Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế thông qua phương thức tín dụng chứng từ tại NHĐT&PT Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508 KB, 116 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
oạt động kinh tế đối ngoại nói chung, hoạt động ngoại thương nói riêng
ngày càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế đất
nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang tiến hành sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chỉ có thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại
chúng ta mới tạo được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến
hiện đại, phát huy tiềm năng của đất nước đồng thời tận dụng được vốn, công
nghệ kĩ thuật, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. Từ đó, góp phần đẩy nhanh
quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hóa đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu về
kinh tế và đưa nền kinh tế đất nước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới
H
Như một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động kinh tế đối ngoại, hoạt
động thanh toán quốc tế(TTQT) bằng tín dụng chứng từ(TDCT) của các Ngân
hàng ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng, nó được coi là công cụ, là cầu nối
trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ kinh tế và thương mại giữa các quốc gia.
Phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ đã được NHĐT&PT Hà
Nội thực hiện từ những năm 95 trở lại đây, bước đầu đã đạt được những thành quả
nhất định. Song bên cạnh đó, hoạt động TTQT bằng TDCT có quy mô nhỏ bé,
mới mẻ và chưa tương xứng với tiềm năng của Ngân hàng. Một mặt do bản thân
Ngân hàng gặp khó khăn trong quá trình tác nghiệp của mình. Mặt khác, về phía
khách hàng cũng chưa thực sự am hiểu hoạt động ngoại thương, nhất là trong
khâu thanh toán bằng TDCT. Trên bình diện vĩ mô còn có khá nhiều vướng mắc
liên quan đến cơ chế chính sách...
Tìm kiếm một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động TTQT thông qua
phương thức TDCT hiện nay là một đòi hỏi cấp bách cả về phương diện lý luận
cũng như thực tiễn. Vì vậy, em chọn đề tài “ Giải pháp hoàn thiện và phát triển

1
hoạt động thanh toán quốc tế thông qua phương thức tín dụng chứng từ tại
NHĐT&PT Hà Nội”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn


được kết cấu thành 3 chương
Chương I : Tổng quan về phương thức Tín dụng chứng từ
Chương II : Thực trạng thanh toán Tín dụng chứng từ tại NHĐT&PT Hà Nội
Chương III : Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh toán bằng Tín dụng chứng
từ tại NHĐT&PT Hà Nội
Do còn nhiều hạn chế về nguồn tài liệu, trình độ, cũng như thời gian nghiên
cứu nên Luận văn thực tập tốt nghiệp của em còn có nhiều thiếu sót. Vì vậy, em
rất mong có sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để bài viết được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đỗ Đức Bình, CN Trịnh Anh Đức, Phó
phòng KTĐN&TTQT Trịnh Ngọc Sơn và tập thể cán bộ Phòng KTĐN&TTQT đã
tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho em hoàn thành tốt Luận văn tốt nghiệp của
mình.

2
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1. Khái niệm chung phương thức tín dụng chứng từ (TDCT)
Điều 2, khoản mục a của bản “Các Qui tắc thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ”(Bản sửa đổi 1993, số xuất bản 500 của phòng thương mại quốc tế) gọi
tắt là UCP 500 qui định:
“Tín dụng chứng từ và thư tín dụng dự phòng(dưới đây gọi là Tín dụng) có nghĩa là
bất cứ một sự thoả thuận nào, dù cho được gọi hoặc mô tả như thế nào, mà theo đó
một Ngân hàng(Ngân hàng phát hành) hành động theo yêu cầu và theo chỉ thị của
một khách hàng(người yêu cầu phát hành thư tín dụng) hoặc nhân danh chính mình
i)phải tiến hành việc trả tiền theo lệnh của một người thứ ba(Người hưởng
lợi) hoặc phải chấp nhận và trả tiền các hối phiếu do người hưởng lợi kí phát
ii)hoặc uỷ quyền cho một Ngân hàng khác tiến hành thanh toán như thế
hoặc chấp nhận và trả tiền các hối phiếu như thế
iii)hoặc uỷ quyền cho một Ngân hàng khác chiết khấu khii các chứng từ qui
định được xuất trình với điều kiện Tín dụng được thực hiện đúng”
Theo định nghĩa trên thì Những nội dung chính của định nghĩa được hiểu

như sau:
1.1. Hình thức của L/C
L/C là một chứng thư tồn tại dưới dạng thư, điện và điện thư hỗn hợp:
+Phát hành L/C bằng thư(By Mail): Khi công nghệ thông tin chưa phát
triển, việc truyền thông tin trong phương thức tín dụng chứng từ giữa các Ngân
hàng trên thế giới chủ yếu được thực hiện bằng Thư (theo mẫu của Ngân hàng)
gửi bảo đảm qua Bưu điện và có xác thực bằng mẫu chữ ký và chữ ký uỷ quyền.
Trong hình thức L/C bằng thư này, các bức Telex/Fax chỉ có giá trị tham khảo để
cho Người hưởng lợi biết trước. Giao dịch bằng thư có ưu điểm là chi phí rẻ,

3
nhưng mất nhiều thời gian để giao dịch và độ an toàn không cao vì có khả năng
giả mạo chữ ký đăng ký.
+L/C phát hành bằng điện(By Telex, SWIFT): Sự phát triển của kĩ thuật viễn
thông đã được các Ngân hàng áp dụng trong hoạt động thanh toán tín dụng chứng
từ. Phần lớn các L/C này được gửi đi dưới dạng điện thông thường(clair) hoặc
Telex có mã khoá xác thực Testkey, còn L/C bằng thư chỉ sử dụng khi nội dung
L/C quá dài hoặc có các kí tự lạ không thể chuyển tải bằng Telex và các loại điện
khác. Ưu điểm của L/C phát hành bằng điện là nhanh, thời gian gửi điện và nhận
điện diễn ra gần như đồng thời, nhưng chi phí khá cao. Hơn nữa, chưa khống chế
hoàn toàn việc tạo ra các bức điện giả mạo trong phát hành L/C.
Sau khi Hiệp hội viễn thông Tài chính liên Ngân hàng toàn Cầu(Society for
Worldwide Interbank Financial Telecommunication- SWIFT) được thành lập
tháng 5/1973, các Ngân hàng thành viên được sử dụng một chương trình riêng
trên mạng SWIFT theo đó L/C được phát hành dưới dạng mẫu điện MT700 hoặc
MT701 và được mã hóa tự động và xác thực bằng Swiftkey. Việc sử dụng mạng
SWIFT trong thanh toán tín dụng chứng từ có ưu điểm hơn hẳn so với các hình
thức khác về mức độ an toàn, chính xác, tiết kiệm thời gian và chi phí.
+L/C phát hành hỗn hợp( cả điện và thư): L/C chính được gửi tới Ngân
hàng thông báo bằng điện, còn các văn bản phụ lục đi kèm - là một bộ phận cấu

