Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

SKKN Tổ chức củng cố bài học theo sơ đồ và các hình thức luyện tập sáng tạo cho học sinh trong giờ học phần Văn bản – môn Ngữ Văn ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 21 trang )









SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TỔ CHỨC CỦNG CỐ BÀI HỌC THEO SƠ
ĐỒ VÀ CÁC HÌNH THỨC LUYỆN TẬP
SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG GIỜ
HỌC PHẦN VĂN BẢN – MÔN NGỮ VĂN




PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ.

Tác phẩm văn học- một bài thơ, một áng văn, một thiên truyện là một công
trình nghệ thuật, thể hiện những nghiền ngẫm, tìm tòi của nhà văn, nhà thơ về
cuộc sống, về con người được diễn tả bằng những hình thức nghệ thuật ngôn từ
tinh tế, đặc sắc. Mỗi tác phẩm văn học thực sự có giá trị thường mang nhiều ý
nghĩa và cả
ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc trong nhận thức tư tưởng, tình cảm của
người đọc.
Dạy học tác phẩm văn chương là một loại hình dạy học đặc thù, đòi hỏi sự nỗ
lực từ cả hai phía: giáo viên và học sinh; lấy giá trị của tác phẩm làm điểm xuât
phát để hướng tới một mục đích. Con đường và cách thức dạy học tác phẩm văn
chươ


ng phản ánh những phương diện quan hệ hữu cơ của quá trình giáo dục. Bắt
đầu từ việc lĩnh hội và thấm nhuần ý nghĩa, mục đích, định hướng đến xác định
nhiệm vụ cụ thể của yêu cầu dạy học trên cơ sở kiến thức cơ bản về tác giả, tác
phẩm cũng như kiến thức tâm lí giáo dục học và khả năng s
ư phạm- giáo viên
từng bước hình thành kế hoạch tổ chức quá trình chiếm lĩnh tri thức văn học cho
học sinh. Song qua thực tế dạy học tôi nhận thấy trong một tiết học ngữ văn, học
sinh có nắm vững, mở rộng và khái quát được kiến thức hay không một phần lớn
phụ thuộc vào bước củng cố và luyện tập của tiết học. Vì thế tôi đã tích luỹ
được
một số kinh nghiệm nhỏ, xin được trình bày để các bạn đồng nghiệp cùng tham
khảo. Đề tài của tôi được xuất phát từ :
1. Về cải tiến nội dung
Sau nhiều năm trực tiếp dạy học môn Ngữ Văn ở trường trung học cơ sở theo
tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, bản thân tôi thấy rằng: củng cố và luyện
tập sau gi
ờ dạy học văn là một việc làm không kém phần quan trọng so với các
việc làm tích cực khác. Đây là biện pháp để giáo viên kiểm tra kết quả học tập của
học sinh, khắc sâu kiến thức sau giờ dạy học đồng thời khơi gợi ở các em những


hướng suy nghĩ, tư duy sáng tạo, những tìm tòi mới mẻ thông qua tác phẩm văn
học. Vì vậy khi thiết kế giáo án cho giờ lên lớp, tôi thường quan tâm đến việc tổ
chức cho học sinh các hình thức củng cố và luyện tập sáng tạo ngay sau bài học.
Khi tiến hành trên lớp, với mỗi bài, tôi chọn lựa các hình thức phù hợp với đối
tượng học sinh và đã thu được kết quả bước đầu. Trong bài viết này, tôi mạnh d
ạn
đưa ra những ý kiến của mình về việc tổ chức các hình thức củng cố và luyện tập
cho học sinh trong giờ dạy học văn mà tôi đã áp dụng trong những năm qua.
2. Về cải tiến phương pháp.

