Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Quan điểm triết học mác lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.86 KB, 18 trang )

Lời nói đầu
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ
đại đến hiện đại. Từ khi Triết học Mác-Lênin ra đời đã giải quyết những nội
dung liên quan đến con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trò rất
quan trọng đối với thế giới, và trong thực tế hiện nay thì con người là một
lực lượng chủ đạo trong nền sản xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới xã
hội chỉ có con người-yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã
hội, là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay
thất bại.
Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
cùng với Chủ nghĩa Mác-Lê nin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nan
cho hành động của Đảng. Vì vậy, thấm nhuồn tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê
nin về con người, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Con người là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất
nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò
của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng
đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu
nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao
động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”.
Đặc biệt là, trong giai đoạn hiện nay đất nước ta đang bước vào thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa, đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước thực hiện cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Ngoài những nhân tố quan trọng quyết
định sự thành công, đó là vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành
của nhà nước, sự tham gia ủng hộ tích cực của các đoàn thể xã hội, chúng ta
cần khẳng định rằng, yếu tố con người, nguồn nhân lực có vị trị rất quan
trọng như trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to
lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc


công nghiệp hóa-hiện đại hóa”.
Để đóng góp và ủng hộ đường lối của Đảng trong công cuộc xây
dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tôi xin chọn đề tài “Quan điểm triết học
Mac-Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn nhân lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa nước ta” làm đề tài nghiên
cứu của mình.
Hoàn thành tiểu luận này tôi hi vọng có thể góp một phần nhỏ bé của
mình trong việc làm rõ lòng tin của mọi người vào công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay, và đưa ra một số giải pháp về nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, và thực hiện mục tiêu của Đảng phấn đấu đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng công nghiệp
hóa-hiện đại hóa.
MỤC 1
Quan niệm triết học Mác-Lênin về con người
1.1/- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và
mặt xã hội.
- Mặt sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những
quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người.
- Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt
động xã hội, đời sống tinh thần của con người.
Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó
mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải
là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai
trò quyết định bản chất của con người. Bởi mặt xã hội của con người biểu
hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất
là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời
hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác

nhau nhưng thống nhất với nhau:
- Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể
- Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức.
- Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.
Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
Bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình
hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con
người.
1.2/- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội.
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.Marx khẳng định:
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những
mối quan hệ xã hội”.
- Luận đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể
đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật
chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ
trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất
xã hội của mình.
- Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác-
Lênin không phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, triết học Mác-
Lênin chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động
vật trước hết ở bản chất xã hội.
- Sự hình thành, phát triển con người là quá trình gắn liền với lịch sử
sản xuất vật chất:
+ Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn
đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội
của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân
biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất

cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định.
+ Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã
gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình. Thông qua hoạt động
sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật
chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự
nhiên. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật
chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của
con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra
của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát
triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố
quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành
nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
1.3/- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
- Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại
con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài
của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ
thể của lịch sử - xã hội.
- Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động
vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển
của lịch sử xã hội.
- Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch
sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người
không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với
điều kiện tồn tại của con người. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy
vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của
giáo dục cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi
hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Trong tác

phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật cũng
có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển
dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy
không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc
làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải
do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo
nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử
của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận
hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương
diện khách nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn
cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
MỤC 2
Con người là nhân tố quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước
2.1. Quan niệm của Đảng ta về con người
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-
2-1930) đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý
nhất chăm lo cho hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của
chế độ ta". Trên thực tế trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm
nhiều việc theo hướng đó. Dân sự chăm lo cho hạnh phúc con người chưa có
nhiều thành công như mong muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho những người lao động còn thấp, song phần nào đã đáp ứng nguyện
vọng của nhân dân, của những người lao động chăm lo cho hạnh phúc của
nhân dân". Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân
ta phải hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là
nhiệm vụ Trung tâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công việc đối với con người là mục tiêu

quan trọng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của đời mình. Mong
muốn cháy bỏng của Người là làm sao cho con người được hưởng đầy đủ
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong Di chúc, khi
đề cập đến công việc đầu tiên đối với con người, Người đã dành sự quan
tâm sâu sắc tới mọi đối tượng xã hội, mọi tầng lớp nhân dân, vì con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng, xây dựng con người là
chiến lược hàng đầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Do vậy, Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, kế hoạch đúng đắn để phát
huy nhân tố con người, để dùng con người mà làm lợi cho con người. Lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người" và "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa" - đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn
bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền ngay từ
đầu mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt việc
chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội" Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội
là: Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về
nghĩa vụ và quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng
xã hội". Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì
con người, của mục tiêu phát triển con người Việt Nam, toàn diện trong
công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay
Như vậy, Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho con
người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Đảng ta coi trọng việc
nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát triển nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; khẳng định con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về thể lực,