thành của L/C – sẽ được gửi bằng thư cho ngân hàng thông báo để tiết kiệm chi
phí.
1.2. Ngân hàng phát hành L/C theo yêu cầu của các đối tượng
Các đối tượng yêu cầu mở L/C có thể là:
1.2.1 - Khách hàng(Người yêu cầu phát hành L/C- Applicant)
+Người yêu cầu mở L/C là Người mua(Buyer)/Người Nhập khẩu hàng
hoá(Importer)

4
Theo Nghị định của Chính phủ số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/08/1998 về
quản lý ngoại hối; Luật thương mại 1997, Nghị định 57-1998 về vấn đề xuất nhập
khẩu trong thời kỳ mới của nước ta, người yêu cầu mở L/C được qui định là: “Các
doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam có giấy phép
kinh doanh, nhập khẩu hàng hoá phải phù hợp với chính sách xuất nhập khẩu hàng
năm của Nhà nước liên quan đến vay, trả nợ nước ngoài
+Người yêu cầu mở L/C có thể uỷ quyền mở L/C cho một người khác,
người đó là Ngân hàng thương mại ở nước người nhập khẩu nhận uỷ thác của
người nhập khẩu yêu cầu Ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài phát hành L/C
Quá cảnh(Transit L/C).Cụ thể: Trong trường hợp người xuất khẩu không tin vào
khả năng thanh toán của Ngân hàng phát hành L/C ở nước người nhập khẩu( Vì có
chiến tranh, bạo động, đình công...) hoặc trong trường hợp nước người nhập khẩu
bị cấm vận( như CuBa, Iraq, Bắc Triều Tiên,...) nên người xuất khẩu có thể uỷ
quyền mở L/C ở nước ngoài.
+ở Việt Nam, người yêu cầu mở L/C có thể uỷ quyền mở L/C cho các
doanh nghiệp được phép nhập khẩu trực tiếp những mặt hàng trong đăng ký kinh
doanh phù hợp với chính sách xuất nhập khẩu hàng năm của Nhà nước.
1.2.2 - Ngân hàng phát hành nhân danh chính mình mở L/C:
Ngân hàng phát hành nhân danh chính mình yêu cầu Ngân hàng đại lý của
mình ở nước ngoài chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi L/C và cam
kết sẽ hoàn trả số tiền đó cho Ngân hàng này. Mục đích của L/C này là nhằm

chuyển tiền từ nơi khách hàng yêu cầu đến nơi người đó sử dụng. Dạng phổ biến
của loại L/C này là L/C du lịch(Traveller’s L/C), L/C tiền mặt(Cash L/C), L/C
không kèm chứng từ(Clean L/C)
Nếu L/C được Ngân hàng phát hành nhân danh chính mình với mục đích đơn
thuần để chuyển tiền thì được gọi là Thư tín dụng ngân hàng(Bank’s L/C)

5
1.3. Tổ chức được quyền phát hành L/C
+Theo UCP
Chỉ có các tổ chức Ngân hàng mới được phép phát hành L/C, còn các tổ
chức phi Ngân hàng như Công ty tài chính, Công ty chứng khoán, Công ty Bảo
hiểm...nếu phát hành L/C thì trái với UCP 500 và những L/C đó không có giá trị
hiệu lực.
+Theo luật Việt Nam
Chỉ có các tổ chức tín dụng là Ngân hàng mới được quyền phát hành L/C
do
Theo Luật các tổ chức tín dụng – 1997 qui định:
“ Tổ chức tín dụng là Ngân hàng được thực hiện...dịch vụ thanh toán quốc tế
khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép...”(Điều 66)
“Tổ chức tín dụng phi Ngân hàng bao gồm Công ty tài chính , Công ty cho
thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi Ngân hàng khác...không được phép nhận
tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán.”(Điều 20)
1.4. Người hưởng lợi L/C(Beneficiary)
+Theo UCP
Người hưởng lợi là người Bán(Seller)/Người Xuất khẩu(Exporter) được
hưởng số tiền L/C nếu chứng từ xuất trình phù hợp với điều kiện và điều khoản
của L/C. Người hưởng lợi có quyền chuyển nhượng quyền thực hiện L/C cho một
người/hoặc nhiều người khác gọi là người hưởng lợi thứ hai(trong trường hợp L/C
chuyển nhượng). Hay nói cách khác người hưởng lợi có thể là một người hoặc có
thể là nhiều người.

+Theo luật pháp Việt Nam
Người hưởng lợi là những doanh nghiệp được phép kinh doanh xuất khẩu,
uỷ thác người khác xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu cho người khác những

6
mặt hàng trong đăng ký kinh doanh phù hợp với chính sách xuất nhập khẩu của
Nhà nước.
1.5. L/C là một chứng thư cam kết có điều kiện
+L/C phải là một chứng thư cam kết dưới dạng văn bản hoặc chứng từ điện
tử cam kết chắc chắn trả tiền hối phiếu của người xuất khẩu kí phát(trong một số
trường hợp thì có thể cam kết trả tiền hoá đơn) trong một thời gian nhất định(thời
hạn hiệu lực của L/C),với điều kiện là bộ chứng từ xuất trình phải phù hợp với
những điều kiện và điều khoản mà L/C qui định
+Mở L/C có điều kiện tức là người Bán phải thực hiện một số điều kiện nào
đó được qui định trong hợp đồng thì người Mua mới đồng ý mở L/C qua Ngân
hàng Phát hành, vì người Mua không tin chắc hoàn toàn vào khả năng thực hiện
hợp đồng của người Bán.
Có 2 điều kiện có thể được sử dụng
- Điều kiện về tài chính : Nghĩa là người Bán phải đặt cọc( thông thường
là 5% - 10% giá trị hợp đồng) đảm bảo thực hiện hợp đồng xuất khẩu tại
một Ngân hàng được chỉ định( Số tiền đó không được sử dụng tín dụng
ngân hàng)
- Điều kiện về tín dụng : Tức là theo yêu cầu của người Bán, Ngân hàng
của người Bán sẽ phát hành thư Bảo đảm(Letter of Guarantee – L/G)
hoặc thư tín dụng dự phòng ( Stand-by L/C) cho người Mua hưởng
(khoảng 5% giá trị L/C).
Do đó mở L/C không điều kiện đồng nghĩa với việc Ngân hàng Phát hành
mở L/C theo yêu cầu của người Mua mà không cần bất kỳ điều kiện nào từ phía
người Bán ngoài việc xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo cho Ngân hàng.
1.6. Ngân hàng cam kết trả tiền cho người hưởng lợi


