễ hội, để phục vụ các thành viên trong làng xã.
Điều đó cũng có nghĩa là Chèo từ "trò" đọc chệch ra và sáng tác Chèo là soạn
nên các trò diễn để thực hiện một tích truyện.
Trò diễn đầu tiên là Huyết Hồ cũng được ra đời trong thời điểm này.
Nhân vật chính là Mục Liên sau khi được tu luyện thành Phật bèn xin với
(
1) H Và ăn Cầu (2004), Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ, Nh hát Chèo, tr. 115.à
20
Ngọc Hoàng cho xuống âm phủ cứu mẹ. Trong vở có sự xuất hiện của ông lão
Chèo đò trên sông Ái Hà, và quỷ con coi ngục, nhưng thực ra chỉ là để thực
hiện một số lời đối thoại dưới dạng sinh hoạt còn nổi lên trong trò chỉ có
một nhân vật Mục Liên, mà GS. Hà Văn Cầu thường gọi là nhân vật Một.
Có thể thấy, sân khấu Chèo với truyền thống dân chủ kế thừa từ "trò
nhại" thời Lý đã liên tục được hình thành và phát triển cùng với sự tiến triển
của văn hóa Việt (chúng ta sẽ phân tích kỹ ở chương sau). Chèo từ bình diện
sân khấu dân gian chuyển lên bình diện sân khấu dân tộc. Đến giữa thế kỷ
XVIII, Chèo không những có phong trào sâu rộng ở đô thành, mà phổ cập tới

các trấn xung quanh, gọi là "Chèo tứ chiếng". GS. Đinh Gia Khánh đã nhận
định: "Một hiện tượng văn hóa dân gian lúc đầu có thể sinh thành ở một vùng
nào đó rồi về sau lưu hành sang các vùng khác. Khi nhập một vùng khác,
hiện tượng ấy có thể địa phương hóa, tức là nhuốm đượm sắc thái độc đáo
của vùng ấy. Các hiện tượng văn hóa dân gian nào đã phổ cập được khắp
toàn quốc trong một thời kỳ lịch sử lâu dài thì lại thể hiện được tính cách
chung của dân tộc, tức là được dân tộc hóa"
(1)
.
Từ sau thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, trong phong trào Phục hưng
của cả nền văn học nghệ thuật, Chèo cổ đạt tới sự thịnh vượng với những trò
diễn mẫu mực như: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Lưu Bình - Dương Lễ,
Kim Nham
Việc kể lại một sự tích bằng biểu diễn đến thể hiện số phận con người
bằng nghệ thuật đã là cả một giai đoạn đáng kể. Trong quá trình kể chuyện
bằng sân khấu ấy, thì những trò nhắc phát triển lên, ông cha ta còn biết thu
hút kết hợp các hình thức văn nghệ dân gian vốn phổ biến trong dân dã như
hát, múa để hình thành nên Chèo với những hình tượng nghệ thuật độc đáo
tồn tại đến hôm nay.
(
1) Đinh Gia Khánh, Dư địa chí văn hóa dân gian Thăng Long - Đông Đô - H Nà ội, Nxb Sở Văn hóa thông
tin, H Nà ội, 1995, tr. 21.
21
1.3.2. Nghệ thuật Chèo - sản phẩm đặc trưng của văn hóa Việt
Nghệ thuật sân khấu Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong tổng
thể văn hóa dân tộc. PGS Tất Thắng cho rằng: "Sân khấu là bộ mặt và thể
chất của văn hóa dân tộc, do đó là bộ phận quan trọng của văn hóa nhân
loại"
(2)
, bởi tính tổng thể rất đặc trưng của loại hình nghệ thuật này, trên sân