trí lực, khả năng lao động, năng động, sáng tạo và tính tích cực chính trị-xã
hội, cả về đạo đức, tâm hồn, và tình cảm là mục tiêu, là động lực của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mọi chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước đều nhằm quán triệt tư tưởng chăm lo,
bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát triển toàn
diện con người Việt Nam.
2.2. Con người là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp đổi mới
nước ta hiện nay.
Để đạt được tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020, nền kinh tế Việt Nam phải có mức tăng trưởng cao và bền
vững. Nghiên cứu tăng trưởng kinh tế của các nước trên thế giới qua nhiều
giai đoạn lịch sử, các lý thuyết tăng trưởng đã chỉ ra nguồn nhân lực được
coi là yếu tố quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố như máy
móc, thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy tối
đa hiệu quả bởi con người có trình độ chuyện môn, kỹ thuật. Lý thuyết tăng
trưởng của C.Mác cho rằng việc sử dụng tư bản bất biến không tạo ra giá trị
thặng dư (lợi nhuận) bởi các nhà tư bản phải mua tư bản bất biến với giá trị
bằng giá trị tư bản bất biến đó sẽ tạo ra. Chỉ có tư bản khả biến mới đem lại
giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi giá trị sử dụng
của hàng hóa sức lao động có đặc điểm đặc biệt trong qua trình sử dụng nó
tạo ra một giá trị mới (v+m) lớn hơn giá trị bản thân nó. Do đó, trong lực
lượng sản xuất, yếu tố con người là yếu tố tích cực, chủ động, sáng tạo là
yếu tố quyết định các yếu tố khác. C.Mac cũng chỉ ra năng lượng giá trị của
hàng hóa có quan hệ mật thiết với mức độ phức tạp của lao động. Lao động
phức tạp tạo ra giá trị nhiều hơn so với lao động giản đơn. Điều này có nghĩa
là chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì lượng giá trị của hàng hóa càng
tăng lên nhanh chóng, tức là tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
Frederik Harbison thì cho rằng nguồn nhân lực là nền tảng chủ yếu
tạo ra của cải. Tiền vốn và các tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố thụ
động trong sản xuất là những nhân tố thụ động trong sản xuất, con người là

những nhân tố tích cực, chủ động tích lũy vốn, khai thác thiên nhiên, xây
dựng các tổ chức xã hội, kinh tế, chính trị và đưa sự nghiệp đất nước tiến
lên. Vì vậy các ông cho rằng nước nào bất lực trong việc phát triển tay nghề
và kiến thức cho người dân và không sử dụng nó một cách hiện hữu trong
nền kinh tế quốc dân sẽ không thể phát triển bất cứ thứ gì.
Thực tiễn phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự
phát triển thần kỳ của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài
Loan phần lớn là nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Như vậy về mặt lý thuyết và thực tiễn ở nhiều nước cho thấy phát
triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao động có học vấn, tay nghề, chuyên
môn kỹ thuật và khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi trên thế giới,
đặc biệt là sự phát triển thần kỳ của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn
Quốc, Đài Loan phần lớn là nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Vì
vậy, phát triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao động có học vấn, tay
nghề, chuyên môn kỹ thuật và khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi
nhanh chóng của công nghệ sản xuất là một yếu tố then chốt cho sự tăng
trưởng và phát triển bền vững.
Nắm vững quan điểm đó, Đảng ta đã xác định nguồn nhân lực là một
trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: con người nếu chỉ có
phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, mà thiếu đi tri thức,
kiến thức khoa học, tức là có đức mà không có tài, thì chẳng khác gì một
ông bụt ngồi trên tòa sen, không làm việc gì xấu nhưng cũng không làm điều
gì có lợi cho đời. Tri thức, trí tuệ thực sự là yếu tố thiết thực của mỗi con
người, bởi vì, tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều phải thông
qua trí tuệ của họ.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giời, người lao động còn
phải biết chủ nhập hội nhập quốc tế. Khác với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
là hành động chủ quan, có chủ đích của con người nhằm khai thác nguồn lực
từ bên ngoài để tăng cường sức mạnh cho đất nước mình. Hội nhập quốc tế