7
Điều đó được thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, L/C là một chứng thư cam kết có điều kiện, trong đó cam kết trả
tiền các hối phiếu của người hưởng lợi ký phát đòi tiền Ngân hàng( hoặc Ngân
hàng phát hành hoặc Ngân hàng trả tiền tuỳ thuộc vào qui định trong L/C) kèm
theo bộ chứng từ hoàn hảo phù hợp với những điều kiện và điều khoản trong L/C.
Trong một số trường hợp ( theo qui định trong L/C) thì Ngân hàng có thể cam kết
trả tiền căn cứ theo Hoá đơn thương mại( tức là người hưởng lợi lúc này không kí
phát hối phiếu). Do Hoá đơn thương mại( Commercial Invoice) là chứng từ cơ bản
của khâu thanh toán. Nó thường được người Bán lập ra làm nhiều bản và được
dùng trong nhiều việc khác nhau. Nó chẳng những là một trong những hóa đơn
quan trọng nhất để lập nên bộ chứng từ hoàn hảo đòi tiền Ngân hàng mà còn được
dùng cho công ty bảo hiểm tính phí bảo hiểm khi mua bảo hiểm hàng hoá, cho cơ
quan quản lý ngoại hối của nước Nhập khẩu để xin cấp ngoại tệ, cho hải quan để
tính thuế. Bởi vậy, tuy Hoá đơn thương mại không được coi là chứng từ tài chính
đòi tiền, nhưng Hoá đơn thương mại vẫn được xem xét như là căn cứ để thanh
toán tiền hàng trong những trường hợp sau:
+Đối với thanh toán kì hạn(Deffered payment)
Việc L/C không yêu cầu xuất trình hối phiếu là khá phổ biến ở các Ngân
hàng Châu Âu và Bắc Mỹ. Khi chứng từ mà người Bán lập ra phù hợp với các
điều kiện và điều khoản của L/C Ngân hàng Phát hành sẽ tự động thanh toán căn
cứ theo trị giá ghi trên hoá đơn vào ngày đến hạn đă được xác minh mà không cần
động tác chấp nhận vì không cần hối phiếu. Do đó sẽ giản tiện đi khá nhiều thủ
tục hành chính
+Đối với trường hợp L/C chuyển nhượng(Tranferable L/C)
Hoá đơn thương mại do người hưởng lợi thứ hai lập có thể được Ngân hàng
Chuyển nhượng L/C chấp nhận trả tiền ( trong trường hợp chiết khấu chứng từ) để

8

sau đó thông báo cho người hưởng lợi thứ nhất thay thế hoá đơn và lúc này mới
ký phát hối phiếu đòi tiền Ngân hàng Phát hành hoàn trả.
Thứ hai, Hối phiếu do người hưởng lợi ký phát, muốn đòi được tiền Hối
phiếu thì phải ký hậu chuyển nhượng.
Ngân hàng Phát hành mở L/C hay Ngân hàng Trả tiền(được qui định trong
L/C) cam kết trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu hối phiếu trả ngay/có kỳ hạn nếu
người hưởng lợi xuất trình “bộ chứng từ sạch”cho Ngân hàng. Nếu cần lấy tiền
ngay người hưởng lợi có thể “bán” lại tờ hối phiếu đó cho Ngân hàng Chiết
khấu(NHB). Ngân hàng này sẽ thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu( Nghĩa là
khách hàng sẽ chuyển giao quyền sở hữu hối phiếu chưa đáo hạn cho NHB bằng
cách ký hậu hối phiếu(Endorsement), để nhận được một số tiền có giá trị bằng
mệnh giá hối phiếu trừ đi lợi tức chiết khấu và lệ phí chiết khấu. Do vậy, khi Ngân
hàng thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu, Ngân hàng sẽ khấu trừ tiền lãi
ngay và chỉ chuyển cho khách hàng số tiền còn lại.
Giá trị chiết khấu có thể tính theo công thức:
T
ck
= M x (1 - t x L
ck
/360) - P
Trong đó : * T
ck
- Giá trị chiết khấu
*M - Mệnh giá hối phiếu
*L
ck
- Lãi suất chiết khấu(tính theo năm)
*t - Thời hạn chiết khấu(tính theo ngày)
*P - Lệ phí chiết khấu
Ngoài ra , trong trường hợp người Mua yêu cầu mở L/C chuyển nhượng thì

Ngân hàng Phát hành còn cam kết trả tiền cho một hoặc những người khác( Theo
UCP 500 là những người chân thực giữ hối phiếu trong tay) gọi là người hưởng
lợi thứ hai nếu người hưởng lợi thứ nhất ra lệnh cho Ngân hàng này.
1.7-Những bên tham gia chủ yếu vào phương thức tín dụng chứng từ