Với những yêu cầu đổi mới trong phương pháp dạy học ngày càng đòi hỏi có
những thành tựu mới, nhằm từng bước khắc phục tình trạng thụ động trong l
ĩnh
hội kiến thức, khẳng định vai trò chủ động sáng tạo của học sinh. Tư duy sáng tạo
thể hiện qua hoạt động liên tưởng, tưởng tượng của học sinh không phải là hoạt
động mang tính đơn nhất trong quá trình tiếp nhận văn học. Vì vậy rèn luyện tư
duy sáng tạo cho học sinh trong giờ văn là rất quan trọng, góp phần khắc phục
những bất cập của phương pháp dạ
y học văn theo lối truyền thụ một chiều. Đó là
cách thức vật chất hoá các hình thức hoạt động hướng nội, kích thích năng lực
sáng tạo tự thân của học sinh để quá trình dạy học văn trở thành quá trình học
sinh tự phát triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách và bồi dưỡng tâm hồn cho các em.
Chương trình dạy học văn trong nhà trường đã trải qua những cải cách lớn,
từng thu được không ít k
ết quả, song đến nay vẫn có thể nói: câu hỏi về chất
lượng dạy học văn vẫn là mối quan tâm sâu sắc của toàn xã hội. Việc đổi mới
phương pháp dạy học văn ngay từ thực tiễn cũng như bình diện lí luận, hướng đi,
cơ chế, cách thức tiến hành đang là vấn đề còn nhiều bức xúc.
3. Thực trạng cần cải tiến :
Việc đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh là một
việc làm cần thiết trong dạy học văn ở nhà trường. Nó phải được thực hiện một
cách có ý thức và liên tục trong suốt giờ học văn. Giờ dạy học văn bao gồm các
khâu: đọc, tìm hiểu tác giả, tác phẩm, phân tích tác phẩm, tổng kết và củng cố
luyện tập. Theo tinh thần đổi mới phươ
ng pháp và thiết kế bài dạy thì khâu củng


cố và luyện tập đã được đặt ra song khi tiến hành vẫn chưa được coi trọng. Phần
vì học sinh quá chú trọng vào phần phân tích, phần vì việc phân bố thời gian chưa
hợp lí nên thời gian cho khâu củng cố và luyện tập vẫn bị hạn chế. Mặc dù khâu

củng cố và luyện tập không chiếm quá nhiều thời gian (chỉ từ 3 đến 5 phút cho bài
học có phân phối chương trình 1 tiết và từ 7đến 10 phút cho bài học có phân ph
ối
chương trình 2 tiết trở lên) nhưng lại có vai trò rất lớn trong việc khơi gợi những
sáng tạo trong suy nghĩ, hình thành năng lực tư duy văn học cho học sinh. Tổ
chức được các hình thức củng cố và luyện tập sáng tạo cho học sinh chính là giáo
viên đã phát huy được vai trò chủ động, tích cực của học sinh trong quá trình học
tập thông qua việc lĩnh hội kiến thức sau giờ học.
Nế
u như giờ học Tiếng Việt, thời gian luyện tập chiếm tới 30% trong một tiết
học thì với giờ dạy học Văn, thời gian dành cho phần củng cố và luyện tập chiếm
rất ít. Ta thấy rất rõ điều đó là do yêu cầu đặc trưng của bộ môn song không phải
vì ít hay nhiều mà ta coi trong hay xem nhẹ. Thực tế dạy học đã có nhiều giáo
viên chú ý đến khâu củng cố và luy
ện tập của học sinh nhưng cũng nhiều giáo
viên coi đây là việc làm “phụ” trong một giờ học nên còn đại khái, qua loa. Thông
thường, sau khi phân tích tác phẩm, giáo viên lo tổng kết một số ý về nội dung và
nghệ thuật là coi như hoàn thành bài học, phần củng cố và luyện tập hầu như giáo
viên yêu cầu học sinh tự làm ở nhà. Một số giờ học đã chú ý đến phần củng cố và
luyện tập nh
ưng việc kích thích cảm thụ còn hạn chế do không ít những câu hỏi
không thích hợp.

PHẦN II : CÁC GIẢI PHÁP CẢI TIẾN
I/ VỀ NỘI DUNG
Có thể nói, các hình thức củng cố luyện tập trong dạy học tác phẩm văn
chương không thể giống các hình thức củng cố luyện tập trong một giờ học bình
thường. Thực tế, giờ dạy học tác phẩm văn chương không chỉ đem tới thông tin
mà thường kích thích để “bùng nổ thông tin” theo nhiều kiểu, nhiều dạng, nhiều
góc độ. Giờ dạy học tác phẩm văn chương đã có thể kết thúc nhưng những vấn đề

