Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Hồng Thái - GV Hồ Thị Quế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.49 KB, 21 trang )

Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
A: PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Giáo dục Tiểu học là nền móng đầu tiên giúp con người tồn tại và phát triển, trong đó
môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng vì nó hình thành và phát triển cho học sinh
khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ, giúp trẻ tiếp thu các môn học khác.
Tiếng Việt ở Tiểu học gồm nhiều phân môn như : Tập đọc, Luyện từ và câu,
Kể chuyện, Chính tả, Tập làm văn ,…Mỗi môn học đều có một chức năng, khi dạy ngữ
văn ở nhà trường đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn mà Tập đọc là
phân môn giữ vai trò không nhỏ.
Tập đọc là phân môn có vị trí quan trọng hàng đầu trong chương trình Tiếng Việt ở
Tiểu học. Dạy tốt phân môn này không những rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc mà
còn phát triển cho các em vốn từ ngữ phong phú, tạo điều kiện để các em học tốt các
phân môn khác. Rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh như: đọc đúng, đọc nhanh, đọc
chính xác, rõ ràng, rành mạch, diễn cảm để học sinh có những hiểu biết về kiến thức văn
học, về ngôn ngữ và ngược lại khi hiểu được những văn bản đọc sẽ giúp học sinh hiểu
được đọc diễn cảm. Vì vậy giữa việc đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là hai quá trình
có liên quan gắn bó mật thiết với nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh được văn hoá
của dân tộc, tiếp thu được nền văn minh của loài người thông qua sách vở. Qua việc đọc,
học sinh biết đánh giá cuộc sống xã hội, tư duy. Cũng qua hoạt động đọc, tình cảm, thẩm
mỹ của các em được nâng lên cao, tầm hiểu biết của các em nhìn ra thế giới xung quanh
và quá trình nhận thức cũng có chiều sâu hơn. Sự phát triển nhiều mặt này tạo điều kiện
để trẻ phát huy được mọi khả năng tiềm tàng, từ đó tạo cơ hội để sau này trẻ giúp ích cho
xã hội. Phân môn Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ
quan trọng: đọc rành mạch, lưu loát bài văn (khoảng 120 tiếng/ phút), đọc có biểu cảm
bài văn, bài thơ ngắn, hiểu nội dung, ý nghĩa bài đọc. Thông qua các bài văn, bài thơ, học
sinh càng thêm yêu các miền quê của đất nước, đồng cảm với mọi tầng lớp nhân dân, mọi
con người trên đất nước Việt Nam cũng như trên thế giới, biết quý trọng, giữ gìn những
truyền thống quý báu của dân tộc ta.
Phân môn Tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục thẩm mĩ, giúp học sinh thêm
yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong văn chương. Môn học


này góp phần rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng, tư duy lôgic. Giờ tập đọc, ngoài việc
rèn đọc, dẫn dắt cho học sinh cảm thụ tốt bài văn, thấy cái hay cái đẹp của hình tượng văn
học, chúng ta còn cho học sinh tìm bố cục để phát triển óc phân tích, tìm đại ý để phát triển
óc tổng hợp. Ngoài ra còn rèn óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ
Phân môn Tập đọc kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác của chương trình Tiếng
Việt. Qua các bài văn, bài thơ chọn lọc, học sinh vừa cảm thụ được cái hay cái đẹp, vừa học
cách dùng từ chính xác, đặt câu sinh động, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn.
Học phân môn Tập đọc, việc rèn đọc và cảm thụ bài đọc là hai yếu tố không thể thiếu,
hai yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó, hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt
giúp cho các em tìm được giọng đọc thích hợp cho bài đọc, từ đó các em sẽ đọc một cách hay,
diễn cảm. Ngược lại, đọc diễn cảm không tốt sẽ khó khăn trong việc cảm thụ bài văn.
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
1
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
Muốn có kĩ năng đọc hay, diễn cảm, học sinh phải có khả năng cảm thụ bài đọc ở
mức độ nhất định. Khi đã có kĩ năng đọc tốt, học sinh sẽ hiểu đúng, cảm thụ sâu sắc hơn.
Phân môn Tập đọc luôn luôn thể hiện sự gắn bó chặt chẽ quá trình đọc và quá trình hiểu
(hiểu nội dung cơ bản của bài đọc qua hệ thống từ ngữ, kiểu câu, bố cục và thể loại văn
bản để đọc đúng, đọc hay và từ đó giúp học sinh cảm thụ cái hay cái đẹp của tư tưởng,
tình cảm, của nghệ thuật ngôn từ để thể hiện ra cách đọc, giọng đọc, đọc diễn cảm).
Ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng phân môn Tập đọc có 2 yêu cầu chính là:
+ Rèn kĩ năng tập đọc.
+ Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn.
Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật thiết với
nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau, cảm thụ tốt giúp việc đọc diễn cảm tốt. Điều đó
khẳng định rằng trong tiết tập đọc lớp 5, việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh là rất
cần thiết. Trong tiết học, học sinh biết đọc diễn cảm thì tiết học mới có hiệu quả cao và
mới thể hiện được tầm quan trọng của bộ môn.
Trong thực tế giảng dạy, việc rèn cho học sinh đọc diễn cảm còn gặp nhiều khó khăn,
lúng túng làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Rèn đọc diễn

cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái”. để nghiên cứu và vận dụng vào thực
tế lớp 5/1 - Trường Tiểu học Hồng Thái nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
II. Đối tượng nghiên cứu
Giúp học sinh khối lớp 5 và đặc biệt là học sinh lớp 5/1- Trường tiểu học Hồng
Thái rèn đọc diễn cảm.
III. Phạm vi nghiên cứu
Phân môn Tập đọc lớp 5, tập trung vào việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 5/1 - Trường Tiểu học Hồng Thái trong năm học 2013-2014.
VI. Phương pháp nghiên cứu
a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tìm đọc các tài liệu, tạp chí, giáo trình có nội
dung rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh.
b) Phương pháp điều tra: Dự giờ, trao đổi với các bạn đồng nghiệp, học sinh về những
khó khăn cũng như những thuận lợi khi thực hiện dạy và học trong các giờ học Tập đọc trên lớp,

c) Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức cho học sinh thực hiện các yêu cầu của giải
pháp đề ra, kiểm tra kết quả và tác dụng của giải pháp khi tiến hành.
d) Phương pháp so sánh, đối chiếu: Tổ chức so sánh, đối chiếu kết quả trước và
sau khi thực hiện giải pháp để thấy được kết quả cũng như hạn chế nhằm tìm ra hướng
điều chỉnh, khắc phục hợp lí.
B: NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
2
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm hình thành và phát triển ở học sinh
các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các
môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn
luyện các thao tác của tư duy cho học sinh.
Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ
giản về xã hội, về tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài.

Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu
đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ năm học 2006- 2007 học sinh lớp 5 được học chương trình tiểu học mới ở tất cả
các môn. Trong đó môn Tiếng Việt gồm 10 đơn vị học, mỗi đơn vị học ứng với một chủ
điểm học trong 3 tuần (riêng chủ điểm Vì hạnh phúc con người được học trong 4 tuần), các
chủ điểm học tập xoay quanh những vấn đề lớn đặt ra cho đất nước, dân tộc và cả loài người.
*Phân môn Tập đọc giúp học sinh:
+ Củng cố kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các lớp 1, 2, 3, 4;
Tăng cường tốc độ đọc, biết đọc lướt để chọn thông tin nhanh; tiếp tục rèn luyện kĩ năng
đọc diễn cảm là kĩ năng bắt đầu được rèn luyện từ lớp 4.
+ Phát triển kĩ năng đọc hiểu lên mức cao hơn: nắm và vận dụng được một số khái
niệm như đề tài, cốt truyện, tính cách,…để hiểu ý nghĩa của bài và phát hiện một vài giá
trị nghệ thuật trong các bài văn, thơ. Đây là yêu cầu trọng tâm.
+ Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình
thành nhân cách của con người mới.
* Yêu cầu về kĩ năng đọc đối với học sinh lớp 5:
+ Đọc các văn bản nghệ thuật, khoa học, hành chính, báo chí.
+ Đọc thầm.
+ Đọc diễn cảm đoạn văn, bài thơ, màn kịch ngắn.
+ Tìm hiểu ý nghĩa của bài văn, bài thơ và một số chi tiết có giá trị nghệ thuật trong
bài văn, bài thơ. Nhận xét về nhân vật, hình ảnh và cách sử dụng từ ngữ trong bài văn, bài thơ.
+ Đọc thuộc một số bài văn, bài thơ.
+ Dùng từ điển học sinh hoặc các sách công cụ để tra cứu, ghi chép thông tin.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Điều tra thực trạng
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 5, tôi thấy việc dạy của giáo viên và việc học của học
sinh có một số vấn đề như sau:
Về phía giáo viên: Đối với đa số giáo viên, Tập đọc không phải là phân môn khó
dạy. Hầu hết trong số họ đều có nhiều cố gắng trong việc tìm tòi phương pháp, nghiên
cứu nội dung, học hỏi kinh nghiệm, đặc biệt có đổi mới phương pháp giảng dạy“ lấy học