9
+Người yêu cầu mở L/C(Applicant) là người yêu cầu phát hành hoặc thiết
lập/ tu chỉnh L/C. Thông thường đây là người Mua, người Nhập khẩu
+Người hưởng lợi L/C(Beneficiary) có thể là một hoặc nhiều người hưởng
lợi số tiền L/C nếu chứng từ xuất trình phù hợp với những điều kiện và điều khoản
trong L/C. Thông thường người hưởng lợi là người Bán, người Xuất khẩu.
+Ngân hàng Mở/ Phát hành L/C(Opening/Issuing Bank) : là Ngân hàng
được yêu cầu mở/phát hành/ thiết lập L/C và cam kết trả tiền cho người hưởng lợi
L/C.
+ Ngân hàng Thông báo( Advising Bank): thường là Ngân hàng đại lý của
Ngân hàng Phát hành ở nước người hưởng lợi. Ngân hàng này xác minh tính chân
thực bề ngoài của L/C và sau đó thực hiện thông báo cho người hưởng lợi rằng
L/C đã được thiết lập. Trong trường hợp Ngân hàng Phát hành không có quan hệ
đại lý với Ngân hàng Thông báo( theo chỉ định của người yêu cầu mở L/C) thì
phải thông qua Ngân hàng thứ ba(Correspondent Bank) có quan hệ đại lý với
mình tại nước người hưởng lợi để chuyển tiếp tới Ngân hàng Thông báo thông
báo cho người hưởng biết L/C đã được mở.
2) Qui trình nghiệp vụ thanh toán trong phương thức tín dụng chứng
từ(TDCT)
2.1- Qui trình nghiệp vụ thanh toán theo tinh thần UCP 500

10
(1a)
Người
Hưởng lợi

Người yêu
cầu mở L/C
Ngân hàng
Thông báo
Ngân hàng
Phát hành
(3)
(4)
(7)
(8)
(9)
(5)
(2)
(6)
(1b)
(1a) Người nhập khẩu và người xuất khẩu ký kết hợp đồng ngoại thương
trong hợp đồng qui định thanh toán bằng TDCT.
(1b) Người nhập khẩu lập thủ tục đề nghị NH phục vụ mình phát hành tín
dụng theo những điều kiện và điều khoản trong hợp đồng ngoại
thương.
(2) NH sau khi xem xét đề nghị mở L/C, nếu chấp thuận sẽ phát hành L/C
cho NH phục vụ người nhập khẩu (NHTB).
(3) NHTB thông báo L/C cho người xuất khẩu
(4) Người xuất khẩu sau khi xem xét ràng buộc trong L/C phù hợp với thoả
thuận trong hợp đồng, sẽ tiến hành giao hàng nếu không sẽ đề nghị
NHTB thực hiện việc tu chỉnh.
(5) Người xuất khẩu tập hợp chứng từ theo yêu cầu trong L/C, xuất trình
chứng từ với NH phục vụ mình.
(6) NHTB chuyển chứng từ đòi tiền NHPH
(7) NHPH trả ngay hoặc ký chấp nhận (nếu trả sau) cho người hưởng lợi

qua NHTB.
(8) NHPH chuyển chứng từ cho người mua (nếu người mua chấp nhận
thanh toán)
(9) Người mua kiểm tra chứng từ nếu phù hợp thì trả tiền ngay hoặc ký
chấp nhận trả tiền để lấy bộ chứng từ đi lấy hàng.
2.2. Quy trình nghiệp vụ thanh toán L/C theo tập quán của NH các nước
TBCN phát triển.


11
(3)
Người
Hưởng lợi
Người yêu
cầu mở L/C
Ngân hàng
Thông báo
(NHCK)
Ngân hàng
Phát hành
(4)
(7)
(8)
(9)
(6)
(2)
(6)
(1b)
(5)
(1a)

(1a) Người nhập khẩu và người xuất khẩu ký kết hợp đồng ngoại thương
trong hợp đồng qui định thanh toán bằng TDCT.
(1b) Người nhập khẩu lập thủ tục đề nghị NH phục vụ mình phát hành tín
dụng theo những điều kiện và điều khoản trong hợp đồng ngoại
thương.
(2) NH sau khi xem xét đề nghị mở L/C, nếu chấp thuận sẽ phát hành L/C
cho NH phục vụ người nhập khẩu (NHTB).
(3) NHTB thông báo L/C cho người xuất khẩu
(4) Người xuất khẩu sau khi xem xét ràng buộc trong L/C phù hợp với thoả
thuận trong hợp đồng, sẽ tiến hành giao hàng nếu không sẽ đề nghị
NHTB thực hiện việc tu chỉnh.
(5) Người xuất khẩu tập hợp chứng từ theo yêu cầu trong L/C, xuất trình
chứng từ với NH phục vụ mình.
(6) NHCK / NHTB trả tiền ngay cho người bán
NHCK/NHTB chuyển chứng từ đòi tiền NHPH
(7) NHPH kiểm tra chứng từ, nếu hoàn hảo sẽ tiến hành trả tiền cho
NHCK / NHTB.
(8) NHPH trả chứng từ cho người nhập khẩu để đòi tiền.
(9) Người mua kiểm tra chứng từ nếu hoàn hảo thì tiến hành trả tiền cho
NHPH để lấy bộ chứng từ đã nhận hàng.
2.3. Quy trình nghiệp vụ thanh toán L/C theo tập quán NHTM Việt nam

12
(3)
Người
Hưởng lợi
Người yêu
cầu mở L/C
Ngân hàng
thông báo

Ngân hàng
Phát hành
(4)
(8)
(6)
(9)
(8)
(2)
(5)
(1b)
(5)
(1a)
(7) (8)

(1a) Người nhập khẩu và người xuất khẩu ký kết hợp đồng ngoại thương
trong hợp đồng qui định thanh toán bằng TDCT.
(1b) Người nhập khẩu lập thủ tục đề nghị NH phục vụ mình phát hành tín
dụng theo những điều kiện và điều khoản trong hợp đồng ngoại
thương.
(2) NHPH sau khi xem xét đề nghị mở L/C, nếu chấp thuận sẽ phát hành
L/C cho NH phục vụ người nhập khẩu (NHTB).
(3) NHTB thông báo L/C cho người xuất khẩu
(4) Người xuất khẩu sau khi xem xét ràng buộc trong L/C phù hợp với thoả
thuận trong hợp đồng, sẽ tiến hành giao hàng nếu không sẽ đề nghị
NHTB thực hiện việc tu chỉnh.
(5) Người xuất khẩu tập hợp chứng từ theo yêu cầu trong L/C, xuất trình
chứng từ với NH phục vụ mình.
(6) NHPH kiểm tra chứng từ, nếu phù hợp thông báo cho người nhập khẩu
(7)Người Mua kiểm tra lần nữa nếu chứng từ hoàn hảo thì thanh toán ngay
hoặc ký chấp nhận thanh toán.