về hình tượng văn học vẫn tiếp tục lung linh phát triển và “nổ vỡ lặng im” trong


tâm hồn các em. Chính trong phần củng cố luyện tập, nhiều học sinh đã có những
phát hiện khá lí thú, độc đáo và sáng tạo. Thiết nghĩ trong xu thế đổi mới phương
pháp dạy học văn, cần phải trả giờ văn chương lại cho bản chất giao tiếp nghệ
thuật, định hướng sư phạm cải tiến phải tạo nhiều thời gian cho học sinh tiếp xúc
với bài v
ăn trước, trong và sau khi học để “cuộc giao tiếp im lặng thực sự diễn ra
trong giao tiếp văn chương”.
Đa dạng các hình thức củng cố và luyện tập sáng tạo cho học sinh trong giờ
văn còn để kích thích những rung động tâm hồn, niềm hứng khởi sáng tạo và khát
khao mạnh mẽ của học sinh trước sức hấp dẫn kì diệu mà thế giới nghệ thuật gợi
nên.
Kết thúc phầ
n củng cố luyện tập nhưng suy nghĩ về tác phẩm không đóng lại
mà những vấn đề xung quanh tác phẩm còn mở ra để tạo được “dư âm”, “dư vị”
tiếp tục
Có những vấn đề, các em chỉ giải quyết được phần nào ở lớp hoặc giải quyết
xong cả nhưng những ám ảnh của nó thì không thể chấm dứt ngay trong suy nghĩ
của các em. Ví dụ như
câu hỏi: Ai có lỗi trong đau khổ của Ximông? (Bố của
Ximông – Guyđơ Môpaxăng). Hay: Hãy tưởng tượng và cho biết những tình cảm
của em với người bạn lâu ngày gặp lại sẽ như thế nào sau khi học bài thơ Bạn đến
chơi nhà của Nguyễn Đình Chiểu ?
Phát huy tính sáng tạo cho học sinh qua các hình thức củng cố và luyện tập
trong giờ dạy học văn là rất quan trọng cầ
n thiết nhưng giáo viên phải biết định
hướng sự tiếp nhận văn học của học sinh. Dù sáng tạo hay đến mấy, độc đáo đến
mấy vẫn phải tuân thủ tính giới hạn, dựa trên lôgíc và cấu trúc đặc trưng của hình

tượng văn học, ý đồ sáng tạo, tư tưởng của nhà văn và mục tiêu giáo dục.
Tổ chức các hình thức củng cố luyện tập sáng t
ạo cho học sinh còn phải tuỳ
thuộc vào đặc điểm, yêu cầu riêng của mỗi bài học và phù hợp với từng đối tượng
học sinh, tránh sự lặp lại đơn điệu hoặc áp dụng một cách máy móc. Vì thế cùng
với việc lựa chọn khả năng thích hợp đối với từng đối tượng là yêu cầu vận dụng


linh hoạt, uyển chuyển các hình thức, việc làm mới hi vọng tạo ra hứng thú sáng
tạo của học sinh. Để làm tốt khâu này thì người giáo viên cần phải có một kĩ năng
trong việc vận dụng phương pháp dạy học.
II/ VỀ PHƯƠNG PHÁP.
Để tổ chức được các hình thức củng cố và luyện tập sáng tạo cho học sinh, tôi
đã vận dụng các phương pháp trong dạy học văn theo tinh thần đổ
i mới như sau:
- Phương pháp đọc sáng tạo.
- Phương pháp gợi tìm.
- Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp tái tạo.
- Phương pháp tổng hợp - so sánh bằng sơ đồ.
Với mỗi bài, việc vận dụng từng biện pháp có khác nhau hoặc có thể đan xen
của nhiều phương pháp. Từ các phương pháp đó, giáo viên tiến hành tổ chức cho
học sinh củng cố và luyện tậ
p ngay trong giờ học; bằng hệ thống câu hỏi, giáo
viên đưa ra những yêu cầu để học sinh phát hiện, thảo luận và giáo viên định
hướng cho học sinh vào đúng với chủ đề tư tưởng, mục đích giáo dục của tác
phẩm.
Có nhiều hình thức và biện pháp thực hiện thao tác củng cố và luyện tập, ở
đây tôi chỉ xin được nêu ra một số thao tác tiêu biểu sau:
- Tiến hành đọc diễ

n cảm toàn bộ đoạn trích, tác phẩm hoặc đọc phân vai.
- Tái hiện lại một tình huống then chốt trong tác phẩm hoặc toàn bộ tác phẩm.
- Hình dung, dự đoán kết thúc tác phẩm.
- Đặt lại tên tác phẩm.
- Xây dựng lời đối thoại hay lời tâm sự với nhân vật (hoặc trao đổi với nhà văn).
- Tập so sánh, khái quát lập bảng biểu sơ đồ để khái quát kiến th
ức cho nội dung
bài học.