khấu, đời sống tinh thần, tâm lý, phong tục tập quán và trí tuệ của một dân tộc
được biểu hiện cụ thể, sinh động nhất và hiện hình ngay trên hình thể và trong
tâm hồn của bản thân người diễn viên - đây là ưu thế tuyệt đối của nghệ thuật
biểu diễn sân khấu mà khó nghệ thuật nào sánh được. Trong hành trình lịch
sử gần ngàn năm, sân khấu Việt Nam đã "chưng cất" trong mình hồn, khí dân
tộc, luôn là phần nhạy cảm trong dòng chảy văn hóa dân tộc, là sự biểu đạt rõ
nét nhất những vấn đề văn hóa tinh thần của thời đại trước mỗi biến thiên của
lịch sử.
Có nguồn gốc và cùng mang trong mình hơi thở của dòng văn hóa
dân gian, lối triết lý phương Đông của dân cư văn hóa lúa nước Đông Nam Á,
nghệ thuật sân khấu truyền thống (Chèo, Tuồng) trước những biến thiên của
lịch sử và trong môi trường tồn tại của mình đã dần hình thành và bồi đắp cho
mình những bản sắc riêng ngay trong cái nôi chung văn hóa dân tộc. Nếu
nghệ thuật Tuồng là khúc tráng ca của những người anh hùng, là khí phách, là
bản lĩnh của dân tộc, là cuộc sống triều chính… thì nghệ thuật Chèo là tiếng
cười hài hước châm biếm, đả kích , là nét văn hóa, tâm hồn của cư dân nông
nghiệp lúa nước làng quê Bắc Bộ. Chèo, Tuồng, hai mặt của một biểu hiện
của một đời sống tinh thần dân tộc: trữ tình, đằm thắm và hào hùng, bi tráng.
Ngày xưa Chèo cổ - là một hình thức nghệ thuật biểu diễn dân gian do
người nông dân vùng châu thổ sông Hồng sáng tạo ra. Nó là sản phẩm của
nền văn minh nông nghiệp lúa nước, của nền văn hóa làng xã, và trực tiếp là
(
2) Tất Thắng, Đ o tà ạo nh và ăn hóa trong nghệ sĩ kịch hát dân tộc, Thông tin khoa học Nghệ thuật sân khấu
v à điện ảnh, số 8/2006, tr. 3.
22
sản phẩm của nhân sinh quan và vũ trụ quan nông dân Việt. Một nguồn gốc
của Chèo là các trò nhại và hát dân gian, nghi lễ trong lễ hội nên sau này,
khi phát triển thành một loại hình sân khấu kịch hát, thì không gian thích hợp
nhất cho một buổi biểu diễn Chèo vẫn là không gian "hội hè đình đám" mỗi
độ xuân về.

Hình thức tổ chức theo phường, gánh của Chèo cổ là hình thức mang
đậm dấu vết sáng tạo và hưởng thụ văn hóa theo kiểu làng xã. Mỗi phường
mỗi gánh thường có khoảng 11 đến 15 người, phần lớn là những người nông
dân say mê nghề ca hát.
Hình thức biểu diễn Chèo xưa, từ trò diễn đến diễn viên, từ khán
phòng đến khán giả đều là sản phẩm, hoặc ít nhất cũng mang bóng dáng của
văn hóa làng xã. Sân khấu biểu diễn Chèo xưa chỉ khoanh trên mấy chiếc
chiếu trải trên mặt phẳng như sân đình, sân miếu, sân nhà Một tấm màn nhỏ
ngăn nơi diễn với hậu trường. Khán giả đứng (hoặc ngồi) xung quanh. Dàn
nhạc ngồi ở ngay phần đầu chiếu sát nơi để trống chầu, ngăn cách người xem
và diễn viên đồng thời cũng là người đưa đạo cụ cho diễn viên khi cần. Các
đạo cụ thường để tập trung trên chiếu diễn. Một hòm đồ gỗ để sẵn, lúc dùng
làm ghế ngồi lúc dùng làm bàn tiệc, lúc làm núi non… Trang trí nơi diễn là là
khung cảnh ngày hội: cây nêu, những lá cờ ngũ sắc, những bức cửa vòm sơn
son thiếp vàng. Chèo diễn theo lối ước lệ. Cảnh trí được thể hiện trong ngôn
ngữ và động tác cách điệu của diễn viên
Nếu như nghệ thuật Tuồng thường kể về những nhân vật và sự kiện
xảy ra trong cung đình để bảo vệ một ngai vua, một ngôi chúa, một triều đình
đứng đầu sơn hà, một dòng dõi trị vì xã tắc với những nhân vật điển hình:
Khương Linh Tá, Đổng Kim Lân, Tạ Ngọc Lân, Triệu Tư Cung, Viên Hòa
Ngạn, Đào Phi Phụng, Triệu Tử Long thì nghệ thuật Chèo (cổ) lại dành cho
cuộc đời của những con người bình thường, ngợi ca những tấm gương cao cả
trong tình bạn, tình yêu chung thủy, lòng hiếu thảo, sự khao khát hạnh phúc,
23
tự do trong cuộc sống và những nhân vật nổi tiếng Thị Kính, Thị Phương, Phi
Nga, Trinh Nguyên, Châu Long…
Các tích Chèo (cổ) dường như đều lấy việc kể lại cuộc đời những số
phận con người khác nhau trong xã hội làm nhiệm vụ trung tâm. Có thể nói,
mỗi một tích Chèo là một câu chuyện kể về một thân phận con người mặc dầu
mỗi câu chuyện đều có một nội dung triết lý rõ ràng, nhưng vấn đề thân phận