(8) NHPH đồng thời chấp nhận thanh toán/ hoặc trả tiền ngay cho NHTB và
đòi tiền người Mua.
(9) Người mua hoàn trả tiền cho NHPH để lấy bộ chứng từ đã nhận hàng.

13
Tóm lại: Qua nghiên cứu 3 qui trình trên tuy chúng không khác gì so với
qui định của UCP 500 nhưng có thể thấy rằng sự khác nhau cơ bản là mức độ phát
triển của các nền kinh tế là khác biệt nên việc áp dụng qui trình nào cũng đều có
mặt mạnh, mặt yếu của nó. Nhìn chung Qui trình 2 so với qui trình 1, tạo điều
kiện cho người bán thu hồi vốn nhanh hơn( qua chiết khấu chứng từ hàng xuất).
Qui trình 3 so với qui trình 1 Bảo vệ quyền lợi của người Mua thể hiện qua khâu
Ngân hàng và khách hàng hợp tác trong việc cùng nhau kiểm tra chứng từ. Qui
trình 3 so với qui trình 2 phức tạp và kém hiệu quả hơn.
3. Phương thức TDCT dưới tác động của thông lệ quốc tế và luật pháp quốc gia
Khi tiến hành các giao dịch quốc tế bằng L/C , các bên đều phải tôn trọng
luật pháp, thông lệ và tập quán quốc gia của mình và của đối tác. Song điều đó
nhiều khi lại gây trở ngại cho hoạt động thương mại quốc tế, bởi vì mỗi quốc gia
có một thể chế chính trị khác nhau, hệ thống luật pháp, thông lệ và tập quán khác
nhau. Do đó vấn đề đặt ra phải có những qui định mang tính thống nhất cho tất cả
các quốc gia tham gia vào thanh toán TDCT . Bản “Qui tắc thực hành thống nhất
về tín dụng chứng từ” của Phòng thương mại quốc tế(The Uniform Customer and
Practice for documentary credits, ICC 1993) ra đời là một tất yếu khách quan của
sự phát triển hoạt động thương mại quốc tế thanh toán bằng L/C. UCP là tập quán
quốc tế thống nhất điều chỉnh về TDCT.
UCP không phải là Luật quốc tế mà chỉ là những qui tắc ấn hành bởi ICC
một tổ chức phi Chính phủ có ảnh hưởng sâu rộng, đặc biệt là trong lĩnh vực
Thương mại - Tài chính- Ngân hàng trên thế giới. Việc áp dụng UCP được chấp
nhận một cách rộng rãi trên thế giới là một mô tả đầy sức thuyết phục về khả năng
của giới kinh doanh ở các nước có hệ thống luật pháp khác nhau, nhưng lại có thể


14
áp dụng một qui chế chung điều chỉnh hoạt động buôn bán ngoại thương của
mình.
3.1. Quá trình ra đời và phát triển của UCP
UCP lần đầu tiên ra đời vào năm 1933 tại Đại hội 7 của Phòng thương mại
quốc tế ( ở Vienna, Austria), ICC ban hành UCP nhằm đáp ứng nhu cầu của giới
Tài chính, Ngân hàng cũng như các nhà xuất nhập khẩu về một văn bản qui định
đầy đủ, dễ áp dụng và mọi người đều chấp nhận cho quá trình mở và xử lý một
thư tín dụng. Cơ quan soạn thảo UCP của ICC là Uỷ ban Ngân hàng( Banking
Commission) tập hợp những nhà chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực tài chính
Ngân hàng khắp thế giới.
Kể từ đó đến nay, UCP đã qua 5 lần sửa đổi vào các năm 1951( do UCP
1933 đã bị lạc hậu), năm 1960( do sự phát triển của công nghệ vận tải), năm 1974(
do sự phát triển của công nghệ thông tin, sao chép...), năm 1983( do sự phát triển
toàn diện của công nghệ Ngân hàng, vận tải, bảo hiểm...) và năm 1993( do sự sắp
xếp lại các điều khoản cho dễ tra cứu và chính xác hoá thêm nhiều vấn đề) với
mục đích theo kịp sự phát triển chung của nền thương mại, nền công nghiệp vận
tải và truyền thông trên thế giới. Bản qui tắc sau là bản sửa đổi của bản trước,tuy
vậy không làm mất đi tính hiệu lực của các bản qui tắc đã ban hành. Vì vậy, các
bên tham gia trong giao dịch bằng TDCT có quyền lựa chọn áp dụng một trong
các Bản qui tắc ấy tuỳ thuộc theo trình độ phát triển của mình. Nhưng thực tế hiện
nay cho thấy, hầu hết các nước đều sử dụng UCP ấn bản số 500- xuất bản năm
1993 của ICC ( gọi tắt là UCP 500)

15
3.2.Tính chất pháp lý của UCP 500
Phòng Thương mại Quốc tế(ICC) là một tổ chức mang tính xã hội chứ
không phải một tổ chức liên chính phủ. Chính vì vậy mà các văn bản pháp lý của
ICC không được coi là Luật.
UCP chỉ là tập quán quốc tế, không mang tính bắt buộc phải áp dụng, nên

nội dung mang tính chất khuyến nghị, hướng dẫn hơn là bắt buộc thi hành.
Nếu các bên muốn áp dụng thì phải ghi rõ vào L/C(...subject to UCP 500) nếu
không dùng thì không ghi và L/C sẽ áp dụng theo tập quán của mỗi nước. Nếu chỉ
ghi tham chiếu UCP 500 vào hợp đồng, mà không ghi vào L/C thì cũng không có
giá trị thi hành.
Phạm vi áp dụng UCP mang tính chất toàn cầu( trên 174 nước)
Mặc dù thương mại quốc tế đã phát triển và có nhiều thay đổi, TDCT vẫn là
một phương thức được sử dụng rộng rãi và UCP vẫn được coi là công cụ quan
trọng của các Ngân hàng thương mại và doanh nghiệp trên khắp thế giới.
3.3. Áp dụng UCP vào Việt Nam.
Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường và hoà nhập vào nền mậu dịch
thế giới từ cuối thập niên 80. Hoạt động thương mại và Ngân hàng ngày càng sôi
động và phát triển, nhất là khi có sự hiện diện ngày càng nhiều các nhà đầu tư
nước ngoài, và các chi nhánh Ngân hàng lớn của thế giới.
Thanh toán xuất nhập khẩu của các nước tăng lớn không những về kim
ngạch mà còn tăng cả về quy mô và chất lượng . Song song với nó là mặt trái,
những tranh chấp nhiều hơn, phức tạp và tinh vi hơn. Thực tế đòi hỏi Việt Nam
phải nhanh chóng bắt kịp với tốc độ phát triển bằng cách tiến tới hoàn thiện hệ
thống pháp luật, bổ sung và điều chỉnh kịp thời thông lệ và tập quán quốc gia
trong hoạt động thương mại quốc tế.