III/ CÁCH THỨC THỰC HIỆN .
A> CỦNG CỐ BÀI HỌC THEO SƠ ĐỒ:
Trên thực tế dạy học cho thấy học sinh có nắm vững mở rộng và khái quát
được kiến thức hay không một phần lớn phụ thuộc vào bước củng cố của tiết học.
Nếu thầy coi nhẹ bước này, học sinh sẽ không thể nhớ lâu, rất khó vận dụng vào
việc làm các bài tập . Ngược lại th
ầy coi trọng, kiến thức sẽ đọng lại và ám ảnh
mãi trong các em, tạo nên mối liên hệ kích thích tìm tòi trong sự vận dụng làm
các bài tập ở phần luện tập được tốt hơn. Để củng cố bài học đạt được hiệu quả
cao chúng ta có thể vận dụng nhiều cách khác nhau như: Đặt câu hỏi mang tính
khái quát để học sinh tổng quát lại giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cũng như ý
ngh
ĩa của bài học… Song tôi thiết nghĩ có một biện pháp đạt hiệu quả cao hơn cả
đó là dùng bảng phụ có tính Tổng hợp – so sánh. Cái khó của biện pháp này là
thầy cần phải dành thời gian nghiên cứu kĩ lưỡng để mỗi bài học đưa ra được một
sơ đồ có tính Tổng hợp – so sánh, khái quát toàn bộ kiến thức của bài học. Và để
thực hiện được cách làm này thì giáo viên ơhair chuẩn bị trước vào b
ảng phụ hoặc
thiết kế vào máy (nếu có), chỉ đến bước củng cố mới đưa ra xử dụng. Để phat huy
tối đa tác dụng của bảng phụ này thầy có thể dùng kết hợp các biện pháp: hỏi –

đáp, diễn giảng, thảo luậ, trình bày, … Nhưng xin lưu ý rằng dùng biện pháp nào
và dùng như thế nào, liều lượng ra sao còn tuỳ thuộc vào đối tượng thực tế của
họ
c sinh trong từng tiết học cụ thể. Sau đây tôi xin được mạnh dạn đưa ra vài sơ
đồ bảng phụ kiểu này để các bạn đồng nghiệp tham khảo góp ý:
1. Văn bản: Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ (Ngữ Văn 9).
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG

- Tính hiện thực sâu sắc
- Tính nhân văn cao cả: ca ngợi, tiếc thương người phụ nữ.
- Kể hấp dẫn, lôi cuốn, nhờ nghệ thuật thắt mở tình huống chuyện.

* Chàng Trương:
- Đa nghi, nông cạn:
+ Đem trăm lạng vàng cưới vợ…
+ Sẵn tính đa nghi …
Khi
ậ h độ
* Vũ Nương :
- Đẹp người, đẹp nết:
+ Cư xử đúng mực, giữ gìn…
+ Tiễn đưa chồng đằm thắm…
Ch
ồ đih hỷ hớ










Bi kịch gia đình : Hạnh phúc tan vỡ, con mất mẹ…
Bài học đắt giá, trả bằng cuộc đời, dằn vặt, đau đớn, hối hận đã
muộn với kẻ đa nghi, hồ đồ…

2. Văn bản Hoàng Lê nhất thống chí (ngữ Văn 9 – Tập 1).

HOÀNG LÊ NHÁT THỐNG CHÍ

- Lối văn trần thuạt, kết hợp miêu tả sinh động.
- Nghệ thuật so sánh đối lập độc đáo.









- Niềm tự hào dân tộc, chiến thắng lẫy lừng của chính nghĩa …
- Vẻ đẹp hào hùng của người anh hùng …
- Nhục nhã, thảm hại, đớn hèn của kẻ phi nghĩa phản bội

* Bại tướng Tôn Sĩ Nghị:
- Hồ đồ thiển cận…
- Lúng túng khi nghe cấp báo…
- Nông cạn, mù mờ trước tình hình…