sinh làm trung tâm” song kết quả cho thấy học sinh chưa đọc được hay (đọc diễn cảm)
bài đọc. Bởi trong khi dạy, giáo viên thường mới chỉ coi trọng và sửa cho học sinh vấn đề
đọc to, rõ ràng, lưu loát chứ chưa quan tâm nhiều đến kỹ thuật đọc, giọng đọc, cách đọc
diễn cảm của học sinh hay việc đọc mẫu của giáo viên. Giáo viên dạy Tập đọc như dạy
Văn trước đây. Nhìn chung phương pháp còn mang tính chất hưởng thụ và áp đặt (về
cách hiểu nội dung bài, cách đọc bài). Giáo viên giảng giải quá nhiều về các từ khó, về ý
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
3
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
nghĩa của bài mà xem nhẹ phần luyện đọc, đặc biệt là luyện đọc diễn cảm. Bên cạnh đó,
do khách quan, một số giáo viên không có chất giọng tốt để đọc hay bài đọc. Giáo viên
tiểu học lại dạy quá nhiều môn trong một buổi học nên việc đầu tư thời gian để luyện đọc
trước khi lên lớp còn có phần hạn chế
Về phía học sinh: Học sinh không quan tâm đến phương pháp đọc của mình, do đó
các em rất yếu về năng lực di chuyển kĩ năng đọc đã được hình thành ở các lớp trước, các
bài trước để giải quyết những vấn đề đặt ra trong bài mới. Các em đã đọc thành tiếng,
phát âm đúng và rõ các tiếng có vần khó. Nhưng đọc để thể hiện nội dung bài đọc thì còn
thấp. Khi đọc, nhiều em chưa hiểu ý của từng đoạn, từng bài, các em ngắt nghỉ câu văn,
ngắt nhịp câu thơ chưa chính xác, chưa thể hiện được nội dung và tình cảm bài đọc bằng
sắc thái giọng đọc vui, buồn, trầm, bổng, gợi cảm Kĩ năng đọc lướt để tìm hiểu nội
dung bài chưa tốt ở đa số các em.
Ảnh hưởng của phương ngữ: Tình trạng phát âm lẫn giữa thanh ngã và thanh sắc,
còn nặng nề. Do đặc điểm vùng miền, kinh tế ở gia đình chưa cao nên các em chưa được
tạo điều kiện tốt để học tập. Qua điều tra khảo sát chất lượng đọc của học sinh ngay từ
đầu năm học, tôi thấy lượng học sinh đã biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít, nhất là
đối với những học sinh có lực học trung bình hay yếu.
Cụ thể điều tra chất lượng đọc của học sinh hai lớp 5 đầu năm học này có số liệu
cụ thể như sau:
- Lớp 5/1 đầu năm học 2013- 2014
Sĩ số Học sinh đọc nhỏ, chậm Học sinh đọc to, lưu loát Học sinh đọc diễn cảm

16 9 học sinh = 56,25 % 5 học sinh = 31,25 % 2 học sinh = 12,5%
- Lớp 5/2 đầu năm học 2013 - 2014
Sĩ số
Học sinh đọc nhỏ, chậm Học sinh đọc to, lưu loát Học sinh đọc diễn cảm
15 8 học sinh = 53,34% 5 học sinh = 33,33% 2 học sinh = 13,33 %
2. Phương pháp nghiên cứu
Trước hiện trạng trên, tôi đã suy nghĩ: Phải làm thế nào để nâng cao chất lượng đọc
cho học sinh tốt hơn nữa, nhất là đọc diễn cảm. Để thực hiện được điều đó, tôi đã nghiên
cứu và tiến hành phối hợp sử dụng nhiều phương pháp:
+ Phương pháp điều tra.
+ Phương pháp so sánh đối chứng.
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp kiểm tra đánh giá.
+ Phương pháp tổng hợp,
Ở phương pháp điều tra: không chỉ dừng lại ở điều tra thực trạng mà phải điều tra
qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với giáo viên và học sinh ở tiểu học, tìm
hiểu thực tế việc dạy và học phân môn Tập đọc trong trường Tiểu học.
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
4
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
Ở phương pháp so sánh đối chứng: không những so sánh đối chứng trong cùng một
giai đoạn giữa lớp này với lớp kia, giữa các giai đoạn với nhau trong cùng một lớp mà
còn đối chứng cả với những năm học trước.
Phương pháp quan sát: tinh thần, thái độ, ý thức trong học Tập đọc của học sinh
lớp mình, học sinh lớp khác trong khi đi dự giờ mà còn quan sát phương pháp sư phạm
của giáo viên giảng dạy để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng
đọc diễn cảm của học sinh.
Phương pháp kiểm tra đánh giá: được tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm
tra toán học và phương pháp tổng hợp số liệu. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng đọc của
từng học sinh, tôi mô tả và thống kê chất lượng ấy bằng những số liệu cụ thể, sau đó tổng

hợp các số liệu đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân.
3. Công việc thực làm
3. 1. Tìm hiểu về mục tiêu, cấu trúc, phương pháp dạy phân môn Tập đọc 5
a. Tập đọc là gì?
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn
ngữ cho học sinh. Đọc không chỉ là công việc giải quyết một bộ mã gồm hai phần chữ viết
và âm thanh, nghĩa là nó không phải chỉ là sự "đánh vần" lên thành tiếng theo đúng như các
ký hiệu chữ viết, mà đọc còn là quá trình nhận thức để có khả năng hiểu đọc những gì đã
được đọc. Tập đọc là cách học văn bản từ đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm. Dạy
Tập đọc chính là việc giáo viên hướng dẫn hoàn thành 4 phẩm chất trên.
b. Y nghĩa của việc đọc
Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Nó trở thành một đòi hỏi
cơ bản, đầu tiên đối với mỗi người đi học. Trước tiên, trẻ phải học đọc, sau đó phải đọc
để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập, nó cũng là
công cụ để học các môn khác, nó tạo ra hứng thú và động cơ trong học tập. Đồng thời nó
tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học. Đọc là khả năng không thể
thiếu được của con người. Trong thời đại văn minh, biết đọc sẽ giúp các em hiểu biết
nhiều hơn, hướng các em tới cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết tư duy.
Như vậy, việc dạy đọc và đọc có một ý nghĩa vô cùng to lớn vì nó bao gồm nhiệm
vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
c. Mục tiêu của phân môn Tập đọc ở sách Tiếng Việt lớp 5
Phân môn Tập đọc lớp 5 tiếp tục củng cố và nâng cao kĩ năng đọc một cách đầy đủ,
toàn diện cho học sinh nhằm hoàn thiện yêu cầu cần đạt ghi trong Chương trình Tiểu học do
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành: Đọc rành mạch, lưu loát bài văn (khoảng 120 tiếng/
phút); đọc có biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn; hiểu nội dung, ý nghĩa của bài đọc. Cụ thể:
- Củng cố, phát triển kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các lớp dưới;
tăng cường tốc độ đọc, khả năng đọc lướt để chọn thông tin nhanh; khả năng đọc diễn cảm.
- Phát triển kĩ năng đọc - hiểu lên mức cao hơn: nắm và vận dụng được một số khái
niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách, để hiểu ý nghĩa của bài và phát hiện
một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ.

Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
5
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
- Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình thành
nhân cách của con người mới.
d. Nội dung, cấu trúc phân môn Tập đọc lớp 5
Phân môn Tập đọc ở lớp 5 gồm 66 tiết/ năm, mỗi tuần có hai tiết. 40 bài văn xuôi
thuộc loại hình nghệ thuật, báo chí, khoa học, 2 vở kịch (trích), 18 bài thơ.
Các bài Tập đọc gồm các chủ đề: " Việt Nam- Tổ quốc em ", " Cách chim hoà
bình", " Con người với thiên nhiên", "Giữ lấy màu xanh", "Vì hạnh phúc con người",
"Người công dân", "Vì cuộc sống thanh bình", "Nhớ nguồn", "Nam và nữ", "Những chủ
nhân tương lai". Bài Tập đọc lớp 5 nhằm mục đích:
- Tiếp tục củng cố và nâng cao kĩ năng đọc cho HS: đọc trơn, đọc thầm với tốc độ
nhanh hơn, nâng cao kĩ năng đọc diễn cảm. Ở lớp 5, HS được rèn kĩ năng đọc hiểu ở
mức: Nhận biết được đề tài hoặc chủ đề đơn giản của bài; nắm được dàn ý của bài, biết
tóm tắt đoạn, bài; hiểu được ý nghĩa của bài; biết phát hiện và bước đầu biết nhận định về
giá trị của một số nhân vật, hình ảnh trong các bài đọc có giá trị văn chương; làm quen
thao tác đọc lướt để nắm ý hoặc chọn ý. Xây dựng cho HS thói quen tìm đọc sách ở thư
viện, dùng sách công cụ (từ điển, ) và ghi chép những thông tin cần thiết khi đọc.
- Mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho HS: Các bài
đọc phản ánh vấn đề cơ bản về đạo đức, phẩm chất của con người, đề cập đến các đề tài
về trẻ em và quyền của trẻ em, bảo vệ môi trường, giáo dục dân số, giới tính, ca ngợi tình
đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc, Hệ thống chủ điểm của các bài đọc trong sách
Tiếng Việt 5 vừa mang tính khái quát cao vừa có tính hình tượng góp phần cung cấp cho
HS những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người trong nước và thế giới. Qua các bài
tập đọc, HS còn được cung cấp về vốn từ ngữ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm
văn học (đề tài, cốt truyện, nhân vật, ), từ đó nâng cao trình độ văn hoá nói chung và
trình độ tiếng Việt nói riêng.
Các bài đọc gồm các phần: văn bản đọc, chú giải những từ ngữ khó, hướng dẫn đọc
(chỉ dẫn cách đọc một số câu khó, đoạn khó, cách ngắt nhịp, nhấn giọng hoặc gợi ra những