16
Bởi vậy, cho đến nay UCP 500 được tất cả các Ngân hàng ở Việt Nam áp
dụng thực hiện trong hoạt động thanh toán quốc tế nhằm hoà nhập vào mạng lưới
xuất nhập khẩu toàn cầu.
UCP 500 được dịch ra các bản tiếng Việt để hướng dẫn thực hiện. Bản dịch
thường được in song ngữ, bởi vì ngôn ngữ để vận hành UCP là tiếng Anh chứ
không phải là tiếng địa phương của các quốc gia thành viên nên Bản tiếng Việt chỉ
có giá trị tham khảo.
Căn cứ vào UCP 500 các Ngân hàng Việt Nam thiết lập các qui trình thanh

toán bằng TDCT của riêng mình, nhưng không đi ngược lại tinh thần của UCP
500.
3.4. Mối quan hệ giữa UCP 500 và hệ thống luật quốc gia
UCP là tập quán quốc tế được áp dụng trên toàn cầu, còn luật pháp quốc gia
chỉ có giá trị hiệu lực thi hành trong biên giới của nước đó.
Thông thường, luật quốc gia rất ít có xung đột với thông lệ và tập quán
quốc tế. Bởi vì, ít nhiều luật quốc gia cũng được hình thành và phát triển trên cơ
sở thông lệ quốc tế. Tuy nhiên đối với UCP500 luật pháp của các quốc gia có
những mâu thuẫn nhất định. Mức độ khác biệt giữa hai hệ thống pháp lý này phụ
thuộc phần lớn vào đặc thù của từng nước, vào trình độ phát triển, vào quá trình
mở cửa và hội nhập với nền thương mại thế giới của đất nước đó. Song quan điểm
mà UCP500 luôn nêu ra một cách rõ ràng là khi có những khác biệt hoặc thậm chí
đối lập vơí UCP thì luật quốc gia sẽ được tôn trọng và tuân thủ. Theo tài liệu của
ICC số xuất bản 511 "Do được dẫn chiến áp dụng vào thư tín dụng, UCP chi phối
giao dịch TDCT là cơ bản nhưng không phải là duy nhất. Toà và trọng tài thường
vận dụng UCP bởi nó là một tuyển tập của các thông lệ và tập quán về TDCT
được phổ biến và thông dụng nhất trên toàn thế giới. Tuy nhiên một điều mà

17
chúng ta phải thừa nhận là sự áp dụng của UCP và TDCT không ngăn cản việc toà
áp dụng luật pháp quốc gia".
Trên thực tế, các quốc gia đều có những luật hoặc các văn bản dưới luật quy
định về giao dịch tín dụng chứng từ trên cơ sở thông lệ quốc tế có tính đến đặc thù
của sự phát triển kinh tế và thông lệ, tập quán của nước họ. UCP500 đến nay được
tất cả các NH áp dụng nhằm hoà nhập vào mạng lưới thanh toán quốc tế trên toàn
cầu.
Ngoại trừ Mỹ và Colombia là hai nước duy nhất chấp nhận UCP là một bộ
phận của hệ thống pháp luật của họ, các nước còn lại trên thế giới đều nhìn nhận
Incoterm và UCP là hai văn bản nằm trong hệ thống thông lệ và tập quán quốc tế
mà khách hàng các nước muốn trao đổi mậu dịch với nhau đều tuân thủ. Tuy

nhiên, mức độ vận dụng UCP vào thực tiễn của các nước trên thế giới là khác
nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển, hệ thống pháp luật, thông lệ và tập quán
của từng quốc gia. Chẳng hạn, Theo Bộ luật dân sự(Civil Code) của Liên Bang
Nga có hiệu lực từ 01-03-1996, qui định một số vấn đề về giao dịch tín dụng
chứng từ liên quan đến UCP 500. Luật này điều chỉnh khá nhiều các điều khoản
của UCP 500 thậm chí có một số điều khoản còn trái ngược với thông lệ quốc tế.
Thí dụ Điều 873, chương 46 quy định nếu NH không nói rõ tín dụng thư không
được huỷ ngang, thì nó được coi là huỷ ngang, trái ngược với điều 5 của UCP
500, trong trường hợp đó nó được xem là L/C không thể huỷ ngang.
Đối với nước ta việc áp dụng UCP500 trong các tổ chức tín dụng NH được
phép thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế gần như tuyệt đối mà không bị bất cứ
một sự điều chỉnh nào, chỉ khi nào có vụ việc phát sinh thì mới có sự can thiệp của
toà án. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có văn bản nào quy định, hướng dẫn việc
áp dụng UCP và các thông lệ khác trong giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu bằng
L/C để các NH thương mại áp dụng vào thực tế các văn bản như vậy rất cần thiết

18
không chỉ đối với NH mà còn là cơ sở để toà án, trọng tài kinh tế áp dụng, xét xử
các tranh chấp nếu có.
4. Thư tín dụng thương mại
4.1. Khái niệm
L/C là một văn bản được NH lập ra theo yêu cầu của khách hàng (người
yêu cầu mở L/C / người nhập khẩu) nhằm cam kết trả tiền cho người bán (người
hưởng lợi / người xuất khẩu) một số tiền nhất định, trong một thời hạn nhất định
với điều kiện người này thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản quy định trong
thư tín dụng.
Thuật ngữ "tín dụng" bắt nguồn từ Creditum( gốc Latin) hay Credit không
được hiểu duy nhất với nghĩa tín dụng, mà được sử dụng và hiểu theo nghĩa rộng
là sự tín nhiệm. Trong trường hợp người nhập khẩu kí quĩ 100% số tiền của thư
tín dụng thì thực chất NH không cấp 1 khoản tín dụng nào cả mà là cho người