con người đã là một đề tài nổi lên hàng đầu. ở mỗi vở đều có một nhân vật
đứng làm trung tâm trong quan hệ với các nhân vật khác và dường như vấn đề
mấu chốt của vở là phải giải quyết số phận của nhân vật này, số phận của
nhân vật này được xử lý thì tích trò có thể kết thúc được và kết thúc thường là
có hậu. Thị Kính cuối cùng được thành Phật, Thị Phương cuối cùng được gặp
chồng, mắt sáng lại. Lưu Bình thi đỗ và được làm quan, Phi Nga thi đỗ và giải
được oan cho cha.
Lịch sử luôn có sự vận động, văn hóa nghệ thuật cũng vận động theo
sự vận động chung ấy của lịch sử. Xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XX đã có những biến đổi dữ dội, từ một xã hội nông nghiệp lạc hậu trở thành
một xã hội thực dân phong kiến đang trên đà phát triển. Do đó, về mặt nghệ
thuật cũng đã có những biến đổi, giao lưu rất mới và mạnh mẽ.
Sự xuất hiện của kịch nói Pháp, của điện ảnh phương Tây, của Tuồng
Tầu, múa Ấn Độ Trong nước thì Tuồng từ cung đình ra thành phố, cải
lương Nam Bộ phát triển theo lối kịch Thái Tây Nghệ thuật Chèo cũng
bước đầu tràn vào thành phố tạo nên một phong trào Chèo Văn Minh rồi Chèo
Cải lương.
Vào khoảng những năm 1918 - 1924, Chèo Văn Minh là loại hình Chèo
hỗn tạp, trong một vở diễn mà ca hát và diễn xuất khi là Chèo, khi là Tuồng,
thậm chí đôi khi còn pha tạp cả điệu hát của phương Tây. Tích trò chuộng ly
kỳ và ăn khách. Có thể kể các vở: Chúa Thao, Thư quán hội lương duyên,
24
Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tô Thị vọng phu. Chèo Văn Minh tồn tại không
lâu và nhanh chóng nhường chỗ cho một trào lưu tiến bộ hơn: Chèo Cải
lương.
Chèo Cải lương tồn tại từ đầu những năm 1920 cho đến trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945 - với các soạn giả: Nguyễn Thúc Khiêm, Nguyễn
Đình Hy, Phạm Mỹ Trạch , đặc biệt là soạn giả Nguyễn Đình Nghị - ông gần
như là người chủ soái trong phong trào Chèo Cải lương. Với một khối lượng
kịch bản và vở diễn đồ sộ (hơn 70 tác phẩm), ông chủ trương: "Các vở của tôi

soạn đều chú trọng vào việc răn đời, lấy ca ngợi giọng hát và tiếng cười tao
nhã duy trì phong hóa, cảnh tỉnh thế đạo nhân tâm". Chèo Cải lương cấu trúc
thành từng màn, từng lớp, bỏ múa và bỏ động tác cách điệu trong diễn xuất,
không chấp nhận cách trình bày ước lệ những sự việc trên sân khấu. Về hát,
Chèo Cải lương chủ trương tiếp tục xử lý những mô hình làn điệu Chèo cổ,
không sáng tạo mô hình mới mà đưa nguyên những bài dân ca, trống quân
bổ sung cho hát Chèo.
Chèo hiện đại: Là loại hình nghệ thuật Chèo từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945. Chèo hiện đại kế thừa và phát triển nghệ thuật Chèo (cổ) với
nội dung phong phú, phản ánh xã hội Việt Nam hiện đại. Ba khuynh hướng
nổi bật của Chèo hiện đại là:
1- Những vở Chèo (cổ) được chỉnh lý, cải biên hoặc viết lại dàn dựng
cho phù hợp với yêu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng hiện đại.
2- Những vở Chèo mới, diễn theo tích dân gian, lịch sử hoặc dã sử
hoặc đề tài nước ngoài.
3- Những vở phản ánh cuộc sống hiện đại.
Trên cơ sở bảo tồn những tinh hoa của truyền thống, Chèo hiện đại có
nhiều thử nghiệm khi dè dặt, lúc táo bạo, khi thành công, có lúc chưa thành
25

×