- Kiêu căng tự phụ không có hoạch
định trong chiến đấu …
- Chưa bày trận đã thua chạy về
nước…
* Lê Chiêu Thống bán nước hại dân,
đớn hèn nhục nhã …
* Anh hùng Nguyễn Huệ:
- Mưu lược uy phong.
- Quyết đoán trước biến cố
- Tinh tường trong xét đoán…
- Có tầm nhìn chiến lược…
- Kì tài trong việc dùng binh…
* Tướng sĩ dưới quyền:
- Đồng lòng nhất trí…
- Kỉ luật nghiêm minh…
- Hăng hái dũng cảm …


3. Văn bản Chị em Thuý Kiều của Nguyễn Du (ngữ Văn 9 – Tập 1).
CHỊ EM THUÝ KIỀU

- Nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp thiên nhiên, gợi tả vẻ đẹp con
người…
- Cảm hứng nhân văn…









- Chân dung khắc hoạ sắc nét…
- Tín hiệu nghệ thuật báo trước số phận.

4. Văn bản Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du (ngữ Văn 9 – Tập 1).
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH

- Bức tranh phong phú, sinh động về miêu tả ngoại cảnh để biểu
đạt tâm cảnh…








- Tả cảnh ngụ tình, sử dụng sáng tạo ngôn ngữ văn học: Đọc thoại,
điệp ngữ…
* Chân dung Thuý Kiều
- Đẹp sắc sảo, hoa ghen, liễu hờn,
tuyệt thế giai nhân…
- Tài hoa thông minh “đủ mùi ca
ngâm”…
- Dự báo từ thông điệp nghệ thuật:
Bi kịch hồng nhan, bạc mênh, chìm
nổi…
* Chân dung Thuý Vân
- Đẹp thuỳ mị, đoan trang, phúc hậu,

khiêm nhường : “Mây thua …tuyết
nhường”…
- Dự báo từ thông điệp nghệ thuật:
Tương lai có cuộc sống yên vui,
hạnh phúc…
* Tâm trạng Thuý Kiều
- Cô đơn, trơ chọi, buồn bã…
- Nhớ người yêu, đau đớn xót xa, ân
hận, nuối tiếc…
- Nhớ cha mẹ, xót thương, da diết…
- Chua xót, lo sợ, hãi hùng trước cơn
tai biến dữ dội ập đến bất ngờ…
* Khung cảnh của bi kịch nội tâm:
- Giam lỏng ở lầu Ngưng Bích…
- Vẻ non xa, tấm trăng gần…
- Bốn bề bát ngát…
- Cát vàng, bụi hồng…
- Mây sớm, đèn khuya…
- Cửa bể, chiều hôm…
- Chân mây, mặt đất…
- Gió cuốn…



5. Văn bản Lục Vân Tiên gặp nạn của Nguyễn Đình Chiểu (ngữ Văn 9 – Tập
1).
LỤC VÂN TIÊN GẶP NẠN

- So sánh đối lập giữa thiện và ác, nhân cách cao cả và toan tính
thấp hèn.

- Giầu cảm xúc, ngôn ngữ bình dị, dân dã…








- Tô đậm nhân cách cao đẹp …
- Lên án cái ác…
- Quý trọng, tin yêu đối với nhân dân lao động…
Trên đây mới chỉ có năm bảng phụ có tính tổng hợp so sánh phục vụ cho củng
cố để khái quát kiến thức, rèn kĩ năng tổng hợp, nhớ lâu. Vì vậy vẫn không thể
tránh được những thiếu sót tôi mông các đồng chí cùng góp ý để tiết dạu đạt hiệu
quả cao.
B> CÁC HÌNH THỨC LUYỆN TẬP SÁNG TẠO

1- Đọc:
Đọc ở giai đoạn này không phải để xác định lớp nghĩa ban đầu, cũng không
phải để minh hoạ hay “cộng hưởng cảm xúc” cho công việc phân tích hay là căn
cứ để so sánh nữa; đó là công việc nhằm khẳng định một hiệu quả tiếp nhận văn
học, để tái hiện toàn bộ hệ thống hình tượng của tác phẩm, xác định giọng điệu
c
ủa nhà văn và khắc sâu kiến thức để vận dụng được phương pháp này ta có thể
sử dụng nhiều cách đọc cụ thể như sau:
* Hình ảnh Ngư Ông – Biểu tượng
cho cái thiện
- Chân tình gặp người bị nạn thì cứu
như một nhu cầu…