đặc điểm về nội dung, những sắc thái tình cảm được biểu hiện qua giọng đọc). Phần tìm hiểu
bài gồm những câu hỏi, bài tập giúp học sinh hiểu giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài
văn, bài thơ. Ở nhiều bài có thêm yêu cầu học thuộc lòng từng đoạn, cả bài.
e. Phương pháp dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
Trong thực tế mỗi bài tập đọc gồm có hai phần lớn: tìm hiểu nội dung và luyện
đọc. Hai phần này có thể cùng tiến hành một lúc đan xen vào nhau hoặc cũng có thể dạy
tách hai phần tuỳ theo từng bài mà giáo viên lựa chọn. Dù dạy theo cách nào thì hai phần
này cũng luôn có mối quan hệ tương hỗ khăng khít với nhau. Phần tìm hiểu bài giúp cho
học sinh hiểu kĩ nội dung, nghệ thuật của bài, từ đó các em đọc diễn cảm tốt hơn. Ngược
lại, học sinh đọc hay, đọc diễn cảm để thể hiện tốt nội dung của bài, thể hiện những điều
hiểu biết xung quanh bài đọc.
Như vậy, việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm trong dạy Tập đọc rất quan trọng góp
phần giúp học sinh biết cách xác định ngữ điệu từng loại văn bản, làm giàu vốn kiến thức
ngôn ngữ và kiến thức văn học cho học sinh, từ đó góp phần hình thành ở các em ý thức
được cách đọc nhằm diễn tả nội dung một cách tốt nhất.
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
6
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
Để bài dạy đạt kết quả cao, cần quan tâm đến cách tổ chức và lôgic các nội dung bài
trong giờ học không bị ngắt quãng, gián đoạn. Giáo viên phải lấy học sinh làm trung tâm.
Vai trò của giáo viên trong mỗi tiết học chỉ là người tổ chức, dẫn dắt học sinh tự tìm ra tri
thức. Ngoài ra, để phần tìm hiểu bài tiến hành được tốt thì cần phải có yếu tố như: cơ sở vật
chất đầy đủ, tranh ảnh minh hoạ cho bài tập phải đẹp, phong phú và cuối cùng là trình độ
giáo viên phải đáp ứng được yêu cầu của môn học. Nếu phối hợp được các yếu tố nói trên sẽ
giúp học sinh hiểu bài nhanh và sâu, hiểu một cách có hệ thống và làm tăng hiệu quả giờ
học. Các em hứng thú học, thích học Tiếng Việt, biết yêu cuộc sống qua từng bài học.
3.2. Những công việc thực tế đã làm
Từ những hiểu biết của mình về phân môn Tập đọc nói chung và rèn kĩ năng đọc
cho học sinh lớp 5/1- Trường Tiểu học Hồng Thái nói riêng, tôi đã suy nghĩ tự đặt ra cho
mình phải nhận thức được tầm quan trọng của phân môn. Đặc biệt quan tâm nhiều đến

việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh với những yêu cầu đề ra. Thực tế, tôi luôn luôn tìm
tòi nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của lớp người đi trước, để tìm ra phương pháp giảng
dạy, truyền thụ kiến thức và đặc biệt là cách rèn đọc diễn cảm cho học sinh.
Muốn rèn đọc diễn cảm tốt, trước hết trong các giờ Tập đọc, học sinh phải nắm
được nội dung, phong cách văn bản của bài đọc, mức độ đọc diễn cảm tỉ lệ thuận với mức
độ hiểu bài của học sinh. Qua hệ thống từ ngữ, kiểu câu, bố cục, thể loại văn bản các
em cảm thụ sâu sắc văn bản (bài văn, bài thơ) từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc
diễn cảm văn bản nghệ thuật, đọc đúng ngữ điệu các văn bản có mục đích thông báo
khác. Đọc diễn cảm (đọc hay) là biết thể hiện kĩ thuật đọc phù hợp với từng bài như: ngắt
nhịp đúng câu văn, câu thơ, thể hiện được nội dung bài đọc bằng sắc thái giọng đọc vui,
buồn, trầm, bổng, gợi cảm, nhẹ nhàng, thiết tha hay mạnh mẽ, dứt khoát, tốc độ chậm rãi,
khoan thai hay dồn dập Ngoài ra, cần biết thể hiện đúng các kiểu câu như: câu hỏi, câu
kể, câu cảm Biết phân biệt giọng đọc của các nhân vật, của người dẫn chuyện trong bài.
Học sinh bước đầu làm chủ được giọng đọc sao cho vừa đúng về ngữ điệu, về tốc độ, cao
độ, trường độ và âm sắc; vừa thể hiện cảm nhận riêng của từng cá nhân nhằm diễn tả
đúng nội dung đọc.
Để đạt những yêu cầu trên tôi đã tiến hành phương pháp rèn đọc cho học sinh như sau:
*Phương pháp tiến hành
Sau khi được phân công chuyên môn, việc làm đầu tiên là tôi cho lớp ổn định mọi nề nếp
tổ chức. Sau đó đi sâu, đi sát để nắm được từng đối tượng học sinh về lực học, về hoàn cảnh gia
đình, đặc biệt là về khả năng đọc, kĩ năng đọc và phân loại học sinh theo 3 đối tượmg:
+ Đối tượng 1: Học sinh đọc chậm, nhỏ.
+ Đối tượng 2: Học sinh biết đọc to, lưu loát.
+ Đối tượng 3: Học sinh biết đọc diễn cảm.
Căn cứ vào đó, tôi đã tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh, những em đọc yếu
ngồi cạnh những em đọc khá, đọc tốt. Trong cùng một bàn có đủ các đối tượng học sinh
để các em có điều kiện giúp đỡ nhau, rèn luyện bổ sung cho nhau qua quá trình luyện đọc
theo cặp đôi và theo nhóm bàn để các em cùng tiến bộ.
Công việc tiếp theo, tôi giới thiệu với học sinh về cấu trúc chương trình phân môn
để các em nắm được các chủ điểm chính trong từng học kỳ và trong cả năm học. Đặc biệt

Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
7
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
tôi đã nêu tầm quan trọng, yêu cầu kỹ năng cơ bản về việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm.
Hướng dẫn học sinh lưu lại những câu, đoạn văn, đoạn thơ, bài văn, bài thơ hay trong sổ
tay của mình, giao trách nhiệm cho một số em đọc khá, đọc tốt thường xuyên kèm cặp
giúp đỡ những em đọc yếu ở mọi bài học, mọi môn học chứ không chỉ dừng lại ở phần
đọc theo cặp đôi hay đọc theo nhóm, đọc phân vai
Sau khi đã tiến hành như trên, tôi đã bước vào giảng dạy như sau:
*Bước chuẩn bị:
- Đối với giáo viên: Phải nghiên cứu tài liệu, nắm nội dung bài giảng, đọc tài liệu
tham khảo để soạn bài được chu đáo. Ở mỗi bài tập đọc, giáo viên phải đọc kĩ bài, sau đó
suy nghĩ xác định yêu cầu của bài, phân tích nội dung và hình thức bài đọc để tìm ra cái
hay, cái đẹp của tư tưởng tình cảm, của nghệ thuật ngôn từ để tìm ra cách đọc diễn cảm.
- Đối với học sinh: Phải có sự chuẩn bị bài chu đáo, hoàn thành tốt những công
việc cô giáo giao trong phần dặn dò của tiết tập đọc trước như soạn bài, sưu tầm tranh,
ảnh có liên quan đến bài đọc
*Bước tiến hành:
Khi đã chuẩn bị chu đáo về nội dung, phương pháp của tiết dạy, tôi đã tiến hành
rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh như sau:
Phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
Trong kinh nghiệm này tôi xin được trình bày các biện pháp, giải pháp đã thực
hiện để rèn đọc hay (đọc diễn cảm) một văn bản cho học sinh lớp 5.
- Khắc phục tình trạng đọc ê a, ngắc ngứ
Như chúng ta đã biết, chữ Tiếng Việt của chúng ta viết rời ra từng âm tiết chứ
không phải viết liền từng từ như chữ một số nước khác (Anh, Nga, Pháp ) nhưng khi đọc
ta lại không đọc rời rạc từng âm tiết một mà phải đọc theo từng cụm từ.
Ví dụ: Trong vườn, lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm không trông thấy cuống,
như những chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lửng.
Nếu tính về mặt âm tiết thì câu văn trên có 24 âm tiết, 19 từ, 7 cụm từ. Khi học