cũng có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh với thế giới bên ngoài; hội nhập
nhưng không hòa tan, vẫn bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc mình và nhất là
bảo vệ được nền độc lập dân tộc. Trong điều kiện như vậy, người lao động,
ngoài bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức dân tộc cao, còn cần có trình độ
trí tuệ ngang tầm.
Có thể nói Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào với quy mô dân số
lớn-đứng thứ 13 thế giới, mật độ dân số 263 người/km
2
-gấp 5 lần so với mật
độ dân số trung bình của thế giới và bắt đầu bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số
vàng”. Thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” chỉ diễn ra trong chu kỳ nhất định,
thường kéo dài khoảng thời gian từ 15-40 năm và được coi là cơ hội vàng để
nền kinh tế bứt phá, phát triển.
Tình trạng thể lực của người Việt Nam được cải thiện đáng kể sau 25
năm đổi mới. Trình độ học vấn của lực lượng lao động những năm qua
không ngừng tăng lên: ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học thì có 1,16
cán bộ tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp và 0,92 công nhân kỹ thuật; cứ 1
vạn dân có 181 sinh viên đại học. Đây là một điều kiện quan trọng và là chỉ
báo về nâng chất lượng nguồn nhân lực.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn đụng chạm đến các vấn
đề phức tạp trong quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nó đòi hỏi con
người phải có hiểu biết và có trách nhiệm trong việc bảo vệ, cải thiện môi
trường thiên nhiên vì sự phát triển bền vững, nói một cách ngắn gọn là phải
có văn hóa sinh thái. Song con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, bảo vệ môi phải được nâng lên thành văn hóa sinh thái: con người
phải có nhận thức, thái độ, cách ứng xử đúng đắn của con người đối với tự
nhiên; cả về phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hậu quả do sản xuất gây ra; cải
thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn thiên nhiên, thích nghi với tự nhiên và
đấu tranh chống lại việc tàn phá tự nhiên.
Nguồn nhân lực chất lượng của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

phải là “những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng
lao động , về tính cực chính trị-xã hội, về đạo đức, trình độ học vấn, chuyên
môn nghiệp vụ và kỹ năng ứng dụng tri thức vào hoạt động thực tiễn đó
chính là những nhân tố tạo nên chất lượng nguồn nhân lực nói chung chất
lượng nguồn nhân lực cũng trở thành mục tiêu hàng đầu của giáo dục, đào
tạo. Không thể có nguồn nhân lực chất lượng tốt nếu không thông qua giáo
dục.
MỤC 3
Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước
3.1/- Những thách thức của quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta.
Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi
hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá trị lớn lao và
có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi
nguồn của cải vật chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách
nhìn, cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát
huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng. Hơn
nữa, với tính tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cách
mạng con người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách
rời của sự nghiệp xây dựng đó.
Thực trạng nguồn nhân lực Việt nam dồi dào về số lượng, nhưng lại
thiếu hụt nhân lực có trình độ cao, năng suất lao động xã hội thấp hiện nay
đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới.
Một là, thách thức về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Lợi thế
cạnh tranh của một quốc gia được cấu thành từ những yếu tố như: hạ tầng,
thể chế, môi trường kinh doanh, nhân lực trong đó nhân lực được coi là yếu
tố cạnh tranh có tính riêng biệt, quyết định đối với mỗi quốc gia.

Mặc dù Việt nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá trong 10
năm qua, những năng lực cạnh tranh của nền kinh tế vẫn chưa được hoàn
thiện nhiều. Theo báo cáo của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), trong 5 năm
qua Việt Nam không có những cải thiện đáng kể nào về vị trí xếp hạng và
năng lực cạnh tranh. Điều này có nhiều nguyên nhân, một trong những
nguyên nhân quan trọng là do chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện
đang còn thấp. Vì vậy Việt Nam muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của
Việt Nam thì một trong những yếu tố quyết định là phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Hai là, hạn chế khả năng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ
chủ yếu dựa vào vốn và nguồn nhân lực với số lượng dồi dào, giá trị nhân
công rẻ sang mô hình tăng trưởng dựa vào nguồn nhân lực có chất lượng
lượng cao, nâng cao sự đóng góp của nhân tố năng suất cao.
Ba là, Việt Nam đang sẽ khó vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình
nếu tăng trưởng kinh tế chỉ dựa vào vốn, nguồn tài nguyên và lao động giản
đơn chưa qua đào tạo. Do đó phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực được xem là các yếu tố then chốt đưa nước ta thoát khỏi thu nhập trung
bình trong những năm tới.
3.2/- Những giải pháp xây dựng con người Việt Nam đáp ứng thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
Một là, gắn chiến lược phát triển con người với chiến lược phát triển
kinh tế. Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt
kinh tế, khoa học kỹ thuật. Nước ta phải lấy sự phát triển nguồn nhân lực
làm động lực cho tăng trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp chặt chẽ các
chiến lược kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Trong những
năm gần đây, đã có sự quan tâm gắn kết chiến lược phát triển nguồn nhân
lực với chiến lược phát triển kinh tế thể hiện qua xu hướng đào tạo theo nhu
cầu xã hội, sự hợp tác giữa nhà trường với các doanh nghiệp đào tạo nhân
lực. Mấu chốt của vấn đề là chúng ta phải thiết lập được mối quan hệ chặt
chẽ giữa các chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển

kinh tế. Giải quyết được điều này chúng ta mới giải quyết được tình trạng
thiếu hụt nhân lực có trình độ, tay nghề và kỹ năng cần thiết cho sự phát
triển kinh tế, biến gánh nặng dân số hiện nay thành lợi thế cạnh tranh của
nước ta trong qua trình hội nhập.
Hai là, cải cách giáo dục đại học và đào tạo nghề nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Chất lượng giáo dục và đào tạo
được coi là chìa khóa để phát triển nguồn nhân lực. Thế nhưng hiện nay hệ
thống giáo dục và đào tạo ở nước ta chưa đáp ứng với yêu cầu của xã hội và
sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, để phát triển nguồn nhân lực cần thực
hiện cải cách căn bản nền giáo dục, đào tạo. Trong đó, yêu cầu bức bách
hiện nay là cần phải cải cách phát triển giáo dục đại học, giáo dục đào tạo
nghề để có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. Trong tình trạng hiện
tại, có hai vấn đề quan trọng, cấp bách và có ý nghĩa lâu dài trong việc cải
thiện sớm thực hiện, đó là: Phải gắn kết đào tạo của nhà trường với yêu cầu
của thị trường lao động. Đào tạo những kỹ năng cần thiệt là một trong những
yếu tố quan trọng để nguồn nhân lực có thể đap ứng yêu cầu của nhà tuyển
dụng; Nhà nước xây dựng cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp tham gia
và trở thành một chủ thể quan trọng trong quá trình đào tạo: đảm bảo cung
cấp đầy đủ, thường xuyên thông tin về tình hình làm việc, kỹ năng đào tạo ;
khuyến khích đào tạo nghề tại dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp.
Gắn đào tạo giáo dục với ứng dụng các khao học kỹ thuật.
Ba là, huy động các nguồn lực đầu tư cho sự phát triển nhân lực.
Ngoài việc chi từ nguồn ngân sách nhà nước, chúng ta cần phải huy động và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế trong và
ngoài nước cho sự phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập kinh tế
và cạnh tranh toàn cầu. Chú trọng đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo
dục; ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng kêu gọi các nhà đầu tư
Bốn là, nâng cao chất lượng quản lý của nhà nước đối với nguồn nhân
lực. Chúng ta phải quản lý có hiệu quả về nhân lực trước trước những yêu
cầu mới của phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập và cạnh tranh. Nhà

nước cần phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chiến lược,
chương trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực.
Năm là, nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển nguồn nhân lực.
Chúng ta xác định đây không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà còn là
nhiệm vụ của toàn xã hội. Chúng ta phải xác định nguồn nhân lực quý giá, là
động lực cho sự phát triển; phát triển nguồn nhân lực không chỉ giúp chúng
ta đạt được những mục tiêu ngắn hạn mà còn là tiền đề cho sự phát triển lâu
dài của đất nước. Do đó nhà nước cần có những chính sách tác động đến
nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm trong vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực.
Kết luận
Sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những
yêu cầu cần thiết cần phải có nhân tố con người có tri thức, kỹ năng, phẩm
chất để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Ở hầu hết các nước phát triển,
nguồn lực là một trong nhwunxg mối quan tâm hàng đầu, tất cả các nước
đều coi trọng yếu tố con người và có chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Thấm nhuồn chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã
xác định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới cũng là thành công của quá trình
xây dựng và phát triển con người mang tính toàn diện, là một trong những
nhân tố quan trọng hàng đầu đơi với việc phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng
nước ta một nước công nghiệp, theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương
lớn của Đảng ta, là con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn là nhiệm vụ, yêu
cầu cấp thiết, lâu dài của toàn Đảng và toàn hệ thống chính trị ở nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác-Lê nin, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội,

2011.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000.
4. Tư tưởng Triết học Hồ Chí Minh, GS.TS Lê Hữu Nghĩa chủ biên.
5. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001.
6. Tạp Chí Cộng sản, số 833, tháng 3/2012
7. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 260, tháng 6/2012.

×