- Cả nhà hối hả chạy chữa cho Vân
Tiên…
- Hào hiệp, trọng nghĩa, sẵn sàng
cưu mang…
* Trịnh Hâm – Biểu tượng cho cái
các ác :
- Bất nhân, bội nghĩa: Đang tâm
hãm hại một người tội nghiệp,
không nơi nương tựa…
- Gây tội ác có âm mưu sẵn, sắp đặt
kĩ lưỡng…
- Cái ác trở thành bản chất ngấm vào


- Cách 1: Học sinh có thể tự đọc diễn cảm, đọc phân vai (nhằm phân biệt ngữ
cảnh đối thoại) hoặc có thể chuyển thể văn bản thành kịch bản (đối với văn xuôi)
để đọc (nhằm phân biệt kịch tính).Ví dụ như đọc phân vai trong trong các Văn
bản: Trong lòng mẹ, Ông Giuốc Đanh mặc lễ phục, Tức nước vỡ bờ, Kịch Bắc
Sơn…

- Cách 2: Học sinh diễn xướng dưới hình thức ngâm (đối với thơ) . Ví dụ như
sau khi học các bài thơ thể lục bát (Những bài ca dao trong Ngữ văn 7…), thể
song thất lục bát (Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải).
- Cách 3: Học sinh có thể vận dụng toàn bộ hiểu biết về tác phẩm đã thu nhận
qua giờ học (học sinh có thể đã thành thạo việ
c đọc theo yêu cầu nhanh, chậm,
thanh, trầm; thành thạo việc ngắt câu, ngừng nghỉ khi cách đoạn ), đặc biệt đọc
bằng sự thể hiện cảm xúc được nhân lên từ bài học, khiến hình tượng tác phẩm có
điều kiện được lĩnh hội không chỉ ở sự đa diện phong phú mà còn ở chiều sâu của
ý nghĩa tư tưởng. Chẳng hạn, sau khi học Hịch tướng sĩ c

ủa Trần Quốc Tuấn, học
sinh phải đọc được đúng hơi văn, mạch văn biền ngẫu:
Ta thường tới bữa quên ăn, / nửa đêm vỗ gối; // ruột đau như cắt, / nước mắt
đầm đìa; // chỉ căm tức / chưa xả thịt / lột da, / nuốt gan / uống máu quân thù. //
Dẫu cho trăm thân này/ phơi ngoài nội cỏ, //nghìn xác này/ gói trong da ngựa, /
ta cũng vui lòng
Đối v
ới bài thơ Lượm: những câu tả hình ảnh Lượm ở đoạn đầu cần đọc với
giọng vui, nhịp điệu nhanh, nhấn mạnh vào các từ tạo hình và các từ láy tượng
hình (loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh). Những câu cảm thán và
câu hỏi tu từ, tác giả đã tách riêng ra thành những khổ thơ đặc biệt, nhịp thơ chậm
lại, gãy khúc: Ra thế/ Lượm ơi! , L
ượm ơi, /còn không? cần đọc lắng xuống, chậm
lại, ngừng giữa các dòng thơ.
- Cách 4: Đối với các tác phẩm văn xuôi, các tác phẩm truyện, cho học sinh
đọc diễn cảm thể hiện đúng giọng kể, trần thuật, đối thoại. Ví dụ: Đọc truyện Lão


Hạc, phải thể hiện đúng giọng của đoạn diễn tả nội dung đối thoại, có đoạn lại
xen kẽ độc thoại nội tâm, có đoạn vừa tự sự, vừa trữ tình.
- Cách 5: Đối với một số bài thơ đã được phổ nhạc như: Khúc hát ru những em
bé lớn trên lưng mẹ, Viếng lăng Bác, Mùa xuân nho nhỏ, Đồng chí có th
ể cho
học sinh hát hoặc nghe băng để giờ học sinh động hơn.
2- Tái hiện một tình huống then chốt hay toàn bộ tác phẩm:
Việc làm này trong thao tác luyện tập có ý nghĩa nhấn mạnh một phương diện
bản chất nào đó hoặc toàn bộ hình tượng tác phẩm. Một chi tiết, một hình ảnh gây
xúc động sẽ có tác dụng nhân lên những tình cảm sâu sắc trong cá nhân người tiếp
nhận, đồng thời cũng là ti
ền đề cho những tư tưởng và hành động đúng, một yếu

tố hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Yêu cầu tái hiện một tình huống
then chốt hay toàn bộ tác phẩm thường được triển khai dưới dạng lời văn miêu tả,
trần thuật hay lời kể lại theo giả định người kể được chứng kiến.
Ví dụ 1, trong phần luyện tập bài Ông đồ của Vũ Đình Liên, giáo viên có th