sinh tập đọc không để các em đọc rời rạc từng âm tiết như kiểu đọc nhát gõng. Nếu để
học sinh đọc theo từng từ thì vẫn chưa diễn đạt được ý của câu văn nên tôi phải hướng
dẫn học sinh đọc theo cụm từ.
Trong vườn,/ lắc lư /những chùm quả xoan/ vàng lịm/ không trông thấy cuống,
/như những chuỗi tràng hạt bồ đề/ treo lơ lửng.
Cách hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ của tôi như sau:
+ Tôi viết câu văn đó ra bảng phụ (đã chuẩn bị từ trước).
+ Vì giai đoạn đầu lớp còn đọc yếu, do vậy tôi đọc mẫu theo cách nghỉ như trên
sao cho thật chuẩn. Sau đó tôi cho học sinh phát hiện những chỗ ngắt nghỉ của cô, nếu
đúng tôi sẽ dùng phấn màu gạch chéo sau những từ cần ngắt. Nếu học sinh chưa phát
hiện ra tôi có thể đọc mẫu lần thứ 2 những câu đó để học sinh có thể nhận ra. Đồng thời
tôi luôn củng cố kỹ năng đọc khi gặp dấu chấm (phải nghỉ hơi), gặp dấu phẩy phải ngắt
hơi. Khi đã nhận ra cách ngắt nghỉ sau cụm từ, sau dấu phẩy, sau dấu chấm tôi gọi một
số học sinh khá đọc, sau đó mới gọi những em hay đọc ê a ngắc ngứ lên đọc. Có thể là
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
8
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
một lần, cũng có thể là hai lần và phải tiến hành trong một thời gian. Tôi nghĩ hiện tượng
đọc ê a ngắc ngứ ở các em sẽ không còn xảy ra nữa.
Nhưng lưu ý khi còn những em đọc ê a ngắc ngứ thì phải sửa một cách triệt để, có
thể phải hướng dẫn từng cụm từ; giáo viên hoặc học sinh khá đọc mẫu cụm từ thứ nhất
sau đó cho học sinh đọc yếu đọc lại cụm từ đó rồi mới chuyển sang cụm từ khác và cũng
theo trình tự đúng như vậy, cuối cùng cho học sinh đọc lại cả đoạn văn đó.
Vậy khi học sinh đọc những câu văn dài, học sinh đã biết ngắt hơi sau cụm từ nhưng
ngắt hơi trong thời gian bao lâu thì cũng là điều cần phải hướng dẫn các em. Thông thường,
tôi hướng dẫn các em ngắt hơi sau cụm từ bằng thời gian ngắt nghỉ khi gặp dấu phẩy hoặc
dấu chấm phẩy và đương nhiên thời gian đó phải ít hơn thời gian nghỉ khi đọc gặp dấu
chấm. Tránh tình trạng học sinh ngắt nghỉ quá lâu làm cho người nghe cảm thấy rời rạc.
Số học sinh mắc lỗi đọc ê a, ngắc ngứ hoặc đọc liến thoắng không nhiều nên chỉ
sau 3 tuần kiên trì rèn đọc cho các em (gọi cho các em đọc nhiều hơn, sửa cho các em kỹ

hơn) thì loại lỗi này không còn trong lớp tôi nữa, các em đọc đã khá trôi chảy, lưu loát.
- Khắc phục tình trạng đọc lên xuống giọng tùy tiện
Theo tôi muốn khắc phục tình trạng lên xuống giọng tuỳ tiện thì giáo viên phải
hướng dẫn thật tốt cách đọc các kiểu câu:
Câu kể: Ở cuối câu có dấu chấm khi đọc thường phải xuống giọng ở cuối câu.
Câu hỏi: Ở cuối câu có dấu chấm hỏi, khi đọc ta phải lên giọng ở cuối câu.
Câu kể có dấu chấm lửng: khi đọc phải kéo dài giọng.
Câu cảm, cầu cầu khiến: Ở cuối câu có dấu chấm than khi đọc cần phải lên giọng ở cuối câu.
Ví dụ: Trong bài" Tác phẩm của Si- le và tên phát- xít”(TV5, tập 1, tr.58) tôi
hướng dẫn học sinh cách đọc các loại câu này như sau:
- Chép đoạn văn đó lên bảng phụ.
- Hỏi học sinh trong đoạn văn đó có những câu văn nào là câu hỏi, câu kể, câu
cảm, câu cầu khiến và cách đọc của từng loại câu này, giáo viên dùng phấn mầu ghi ký
hiệu lên giọng & , xuống giọng m ở cuối mỗi loại câu.
Bực mình vì ông cụ biết tiếng Đức nhưng không thèm chào bằng tiếng Đức, hắn
liền hỏi:
m
(câu kể)
- Lão thích nhà văn Đức hơn lời chào của người Đức chăng?
&
( câu hỏi).
- Sao ngài lại nói thế? Si- le là nhà văn quốc tế chứ!
&
( câu cảm)- Ông già điềm
đạm trả lời.
m
( câu kể )
Nhận thấy vẻ ngạc nhiên của tên sĩ quan, ông già nói tiếp:
m
( câu kể )

- Ngài thử xem Si- le đã dành những tác phẩm của mình cho ai nào?
&
( câu hỏi)
Nhà văn đã viết Vin- hem Ten cho người Thuỵ Sĩ, Nàng dâu ở Mét- xi- na cho người I-ta-
li- a, Cô gái Oóc- lê- ăng cho người Pháp,
m
( câu kể )
Càng nghe nói, tên sĩ quan phát xít càng ngây mặt ra. Cuối cùng, hắn hỏi:
- Chẳng lẽ Si- le không viết gì cho chúng tôi hay sao?
&
( câu hỏi)
Ông già mỉm cười trả lời:
m
( câu kể )
- Có chứ.
m
( câu kể) Si- le đã dành cho các ngài vở Những tên cướp!
m
( câu cảm)
Sau đó tôi hoặc học sinh khá đọc mẫu theo cách đọc đó rồi cho học sinh nhất là
những em yếu kém luyện đọc với số lượng từ 4 - 5 em. Việc làm này phải được tiến hành
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
9
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
thường xuyên khi gặp những bài tập đọc có các kiểu câu như vậy, có như thế mới hình
thành được thói quen đọc đúng. Sau khoảng thời gian 1 tháng số học sinh mắc lỗi này đã
giảm chỉ còn 3/16 em.
- Hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp, nhịp độ đọc
Một số người lầm tưởng hướng dẫn đọc ngắt nhịp trong thơ là hướng dẫn đọc diễn
cảm. Không phải như vậy, mà đó mới chỉ là cách đọc đúng trong thơ mà thôi. Vậy muốn

hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp thơ đúng thì giáo viên phải nắm vững cách đọc các thể
thơ. Các bài thơ trong sách Tiếng Việt 5 thường được viết theo thể thơ tự do. Vì vậy, ngắt
nhịp thơ còn phụ thuộc vào cách cảm nhận của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng
học sinh cảm nhận theo cách khai thác được giá trị nội dung và giá trị thẩm mĩ cao nhất.
Trong bài"Hành trình của bầy ong ", học sinh thường ngắt nhịp như sau:
Chắt trong / vị ngọt mùi hương
Lặng thầm thay những / con đường ong bay.
Trải qua mưa nắng / vơi đầy
Men trời đất đủ làm say / đất trời.
Bầy ong / giữ hộ cho người
Những mùa hoa / đã tàn phai / tháng ngày
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc nhấn giọng và ngắt nhịp như sau:
Chắt trong vị ngọt / mùi hương
Lặng thầm thay / những con đường ong bay.
Trải qua mưa nắng vơi đầy
Men trời đất / đủ làm say đất trời.
Bỗy ong giữ hộ cho người
Những mùa hoa / đã tàn phai tháng ngày.
Trong bài "Cao bằng", cần hướng dẫn học sinh đọc chú ý ngắt giọng, nhấn giọng
tự nhiên giữa các dòng thơ.
Cao Bằng rõ thật cao!
Rồi dần / bằng bằng xuống
Đầu tiên là mận ngọt
Đón môi ta dịu dàng.
Rồi đến chị rất thương
Rồi đến em rất thảo
Ông lành / như hạt gạo
Bà hiền / như suối trong.
Do vậy, tôi muốn nói khi hướng dẫn học sinh ngắt nhịp thơ thì giáo viên cần phải
cho học sinh nhận biết bài thơ đó được viết ở thể thơ nào? Cách ngắt nhịp chung của toàn