nhập khẩu "vay" sự tín nhiệm của mình. Tức là lời hứa trả tiền của NH thay cho
lời hứa trả tiền của nhà nhập khẩu, vì người ta tin tưởng NH hơn là tin tưởng nhà
nhập khẩu ít ra về phương diện tài chính. Vì lẽ đó, đối với NH phương thức tín
dụng chứng từ còn có thể gọi là hình thức "tín dụng bằng chữ ký"
4.2. Chức năng của L/C
- L/C là công cụ quan trọng nhất trong hoạt động thanh toán quốc tế bằng
tín dụng chứng từ. Bởi vì nếu L/C được lập ra thì phương thức này cũng không
còn tồn tại.
- L/C là một văn bản pháp lý thể hiện cam kết trả tiền của NH đối với người
hưởng lợi nếu người đó xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo phù hợp với những điều
kiện và điều khoản trong L/C.
- L/C là phương tiện cấp tín dụng cho người mở L/C, nhà nhập khẩu.

19
Bởi vì khi NH phát hành ra L/C thì NH đã chịu cấp cho nhà nhập khẩu
"khoản tín nhiệm" của mình. Nghĩa là trong bất cứ trường hợp nào người hưởng
lợi tuân thủ chặt chẽ quy định của L/C thì NH đều phải trả tiền cho họ (trách
nhiệm trả tiền chuyển từ người nhập khẩu sang NH).
4.3. Đặc điểm & tính chất của L/C
L/C hình thành trên cơ sở HĐMBNT nhưng sau khi ra đời lại hoàn độc lập
với HĐMB này.
 L/C được hình thành trên cơ sở HĐMBNT
- Việc đồng ý áp dụng phương thức thanh toán bằng L/C do cả hai bên
người mua người bán thống nhất và được quyết định trong HĐNT. Khi HĐ quyết
định sử dụng L/C thì người mua mới có trách nhiệm yêu cầu NH phục vụ mình
mở L/C cho người bán hưởng. Sau khi L/C đã được mở và được người bán chấp
nhận thì người bán sẽ tiến hành giao hàng.
- Xét về mặt bản chất, L/C là một chứng thư cam kết của NH phục vụ
người mua đối với người bán về nghĩa vụ thanh toán tiền hàng được quyết định
trong hợp đồng mua bán (số lượng, giá cả). Vì vậy L/C phải phản ánh được thực

tế giá trị của hợp đồng mua bán này.
- Trong trường hợp nếu hợp đồng mua bán được điều chỉnh (chẳng hạn giá
bán hàng hoá biến động làm tăng giá hàng hoá lên... ) thì việc sửa đổi L/C sẽ được
tiến hành sao cho phù hợp với vốn những quyết định trong hợp đồng mua bán sửa
đổi trên.
 Sau khi ra đời thư tín dụng hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán
Theo qui định của UCP: “ Thư tín dụng và hợp đồng mua bán mà nó có thể
căn cứ xác lập, là các giao dịch độc lập với nhau cho dù trong thư tín dụng có đề

20
cập đến hợp đồng, nhưng NH không có trách nhiệm và liên quan đến hợp đồng
đó, do vâỵ không bị nó ràng buộc”
Thật vậy:
- Trường hợp phát hành L/C chỉ căn cứ trên cơ sở đơn xin mở L/C, số tiền
trên tài khoản và hợp đồng mua bán của người mua để mở L/C cho người bán
hưởng. Tuy nhiên quan trọng là NH sẽ mở L/C cho người mua hưởng theo đơn
xin mở L/C, còn HĐMB hàng hoá chỉ là bằng chứng kiểm tra tính chân thực của
khách hàng mà thôi.
- Trong một số L/C thường không phản ánh tất cả được các nội dung của
hợp đồng ( chủng loại, phẩm chất, quy cách...) nhưng nó sẽ được dẫn chiếu tới
điều khoản phẩm chất trong hợp đồng ngoại thương. Trong mọi trường hợp NH
chỉ căn cứ vào nội dung của L/C mà không quan tâm đến nội dung hợp đồng.
- Khi người Bán xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo phù hợp với điều kiện và
điều khoản qui định trong L/C thì NH sẽ tiến hành trả tiền cho người hưởng lợi
mà không biết là hợp đồng có được thực hiện hay không. Nói cách khác NH chỉ
quan tâm đến bề mặt của các chứng từ để thanh toán cho người xuất khẩu chứ
không quan tâm đến việc hoàn thành nghĩa vụ giao hàng( Đó là quan hệ thương
mại giữa người Mua và người Bán), kể cả trong trường hợp chứng từ bị giả mạo.
- Sửa đổi hợp đồng mà không sửa đổi L/C thì NH chỉ căn cứ vào L/C để
thực hiện nghĩa vụ của mình chứ không quan tâm đến hợp đồng nói trên.

Ngược lại thông qua NH sửa đổi L/C nhưng không sửa đổi hợp đồng thì
đến khi xuất trình chứng từ tuy phù hợp với những điều khoản hợp đồng song lại
không phù hợp với L/C. NHPH có quyền từ chối thanh toán bộ chứng từ đó.
- Hợp đồng có thể bị huỷ bỏ, đó là quan hệ thương mại giữa người nhập
khẩu và người nhập khẩu song L/C đã được mở ra tức là quan hệ kinh tế giữa NH

21
và người xuất khẩu được thiết lập, bởi vậy điều đó không có nghĩa huỷ bỏ trách
nhiệm của NH đối với L/C.
Khi người mua và người bán huỷ hợp đồng thì đây là lý do chính đáng để
yêu cầu NH huỷ bỏ L/C. Song người hưởng lợi là người đề nghị huỷ L/C và có sự
đồng ý của người mở L/C.
4.4. Nội dung chủ yếu của L/C
a) Số hiệu, địa điểm, ngày mở L/C.
* Số hiệu: dùng để trao đổi thư từ điện tín còn được dùng để ghi vào các
chứng từ liên quan như hối phiếu,...
* Địa điểm mở L/C: là nơi NH mở L/C viết cam kết trả tiền cho người xuất
khẩu. Địa điểm này có trách nhiệm trong việc chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh
chấp nếu có xung đột về L/C đó.
* Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết giữa NH với người mở
L/C là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và là căn cứ để người xuất
khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có mở L/C đúng hạn không.
b) Tên, địa chỉ những người có liên quan.
c) Số tiền của L/C
Số tiền của L/C vừa được ghi bằng số, vừa được ghi bằng chữ và thống nhất
với nhau. Không thể chấp nhận một L/C có số tiền bằng số và bằng chữ mâu thuẫn
nhau.
d) Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng.
- Thời hạn hiệu lực: là thời hạn mà NH mở L/C cam kết trả tiền cho người
xuất khẩu nếu người xuất khẩu xuất trình bản chứng từ trong thời hạn đó và phù