nêu yêu cầu: em hãy hình dung và miêu tả lại tâm trạng của tác giả khi chứng kiến
cảnh:
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa?
Ví dụ 2, Trong thao tác luyện tập sau khi học bài Chiếc lá cuối cùng của
O.Hen-ri, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Em hãy hình dung tâm trạng của cụ
Bơmen khi vẽ chiếc lá thường xuân trong đêm mưa gió và giải thích tại sao Xiu
lại gọi bức vẽ đ
ó là kiệt tác?
Ví dụ 3, Với bài Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, Giáo viên có thể đặt
ra yêu cầu đối với học sinh: Em hãy hình dung tâm trạng của anh thanh niên khi
chia tay với cô kĩ sư và ông hoạ sĩ ?
Ví dụ 4, Với bài thơ Lượm của Tố Hữu, giáo viên có thể yêu cầu học sinh kể
lại một tấm gương thiếu niên hi sinh dũng cảm mà em đã được nghe, được đọc.


Với những yêu cầu như thế, một phần (hoặc toàn bộ) hình tượng tác phẩm sẽ
thêm một lần nữa được tái hiện, đồng thời thêm một lần học sinh được khắc sâu
kiến thức để có thể lưu giữ và trở thành ấn tượng, “dữ liệu” cho hành trang văn
học của mình. Cũng từ đó giúp cho các em có thêm sự tích hợp về kiến thức với
phân môn Tiếng Vi
ệt, Tập làm văn hay các môn học khác và cũng có thẻ liên hệ
với thực tế cuộc sống làm cho văn học trở nên gần gũi với các em hơn.
3- Hình dung, dự đoán kết thúc tác phẩm:
Việc hình dung, dự đoán kết thúc tác phẩm cũng có một ý nghĩa không nhỏ

Dựa trên kết thúc đã có hoặc kết thúc để ngỏ của nhà văn, học sinh bằng tưởng
tượng sáng tạo của mình, có thể
trình bày dự kiến một kiểu kết thúc khác hoặc giả
định viết tiếp mạch phát triển tác phẩm. Để thực hiện được điều này, học sinh
trước hết phải nắm vững kiến thức về tác phẩm, phương thức trình bày nghệ thuật
(thể loại, loại hình nhân vật, yếu tố thời đại, ngôn ngữ ). Nếu không nắm vững
các yếu tố đó, họ
c sinh không thể thực hiện được yêu cầu này- mà biểu hiện dễ
thấy là việc dự đoán sẽ vu vơ, thiếu căn cứ hoặc xa dời tác phẩm.
Ví dụ 1, Em hãy tưởng tượng và kể thêm cho đoạn kết của câu chuyện Lặng
lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long ?
Ví dụ 2, Em thử hình dung tâm trạng (hoặc biểu hiện qua nét mặt, lời nói )
của nhân vật Giôn xi khi nghe Xiu kể cho nghe sự
thật về nguyên nhân cái chết
của cụ hoạ sĩ Bơ men trong truyện Chiếc lá cuối cùng?
Ví dụ 3, Giả sử một ngày nào đó con trai lão Hạc trở về và đứng trước nấm mồ
lão Hạc, em thử hình dung và dự đoán: người con trai đó sẽ nghĩ gì và nói gì với
bố? (Lão Hạc – Nam Cao).
Bản chất của việc làm này là đặt học sinh trước những tình huống tự
bộc lộ
khả năng liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo. Nếu không thực hiện được kết quả
tiếp nhận văn học sẽ khó tránh khỏi những hạn chế.


Để kiểm tra kết quả tưởng tượng của học sinh, giáo viên có thể đặt câu hỏi:
Tại sao lại hình dung hoặc dự đoán như vậy?
4- Đặt lại tên tác phẩm:
Việc đặt lại tên tác phẩm cũng là những tình huống giả định nhằm đặt học
sinh trước yêu cầu phải suy nghĩ, tìm tòi và lựa chọn khả năng hợp lí khác trên cơ
sở lôgíc phát triển hình tượng hay xu thế củ