bài ra sao? Song cũng cần phải phát hiện những câu, những đoạn có cách ngắt nhịp khác
biệt trong bài để hướng dẫn học sinh. Thực chất ngắt nhịp thơ cũng được dựa trên cơ sở
ngắt nhịp theo cụm từ. Do vậy, ngắt nhịp thơ không đúng câu thơ sẽ trở nên tối nghĩa,
mất hết ý vị còn đâu có thể cảm nhận được nội dung của bài.
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
10
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
Khi đọc văn bản văn xuôi cũng cần chú ý tới ngắt nhịp. Đọc bài Mùa thảo quả
(TV5, tập 1), chú ý nghỉ hơi ngắn ở những câu ngắn (Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời
thơm.) nhằm thể hiện nhịp thở của người đang hít vào để cảm nhận mùi thơm của thảo
quả lan trong không gian.
Không chỉ quan tâm đến việc ngắt nhịp trong khi đọc mà còn thể hiện nhịp độ đọc.
Đọc nhanh hay chậm, vừa phải là do nội dung bài văn, bài thơ quyết định. Trong một
bài có thể đọc nhanh, chậm, vừa phải tuỳ thuộc theo nội dung từng đoạn như khi dạy
bài:“ Kì diệu rừng xanh”( TV5- tập 1). Cần hướng dẫn học sinh đọc giọng khoan thai, thể
hiện thái độ ngỡ ngàng, ngưỡng mộ cảnh vật ở đoạn 1; đọc nhanh hơn ở những câu miêu
tả hình ảnh thoắt ẩn, thoắt hiện của muông thú ở đoạn 2; đọc thong thả ở những câu cuối
miêu tả vẻ thơ mộng của cánh rừng trong sắc vàng mênh mông ở đoạn 3. Học sinh phải
biết thay đổi tốc độ đọc như vậy tức là đã cảm nhận được vẻ đẹp kì thú của rừng xanh.
Với câu văn dài, tốc độ đọc giãn ra, làm cho người đọc, người nghe có thời gian
suy nghĩ: “Cô bé ngây thơ tin vào truyền thuyết nói rằng nếu gấp đủ một nghìn con sếu
bằng giấy treo quanh phòng, em sẽ khỏi bệnh. Nhưng Xa- da- cô chết khi em mới gấp
được 644 con” ( Những con sếu bằng giấy- TV5- tập 1).
Khi gặp những câu văn có dấu chấm lửng cần hướng dẫn học sinh nghỉ hơi dài:
“Để có một ngôi làng như mọi ngôi làng ở trên đất liền, rồi sẽ có chợ, có trường học, có
nghĩa trang /” (Lập làng giữ biển - TV5, tập 2).
Làm tốt khâu rèn đọc đúng tức là ta đã tạo ra cơ sở ban đầu để giúp học sinh hiểu
đúng nội dung bài tập đọc và như vậy mới cã thể hướng dẫn học sinh đọc diễm cảm được.
*Giải pháp rèn đọc diễn cảm
Chúng ta đều biết đọc diễn cảm khó hơn đọc bình thường. Đọc bình thường chỉ đòi

hỏi phát âm đúng, đọc lưu loát, biết nghỉ đúng chỗ theo các dấu ngắt câu, biết lên, xuống
giọng. Đọc diễn cảm đòi hỏi người đọc phải nắm chắc nội dung từng đoạn từng bài, tâm
tình và lời nói của từng nhân vật để diễn tả cho đúng tinh thần của câu văn, bài văn, tức là
đi sâu vào bản chất của câu văn, bài văn. Cho nên, mục đích đọc diễn cảm là bộc lộ ra
được cái bản chất của nội dung và trên cơ sở đó muốn truyền đạt đúng những ý nghĩ và
tình cảm của tác giả. Muốn đọc diễn cảm tốt phải hiểu kỹ nội dung của bài tập đọc và phải
truyền đạt tốt sự hiểu biết của mình tới người nghe. Học sinh đọc diễn cảm chưa tốt là do
nguyên nhân: giáo viên chưa giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc và nguyên
nhân cũng không kém phần quan trọng là khả năng đọc mẫu của giáo viên còn hạn chế.
Muốn đọc diễn cảm tốt, ta cần:
- Bám sát yêu cầu của bài tập đọc :
Yêu cầu của bài tập đọc phải được xác định từ khi soạn bài ở nhà.
Ví dụ:
+ Đọc trôi chảy, lưu loát bài thơ, đúng nhịp của thể thơ tự do. Biết đọc diễn cảm bài thơ
thể hiện niềm xúc động của tác giả khi nghe tiếng đàn trong đêm trăng, ngắm sự kì vĩ của
công trình thuỷ điện sông Đà, mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp khi công trình hoàn thành.
+ Hiểu ý nghĩa bài thơ: Ca ngợi vẻ kì vĩ của công trình, sức mạnh của những người
đang chinh phục dòng sông và sự gắn bó, hoà quyện giữa con người với thiên nhiên.
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
11
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
+ Giáo dục học sinh yêu thiên nhiên, trân trọng những người đã chinh phục được thiên nhiên.
Bám sát yêu cầu của bài tập đọc, trong 3 yêu cầu ấy phải được toát ra từ bản thân
bài tập đọc và giáo viên phải vận dụng vào thực tế lớp mình giảng dạy thì việc bám sát
yêu cầu của bài tập đọc mới thực sự hiệu quả.
- Giảng từ và khai thác nghệ thuật:
*Giảng từ: trong bài tập đọc thường có nhiều từ. Vậy ta cần phải giảng những từ nào?
Qua kinh nghiệm về giảng dạy phân môn Tập đọc tôi thấy có thể chia những từ để giảng
làm 3 loại: loại từ khó, loại từ gắn với chủ đề đang học và loại từ chìa khoá (từ trung tâm).
+ Từ khó có thể là từ địa phương được tác giả đưa vào bài, là loại từ Hán Việt, là

danh từ riêng. Loại từ này thường có trong phần chú giải cho nên sau khi đọc mẫu xong
tôi cho học sinh đọc phần chú giải để học sinh hiểu ngay được những từ này khi bắt đầu
tiếp xúc với bài tập đọc.
+ Từ chủ đề: Trong mỗi chủ đề tập đọc có một số từ ngữ mà giáo viên cần lưu ý bởi
đó là những từ làm toát lên chủ đề. Từ chủ đề cũng có khi là từ khó. Giáo viên có thể kết hợp
giảng các từ chủ đề với các từ khó hoặc với các từ trung tâm trong quá trình khai thác.
+ Từ trung tâm: Đây là những từ có sức nặng, giáo viên cần khai thác để làm toát
lên nội dung bài học.
Ta chia những từ cần giảng làm 3 loại như vậy để dễ phân biệt còn trong thực tế
nhiều khi từ khó cũng là từ chủ đề hoặc từ trung tâm.
Vậy khi giảng từ ta có thể dùng những phương pháp nào?
Những phương pháp phổ biến là phương pháp trực quan, liên hệ, so sánh, phương
pháp định nghĩa, giảng giải.
Khi dùng phương pháp trực quan, tôi áp dụng bằng nhiều hình thức: Trực quan bằng
giọng nói, giọng đọc, nét mặt, ánh mắt, dáng điệu, động tác, hình mẫu, tranh ảnh vật thực.
Ví dụ: Trong bài “Người ăn xin”, khi giảng về từ nhìn chằm chằm tôi có thể dùng
ánh mắt của mình nhìn một cách chăm chú, lâu không chớp mắt và có ý dò hỏi?
Trong bài tập đọc khác tôi có thể dùng môi để giảng từ mấp máy, dùng cách đi để
giảng từ rón rén, dùng tư thế để giảng từ lom khom, dùng giọng nói để giảng từ sang sảng,
oang oang, dùng chỉ màu để giảng từ sặc sỡ, dùng hình mẫu để giảng từ nhà sàn, nhà trệt.
Phương pháp trực quan là phương pháp rất tốt để học sinh có thể hiểu và nhớ lâu
nghĩa của từ nhưng phương pháp này chỉ dùng để giảng từ cụ thể. Khi gặp những từ trừu
tượng như sắc lệnh, tổng tuyển cử, hữu nghị, khiêm tốn thì rất khó dùng phương pháp
này. Do vậy, ngoài phương pháp này tôi còn sử dụng nhiều phương pháp khác.
Phương pháp định nghĩa, giảng giải: Ở lớp 5 nhận thức lý tính tổng quát của học
sinh đã phát triển nên trong khi giảng từ cho học sinh hiểu tôi vẫn thường dùng phương
pháp định nghĩa hay giảng giải xen lẫn các phương pháp khác.
Ví dụ: Khi giảng từ quyến rũ tôi dùng phương pháp giảng giải.
- Quyến rũ có nghĩa là có một sức lôi cuốn mạnh mẽ làm cho quyến luyến không
muốn rời xa.