22
hợp với những quan điểm qui định L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C tính từ ngày
mở L/C (date of issuing) đến hết ngày hiệu lực L/C (expiry date).
- Thời hạn trả tiền của L/C (date of payment): Là thời hạn trả tiền ngay hoặc
trả sau phụ thuộc vào quy định của hợp đồng và được ghi trong hối phiếu khi
người xuất khẩu ký phát hối phiếu (có thể nằm trong và nằm ngoài hiệu lực của
L/C).
- Thời hạn giao hàng: cũng được ghi trong hợp đồng và trong L/C, nó có
mối quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực L/C và thường nằm trong thời hạn hiệu
lực của L/C
e) Những nội dung về hàng hoá như: tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá
cả, quy cách, phẩm chất, ký mã hiệu,...
g) Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá như điều kiện giao hàng,
cách vận chuyển và cách giao hàng.
h) Sự cam kết trả tiền của NH mở L/C, ràng buộc trách nhiệm của NH mở
L/C.
i) Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình.
Đây là nội dung then chốt của L/C. Bởi vì, bộ chứng từ quy định trong L/C
là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh rằng mình đã hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng và làm đúng những điều quy định trong L/C. Do vậy, NH mở
L/C phải dựa vào đó để tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu, nếu bộ chứng từ
phù hợp với những quy định trong L/C.
Chứng từ phải thoả mãn 3 điều kiện:
+ Số loại chứng từ
+ Số lượng chứng từ mỗi loại

23
+ Yêu cầu về việc ký phát chứng từ đó như thế nào?
Thông thường một bộ chứng từ bao gồm:

*Hoá đơn thương mại: là chứng từ do người bán lập bao gồm các thông tin
sau: số và ngày của đơn đặt hàng, mô tả chi tiết hàng hoá, đơn giá, số lượng hàng,
điều khoản giao hàng, điều khoản thanh toán, cân nặng, chi tiết đóng gói... Hoá
đơn thương mại được coi là một trong những chứng từ hàng hoá cần thiết phải có
của bộ chứng từ. Trong trường hợp không dùng hối phiếu hoá đơn thương mại
được coi là căn cứ để tính tiền hàng.
*Chứng từ vận tải: là chứng từ do người chuyên chở cấp để xác nhận rằng
mình đã nhận hàng để chở. Việc người vận tải ký phát một bộ vận đơn sạch chứng
tỏ không có bất cứ điều khảon nào nói về tình trạng hư hỏng của hàng hoá. Điều
này đồng nghĩa với trách nhiệm giao hàng của người bán đã hoàn thành. Vận đơn
có thể là vận đơn đường biển (marine / Ocean Bill of ladding), đường hàng không
(airway bill), đường sắt (Railway bill)...
* Các chứng từ bảo hiểm: là chứng từ do công ty bảo hiểm cấp cho người
mua bảo hiểm hàng hoá trong quá trình chuyên chở hàng hoá. Hàng hoá xuất khẩu
luôn được bảo hiểm đầy đủ từ thời điểm rời nhà máy tới khi người mua nhận
hàng. Người mua phải trả bảo hiểm phí và công ty bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi
thường những tổn thất rủi ro xảy ra theo những điều khoản đã được ký kết.
Chứng từ bảo hiểm thường có 2 loại được sử dụng phổ biến
- Bảo hiểm đơn (insurance policy)
- Giấy chứng nhận bảo hiểm (insurance certificate)
Sự khác biệt chủ yếu giữa hai loại chứng từ trên là, bảo hiểm đơn thông
thường được sử dụng cho các đối tượng bảo hiểm riêng biệt và đơn chuyến, theo
từng đợt hàng nhất định. Ngược lại giấy chứng nhận bảo hiểm lại là loại chứng từ

24
bảo hiểm do nhà cung cấp bảo hiểm phát ra xác nhận một lô hàng nào đó đã được
bảo hiểm theo một hợp đồng dài hạn.
Ngân hàng sẽ không chấp nhận xuất trình phiếu bảo hiểm (cover note) vì đó
không phải là hợp đồng hoặc chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm hoặc đại
lý uỷ thác công ty lập, mà chỉ đơn thuần là chứng từ tạm thời được cấp phát trước

khi có các chứng từ chính của hợp đồng bảo hiểm.
* Các chứng từ hải quan
- Giấy chứng nhận kiểm định và giấy chứng nhận vệ sinh
- Giấy chứng nhận kiểm định động vật (veterinary certificate)
- Giấy chứng nhận kiểm định thực vật (phytosanitary certificate)
- Giấy chứng nhận vệ sinh (sanitary certificate)
- Giấy chứng nhận xuất xứ (certificate of origin) (C/O)
là chứng từ do tổ chức có thẩm quyền( ví dụ: Bộ thương mại, phòng thương
mại và công nghiệp...) cấp để xác nhận nơi sản xuất hoặc khai thác của hàng hoá.
Đây là chứng từ cần thiết cho hải quan để tính thuế đồng thời phản ánh phần nào
phẩm chất hàng hoá. Bởi vì đặc điểm phong thổ và điều kiện sản xuất ở đó có ảnh
hưởng đến chất lượng hàng hoá( Như rượu vang Pháp, cà phê Brazil,...)
Một số dạng form C/O được sử dụng:
+ Form “A” được sử dụng cho các nước được hưởng GSP
+ Form “B” thường dùng cho các sản phẩm xuất khẩu mà người Mua yêu
cầu cung cấp C/O( ở Việt Nam hay dùng loại này)
+ Form “C” dùng thực hiện các giao dịch có liên quan đến bản thoả thuận
thương mại song phương
+ Form “D” sử dụng cho các nước trong khối ASEAN tham gia vào
CEPT/AFTA.

25

×