- Mãnh liệt, day dứt ý nói thôi thúc, day dứt, dai dẳng và mạnh mẽ.
Khi giảng về từ truyền thống tôi dùng phương pháp định nghĩa.
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
12
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
Truyền thống là những phẩm chất tốt đẹp hoặc những điều tốt đẹp được giữ gìn,
phát triển và truyền từ đời này sang đời khác.
Ví dụ: Dân tộc ta có truyền thống yêu nước nồng nàn.
Phương pháp so sánh: Khi giảng về từ lạnh tê tái, tôi nêu lên một loạt các khái
niệm lạnh lẽo, lạnh buốt, lạnh giá để học sinh thấy được lạnh tê tái ở mức độ cao hơn.
Mặt khác, tôi cho học sinh tìm từ trái nghĩa với từ lạnh tê tái là nóng hầm hập để học
sinh càng hiểu rõ hơn về ý nghĩa của từ này.
*Khai thác nghệ thuật: Theo tôi bài tập đọc là một thể thống nhất giữa hai mặt nội
dung và nghệ thuật, do vậy, tôi nghĩ chúng ta phải thông qua việc khai thác nghệ thuật để
làm toát lên nội dung tư tưởng. Tôi thấy trong khi dạy tập đọc vốn kiến thức văn học mà
học sinh tích luỹ được chưa nhiều.
Có đồng chí hỏi: “Khai thác nghệ thuật của một bài tập đọc là khai thác những gì?”
Theo tôi tuỳ từng bài mà chúng ta phải xem bài tập đọc ấy có những nét gì nổi bật
về nghệ thuật cần khai thác.
Ví dụ: Trong bài Đất nước, cần giúp học sinh hiểu tác giả đã sử dụng biện pháp
nhân hoá (Trời thu thay áo mới - Trong biếc nói cười thiết tha), lặp từ ngữ (đây,của
chúng ta), liệt kê các hình ảnh (Những cánh đồng thơm mát- Những ngả đường bát ngát-
Những dòng sông đỏ nặng phù sa) nhằm tả vẻ đẹp của mùa thu thắng lợi, đồng thời thể
hiện niềm tự hào về đất nước tự do.
Hoặc trong bài Mùa thảo quả tôi tập trung khai thác điệp từ thơm và việc sử dụng một
loạt câu văn ngắn xen lẫn với câu văn dài để làm nổi bật mùi thơm đặc biệt của thảo quả.
Ví dụ: Gió tây lướt thướt bay, qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền
núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào các thôn xóm Chin San. Gió thơm.
Cây cỏ thơm. Đất trời thơm. Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm, ủ ấp trong
từng nếp áo nếp khăn.

Tuy nhiên vẫn phải kết hợp xen kẽ các hình thức nghệ thuật khác nhau như: Khai
thác nghệ thuật dùng từ, khai thác nghệ thuật viết câu văn, khai thác nghệ thuật xây dựng
bố cục bài văn… Có như thế, phần khai thác nội dung bài mới đầy đủ. Song, nói như vậy
cũng chưa thật đầy đủ nếu ta không nhắc đến biện pháp khai thác, biện pháp nghệ thuật
tu từ. Qua thực tế nhiều năm giảng dạy tôi thấy các biện pháp tu từ ở tiểu học cần tập
trung khai thác là: Biện pháp so sánh, điệp từ, nhân hoá….nếu khai thác tốt các biện pháp
tu từ này thì giúp ích rất nhiều trong việc hướng dẫn học sinh cảm thụ bài văn.
Ví dụ: Trong bài Cửa sông, tôi giúp học sinh hiểu phép nhân hoá trong khổ thơ
cuối (giáp mặt, chẳng dứt, nhớ) giúp tác giả nói được "tấm lòng" của cửa sông không
quên cội nguồn, đồng thời nói lên tình cảm thuỷ chung của con người Việt Nam.
- Giảng ý và liên hệ thực tế:
*Giảng ý: Qua kinh nghiệm giảng dạy tôi khẳng định một điều: giảng từ và giảng ý
thường phải gắn chặt với nhau. Ta phải giảng từ, khai thác hình ảnh để làm toát lên ý của
bài hay nói cách khác ta phải khai thác nghệ thuật để làm toát lên nội dung.
Ví dụ: Trong bài “ Hạt gạo làng ta” tác giả có viết:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
13
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hôm nay.
Hỏi: Trong khổ thơ trên tác giả nêu lên hạt gạo quê thơm ngon là nhờ đâu? (câu
hỏi về nội dung) (nhờ có vị phù sa, có hương sen thơm, có lời mẹ hát)
Hỏi: Trong khổ thơ đó từ nào được lặp lại nhiều lần? Lặp lại như vậy để nhằm mục đích
gì? (Từ có được lặp lại nhiều lần, để nhấn mạnh hương vị thơm ngon của hạt gạo quê hương)
Ví dụ: Cho học sinh đọc khổ thơ thứ 3 của bài “Hạt gạo làng ta”

“Hạt gạo làng ta………mẹ em xuống cấy”
Hỏi: Hạt gạo làng ta còn có gì đáng nhớ? (Có bão tháng 7, có mưa tháng 3gkhó
khăn do thiên nhiên gây ra).
Có giọt mồ hôi của mẹ rơi trong những ngày nắng nóngg công sức vất vả của
mẹg đây là câu hỏi về nội dung.
Tác giả dùng hình ảnh gì để diễn tả nỗi vất vả khó nhọc của người mẹ?gđây là câu
hỏi về nghệ thuật.
(Đó là: Cua ngoi lên bờ – mẹ em xuống cấy). Sự đối lập giữa hoạt động của con
cua với hoạt động của mẹ được rõ thêm qua cặp từ trái nghĩa lên – xuống để càng giúp ta
thấy rõ nỗi vất vả gian truân của mẹ cùng các bác xã viên khi làm ra hạt gạo.
Ví dụ: Cho học sinh đọc khổ thơ cuối, hỏi câu cuối “ Hạt vàng làng ta” ý nói gì?
Câu hỏi nặng về giảng ý để toát lên nội dung bài. (Hạt gạo rất quý vì được làm ra bởi
công sức của biết bao người với bao thử thách gay go quyết liệt. Hạt gạo xứng đáng được
ví như hạt vàng.)
Tóm lại trong quá trình giảng dạy những câu hỏi giảng ý thường gắn với những
câu hỏi giảng từ và câu hỏi khai thác hình ảnh thành một hệ thống câu hỏi dẫn dắt học
sinh thâm nhập vào nội dung của bài để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài văn. Từ
đó học trò mới có cảm xúc thực sự và mới đọc hay bài tập đọc được.
*Liên hệ thực tế: Các bài tập đọc cung cấp cho học sinh những kiến thức phong
phú về cuộc sống muôn màu muôn vẻ của nhân dân ta. Những kiến thức đó muốn được
cụ thể, sinh động thì tuỳ từng bài mà giáo viên cần có sự liên hệ với thực tế cho phù hợp.
Ví dụ: Trong bài tập đọc “Hạt gạo làng ta”có thể học sinh liên hệ nêu ra những khó
khăn mà cha mẹ và các bác xã viên phải trải qua để làm ra hạt gạo (Khó khăn do thời tiết,
khó khăn do sâu bệnh gây ra, chứ không còn khó khăn do bom đạn kẻ thù nữa). Qua đó
mà ta giáo dục cho học sinh tình cảm trân trọng, nâng niu từng hạt lúa và cũng muốn
đóng góp công sức nhỏ bé của mình để làm ra hạt lúa.
Rõ ràng chỉ sau khi giáo viên đã giảng thật kĩ nội dung bài, học sinh hiểu được bài,
thâm nhập vào nội dung của bài thì lúc đó các em mới có thể truyền tải tới người nghe
những ý nghĩ, tình cảm của tác giả (Tức là lúc đó các em mới đọc diễn cảm được).
Phần hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm được tiến hành ngay sau khi tìm hiểu nội

dung của toàn bài.
Cách tiến hành hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm:
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
14
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
Tôi chép từng đoạn thơ lên bảng phụ. Sau khi hỏi học sinh về nội dung của từng
đoạn, tôi hỏi về cách đọc hay của từng đoạn sau đó cho học sinh khá hoặc cô giáo đọc
mẫu để thể hiện cách đọc hay của từng đoạn đó; cho học sinh khác phát hiện ra những
điểm nhấn, giáo viên gạch chân những từ cần nhấn và gọi học sinh khác luyện đọc lại.
Nghệ thuật đọc diễn cảm thể hiện ở việc nhấn giọng, cao giọng hay hạ giọng trong một
bài, một đoạn, bài không phải đọc với giọng đều đều như nhau mà có từ ngữ đọc nhấn giọng
hơn. Việc nhấn giọng hay hạ giọng phải đúng, chính xác, nhằm vào những từ mấu chốt, những
từ có ý nổi bật, bộc lộ rõ nội dung câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ, bài văn, bài thơ.
Cái gốc để giúp cho học sinh có thể đọc diễn cảm tốt là phải giúp học sinh cảm thụ tốt
nội dung bài tập đọc. Cách thức giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc chính là các
bước tiến hành mà tôi đã nêu ra ở trên. Song, học sinh có thể đọc diễn cảm tốt hơn nếu như
học sinh được nghe cô giáo mình đọc hay, đọc tốt. Cách đọc của cô chính là một thứ phương
tiện trực quan có hiệu quả nhất góp phần minh chứng cho những gì mà cô và trò cùng thống
nhất ở trên. Để rèn cho mình khả năng đọc diễn cảm tôi thường soạn bài thật kỹ (bài soạn
của tôi dựa trên những gợi ý của sách giáo viên song cũng phải căn cứ vào tình hình thực tế
của lớp mình về trình độ nhận thức cũng như khả năng đọc của học sinh để có một bài soạn
phù hợp nhất, cân đối nhất giữa hai phần rèn đọc và cảm thụ). Xem lại toàn bộ nội dung bài
soạn trước khi lên lớp để nắm chắc nội dung bài, thẩm thấu toàn bộ nội dung của bài và nắm
được suy nghĩ, tình cảm của tác giả được gửi gắm trong bài văn và đặt mình vào hoàn cảnh
của tác giả để nhằm truyền tới người nghe hiểu biết của mình và tình cảm của tác giả. Với
các bước tiến hành rèn luyện như vậy cùng với sự kiên trì tập luyện mà mỗi lần tôi đọc mẫu
đã thực sự cuốn hút các em chú ý vào nội dung của bài.
Trước những việc làm nêu trên, ngoài ra trong giờ tập đọc, tôi thường xuyên quan
tâm đến những em rụt rè, nhút nhát, kịp thời khuyến khích động viên để các em có hứng
thú đọc tốt hơn. Đối với những em đọc nhỏ, chậm, ngoài việc hướng dẫn chung đọc diễn

cảm cho cả lớp, tôi đã có kế hoạch bồi dưỡng ngay từ đầu như: thường xuyên uốn nắn việc
phát âm tiếng có vần khó, hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ, từng ngữ. Với những câu văn
dài tôi cho học sinh này dùng bút chì vạch sẵn những chỗ ngắt nhịp vào sách giáo khoa,
giúp các em ngắt nhịp đúng chỗ, cứ như vậy uốn nắn dần để các em đọc tốt dần lên. Đặc
biệt trong giờ Tập đọc, tôi luôn tạo cho lớp học một không khí thoải mái để các em phấn
khởi học tập. Trong việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh tôi không sử dụng sự gò
ép, áp đặt, mà thường xuyên sử dụng phương pháp gợi mở để phát huy tính chủ động, tích
cực và sự sáng tạo ở mỗi học sinh, từ đó các em có điều kiện để thể hiện mình.
4. Kết quả đạt được
- Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng những kinh nghiệm trên cho học sinh lớp
tôi đang dạy. Tôi đã tiến hành khảo sát lớp tôi đang dạy và lớp 5/2 trong từng giai đoạn
và có kết quả như sau:
+ Lớp 5/1 (Lớp do tôi chủ nhiệm)
Giai đoạn Sĩ số Học sinh đọc nhỏ, chậm Học sinh đọc to, lưu loát Học sinh đọc diễn cảm
Đầu năm 16 9học sinh = 56,25% 5học sinh = 31,25% 2 học sinh = 12,5%
Cuối kỳ I 16 7học sinh = 43,75% 5học sinh = 31,25% 4 học sinh = 25%
Tuần 24 16 4 học sinh = 25% 5học sinh = 31,25% 7 học sinh = 43,75%
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
15
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
+ Lớp 5/2
Giai đoạn Sĩ số Học sinh đọc nhỏ, chậm Học sinh đọc to, lưu loát Học sinh đọc diễn cảm
Đầu năm 15 8học sinh= 53,33% 5học sinh = 33,33% 2 học sinh = 13,33%
Cuối kỳ I 15 6 học sinh = 40% 6 học sinh = 40 % 3 học sinh = 20 %
Tuần 24 15 4học sinh= 26,67 % 6 học sinh = 40 % 5 học sinh = 33,33 %
5. So sánh đối chứng
Qua kết quả tổng hợp tôi đã nêu trên, tôi rất phấn khởi vì thấy trong giờ Tập đọc,
học sinh không những đã say mê học tập, lớp học rất sôi nổi mà kĩ năng đọc diễn cảm
của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Nó không chỉ nâng lên theo từng giai đoạn khảo sát
mà nó còn có sự tiến bộ hơn giữa lớp áp dụng kinh nghiệm này vào rèn đọc diễn cảm cho

học sinh so với lớp không đưa kinh nghiệm này vào giảng dạy. Nếu như ở lần khảo sát đầu
tiên để điều tra thực trạng trong giai đoạn đầu năm học, tỉ lệ học sinh đọc nhỏ và chậm ở
lớp 5/1 cao hơn lớp 5/2 và tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm ở lớp 5/1 thấp hơn lớp 5/2 thì đến
tuần 24 tỉ lệ này có sự đảo lộn. Lớp 5/1 tỉ lệ học sinh đọc nhỏ và chậm còn ít hơn lớp 5/2
và tỉ lệ học sinh có kĩ năng đọc diễn cảm đã cao hơn lớp 5/2. Dẫu rằng kết quả trên là chưa
cao nhưng nó đã đánh dấu bước đầu sự thành công của tôi trong quá trình giảng dạy để
nghiên cứu, tìm tòi ra những biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh của mình.
6. Bài học kinh nghiệm
Thực tế trong quá trình giảng dạy, để đạt được kết quả như trên về "Rèn đọc diễn cảm cho
học sinh lớp 5/1 - Trường Tiểu học Hồng Thái”, tôi tự rút ra một số kinh nghiệm sư phạm sau:
6.1. Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt, trước hết việc đọc mẫu của thầy phải
chuẩn mực, bởi thầy luôn là tấm gương sáng, mẫu mực trong cách đọc diễn cảm để học
sinh soi vào. Chính vì vậy, thầy phải có sự chuẩn bị chu đáo, mỗi từ ngữ thầy nói, đọc
phải chính xác và chuẩn mực.
Thầy cần phải nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi để nắm chắc nội dung cơ bản của
chương trình sách giáo khoa để giúp học sinh hiểu và cảm thụ bài đọc. Thực tế cho
thấy, sách dùng cho học sinh, cho giáo viên có nhiều ưu điểm nổi bật và đa số giáo viên
nắm được phương pháp giảng dạy, song đi vào từng bài cụ thể thì vẫn còn lúng túng
không ít. Do vậy, nắm vững sách, hiểu ý đồ của người biên sọan là quan trọng, song chưa
đủ, còn đỏi hỏi đến vai trò chủ động sáng tạo và tài ứng xử linh hoạt trong giảng dạy.
Phải nắm chắc đối tượng học sinh để có biện pháp phù hợp với từng đối tượng,
nhằm phát huy tính tích cực trong học tập, nâng cao ý thức tự giác để từ đó các em sẽ
“Học vui, vui học” và hiệu quả học tập sẽ cao hơn.
Người giáo viên phải có tâm huyết trong nghề, nhiệt tình trong soạn, giảng, quan
tâm đến mọi đối tượng học sinh nhất là học sinh học yếu, đọc sai, đọc ngọng để kịp thời
uốn nắn, sửa chữa cho học sinh thật tận tình, chu đáo để các em khắc phục.
Luôn động viên, khích lệ những em có kĩ năng đọc diễn cảm tốt để các em ngày
càng đọc tốt hơn. Động viên các em chép những câu văn, câu thơ, bài văn, bài thơ hay
vào sổ tay của mình; khuyến khích các em nói, đọc trước đám đông. Tổ chức cho các em
thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm trong lớp vào những giờ ngoại khoá.

Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
16
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
6.2. Bên cạnh đó, muốn rèn đọc cho học sinh có hiệu quả thì người giáo viên phải
nắm chắc phương pháp dạy đọc bao gồm:
a. Phương pháp đọc rõ văn xuôi: Hướng dẫn học sinh đọc chính xác (phát âm
đúng, đọc đúng những tiếng có vần khó, những tiếng có dấu thanh học sinh hay nhầm
lẫn, hướng dẫn học sinh biết đọc ngắt theo cụm từ, đọc đúng các kiểu câu).
b. Phương pháp dạy đọc rõ văn vần (đã là cách ngắt nhịp các thể thơ).
c. Phương pháp dạy đọc to và đọc thầm: Cần phải lưu ý có đọc to đúng thì đọc
thầm mới đúng được. Do đó, khâu hướng dẫn đọc đúng phải được tiến hành trước và phải
làm thật tốt. Trong giờ tập đọc, một em được chỉ định đọc to thì đồng thời giáo viên cũng
yêu cầu các em khác luyện đọc thầm theo bạn. Như vậy trong một giờ tập đọc có khoảng
12 em đọc thì cả lớp cũng được luyện đọc thầm 12 lần.
d. Phương pháp dạy đọc diễn cảm: Cơ sở để giúp học sinh luyện đọc tốt là phải
hiểu và cảm thụ được nội dung của bài. Đồng thời phải tạo cho các em một tâm trạng
bình tỉnh, tự nhiên và thoải mái khi đọc. Các em không thể đọc diễn cảm được nếu như
trong một trạng thái sợ sệt, hồi hộp, lo lắng. Vận dụng tốt những phương pháp đã dạy đọc
như đã nêu ở trên là nhằm mục đích đạt được 4 yêu cầu về đọc đó là: đọc chính xác, đọc
lưu loát, đọc thầm, đọc diễn cảm.
Bốn yêu cầu đó phải được thâm nhập vào nhau, hỗ trợ nhau mà không nên tách rời
thì mới có thể nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc.
6.3. Trong một giờ tập đọc, giáo viên cần khéo léo tổ chức để thu hút tất cả học
sinh đều làm việc với sách giáo khoa, chú ý vào nội dung bài tập đọc. Muốn làm được
điều đó, tôi nghĩ chúng ta cần:
a. Phải xây dựng cho lớp một nề nếp học tập nghiêm túc, có tính kỉ luật cao.
b. Giáo viên phải luyện cho mình khả năng đọc mẫu thật tốt để cuốn hút học sinh
chú ý vào nội dung bài.
c. Trong một giờ tập đọc, giáo viên cần phải coi trọng cả hai yêu cầu đó là rèn đọc
cho học sinh và giúp các em cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc. Hai yêu cầu này cần phải

được bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau nên không thể tách bạch từng phần riêng lẻ. Vì thế, khi
soạn bài, giáo viên cần lựa chọn và đưa ra hệ thống câu hỏi sao cho phù hợp với mọi đối
tượng học sinh trong lớp. Có câu hỏi khó dành cho học sinh khá giỏi, có câu hỏi dễ dành
cho học sinh yếu để mọi học sinh đều có cơ hội thể hiện khả năng của mình mà không
cảm thấy nhàm chán hoặc quá sức.
d. Cần sử dụng có hiệu quả nhiều hình thức đọc khác nhau: đọc to, đọc thầm, đọc
mấp máy môi, đọc nối tiếp, đọc phân vai… để thay đổi không khí của lớp học, thu hút
học sinh vào bài.
e. Để tạo không khí vui tươi, hồn nhiên, nhẹ nhàng, sinh động trong các giờ học tôi
thường tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Thả thơ” được dùng khi dạy các bài tập đọc là
bài thơ; trò chơi “Ai tinh ai nhanh” được dùng khi dạy các bài tập đọc là văn xuôi.
Những trò chơi này tuy chỉ tiến hành trong khoảng thời gian từ 3- 4 phút nhưng rất
hấp dẫn đối với học sinh và mang lại kết quả tốt cho bài dạy.
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
17
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
Rèn luyện kĩ năng cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng quả
là một công việc khó khăn. Giáo viên phải có kiến thức vững, phải đọc mẫu hay và phải
kiên trì, bền bỉ, tâm huyết với nghề thì mới thành công được.
7. Phạm vi áp dụng đề tài
Trên đây là một số suy nghĩ về việc rèn đọc diễn cảm của tôi cho học sinh lớp 5/1
Trường Tiểu học Hồng Thái do tôi chủ nhiệm, với phương pháp dạy học này sẽ giúp các
em lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái học tốt phân môn Tập đọc. Không những vậy,
phương pháp này có thể áp dụng vào rèn đọc cho học sinh lớp 4.
8. Những vấn đề hạn chế và những vấn đề kiến nghị
a. Những vấn đề hạn chế
Trong thực tế giảng dạy phân môn Tập đọc, đặc biệt là việc rèn đọc cho học sinh
lớp 5, tôi thấy còn có những mặt hạn chế như:
- Về trò: Một số em đọc còn ngọng phát âm chưa chuẩn tr/ch, s/ x, thanh ngã/ thanh sắc.
- Về thầy: Còn hạn chế về nghiệp vụ sư phạm, đặc biệt là việc đọc mẫu, do vậy bản

thân tôi thấy cần phải học hỏi, rèn luyện nhiều.
b. Những vấn đề kiến nghị
Để có kết quả rèn đọc diễn cảm cho học sinh cao hơn, tôi mạn phép đề xuất một
vài ý kiến với các cấp chỉ đạo như sau:
- Thường xuyên dự giờ của giáo viên để nắm vững phương pháp giảng dạy, từ đó
khắc phục kịp thời những tồn tại để thống nhất phương pháp giảng dạy đặc biệt là việc
rèn đọc diễn cảm.
- Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các môn học
nhất là phân môn Tập đọc.
- Tổ chức thường xuyên hội thi đọc hay với giáo viên và học sinh để tăng cường ý
thức luyện đọc hay ở từng giáo viên và học sinh.
C: KẾT LUẬN
Tập đọc là một môn học không khó nhưng cũng không dễ dạy. Cái khó đó do chủ
quan người dạy và cũng do khách quan của bộ môn tạo nên. Phía chủ quan người dạy
phải có kiến thức rộng về ngữ văn, phải có trình độ nhất định về tư tưởng, tình cảm và
phải nắm chắc phương pháp bộ môn. Phía khách quan, Tập đọc là một phân môn khó dạy
vì tính chất phong phú của nó. Nếu chỉ chú ý tính khoa học của bài như phân tích ngữ
âm, câu, từ thì bài dạy sẽ khô khan. Nếu khai thác tính nghệ thuật mà không dựa trên cơ
sở ngôn ngữ thì cũng dễ tràn lan. Do vậy, muốn dạy tốt phân môn tập đọc chúng ta cần
phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ nhận thức của bản thân, nắm vững
phương pháp giảng dạy bộ môn, kiên trì luyện cho mình kỹ năng đọc tốt cùng với tâm
huyết của mình dành cho nghề tôi nghĩ chúng ta sẽ có những giờ dạy thành công.
Thông qua thực tế trong giảng dạy, tôi đi đến kết luận: Muốn rèn đọc diễn cảm cho
học sinh tốt thì điều kiện quan trọng nhất là người thầy. Bởi thầy là người hướng dẫn các em
cách đọc đúng đọc hay. Vì vậy thầy phải hướng dẫn thật cụ thể chu đáo từng chữ, từng
ngữ với từng đối tượng học sinh. Đặc biệt là đọc mẫu bởi thầy có vai trò quan trọng trong
việc đọc diễn cảm của trò. Muốn đạt được điều đó đòi hỏi thầy phải là người có tâm thực sự
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
18
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái

quan tâm đến trò nhiệt tình trong phương pháp soạn giảng, trau dồi nghiệp vụ, học hỏi kinh
nghiệm để nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học, đặc biệt là phân môn Tập đọc.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc rèn đọc diễn cảm cho học
sinh lớp 5 trong giờ Tập đọc. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của anh chị em đồng
nghiệp để cho việc vận dụng đề tài ngày càng đạt được hiệu quả cao hơn.
Hồng Thái, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Giáo viên

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
















Xếp
loại:
Hồng Thái, ngày tháng năm 2014
TM. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
Chủ tịch

Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
19
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Nội dung và chương trình tiếng Việt 5.
2 Sách giáo khoa tiếng Việt 5 - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
3 Tài liệu phổ biến SKKN.
4 Thế giới quanh ta.
5 Bồi dưỡng tiếng Việt lớp 5 - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
6 Để học tốt tiếng Việt 5 - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
7 Những bài văn hay lớp 5 - Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam

Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
20
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 - Trường Tiểu học Hồng Thái
MỤC LỤC
Nội dung Trang
A. Phần mở đầu 1
I. Lí do chọn đề tài 1
II. Đối tượng nghiên cứu 2
III. Phạm vi nghiên cứu 2
VI. Phương pháp nghiên cứu 2
B. Nội dung 2
I. Cơ sở lí luận 2
II. Cơ sở thực tiễn 3
C Kết luận 18
* Tài liệu tham khảo 20
Giáo viên: Hồ Thị Quế - Trường Tiểu học Hồng Thái
21

×