a tác phẩm. Muốn thực hiện được
nhiệm vụ này, học sinh không thể suy đoán tuỳ tiện mà phải hồi tưởng, huy động
các dữ liệu trí nhớ, liên tưởng và tưởng tượng, tái hiện toàn bộ diễn biến, cấu trúc
nội dung và hình thức tác phẩm vừa học để quyết định ý kiến của mình.
Ví dụ 1, Theo em, tại sao tác giả lại đặt tên truyện là Lặng lẽ SaPa?
- HS (lự
a chọn):
+ Vì truyện nói tới một anh thanh niên sống thầm lặng ở nơi núi rừng xa
vắng.
+ Vì truyện nói tới một anh thanh niên say sưa với công việc thầm lặng nơi
xa xôi hẻo lánh
- GV: Nếu có thể đặt lại tên cho truyện, em chọn tên nào?
- HS (lựa chọn):
+ Người không cô độc.
+ Bức chân dung bất chợt.
+Chàng trai trên đỉnh núi.
Ví dụ 2, Hoặc giáo viên có thể yêu cầu học sinh đặt lại tên cho một s
ố tác phẩm
sau:
- Lượm của Tố Hữu:
+ Em bé liên lạc.
+ Sự hi sinh dũng cảm


- Truyện ngắn”Sống chết mặc bay”của Phạm Duy Tốn
+ Tên Quan Phụ mẫu vô trách nhiệm.
+ Dân cần nhưng quan không vội
Tuy nhiên, không phải bất kì tác phẩm nào cũng có thể đặt lại được tên
khác… Kể cả cách lựa chọn như trên cho tên gọi khác của tác phẩm chưa hẳn đã
đem lại hiệu quả như tên gọi vốn có của nó. Bởi tên gọi mà tác giả lựa chọ

n đã thể
hiện khá đầy đủ, tiêu biểu và rõ nét nội dung tư tưởng cũng như hình tượng nhân
vật trong tác phẩm. Qua việc cho học sinh đặt lại tên cho tác phẩm giúp các em
cảm nhận và thấy được cái hay, cái đặc sắc cách đặt tên cho nhan đề của tác giả
trong mỗi tác phẩm.
Song, việc đặt lại tên cho tác phẩm trong phần luyện tập của bài học cũng có
tác dụng nhất định. Nó thúc đẩy quá trình học tập theo h
ướng tích cực của học
sinh và rèn luyện tư duy sáng tạo cũng như năng lực cảm thụ, đánh giá tác phẩm
của các em.
5- Xây dựng lời trao đổi, đối thoại hay tâm sự với nhà văn hoặc nhân
vật trong tác phẩm.
Đây là một trong những giải pháp hữu hiệu có khả năng bộc lộ và thanh lọc
cảm xúc thẩm mĩ, kích thích hứng thú liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo của h
ọc
sinh.
Lí thuyết tiếp nhận văn học thừa nhận: tác phẩm văn học thường được trình
bày dưới dạng “kết cấu mở” hay “kết cấu vẫy gọi” để bạn đọc có thể “lấp đầy chỗ
trống”, mỗi tác phẩm có thể có một hay nhiều đề án tiếp nhận. Mỗi người đọc có
một hình dung riêng, cách lí giải riêng. Vì thế trong quá trình tìm hiểu giá trị tác
phẩm, có nhữ
ng điều học sinh thấy nhà văn lí giải chưa thoả đáng hoặc vẫn còn
có thể lí giải theo cách khác. Trong khâu luyện tập này, học sinh sẽ trình bày “đề
án” của mình thông qua lời đối thoại (giả tưởng) để tranh luận, trao đổi với nhà
văn về một vấn đề nào đó. Hoặc học sinh cũng có thể xây dựng lời tâm sự để chia


sẻ với những điều tâm đắc cùng nhà văn (về khuynh hướng, kết cấu, ngôn ngữ
hoặc nhân vật nào đó).
Ví dụ:

- Thử tưởng tượng tâm trạng của tráng sĩ làng Gióng sau khi đánh tan giặc Ân rồi
cùng ngựa bay lên trời?
- Hãy tưởng tượng và viết một đoạn văn mô tả tâm trạng của nhân vật em khi thấy
Bố em đi cày về trong bài thơ Mưa của Tr
ần Đăng Khoa?
- Giả sử được gặp Trương Sinh trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
(trích Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ) khi nhân vật này vừa lập đàn gọi vợ, em
sẽ nói với Trương Sinh những điều gì?
- Hãy viết một đoạn văn ngắn cùng chia sẻ tâm sự với Thuý Kiều sau khi học
đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
(trích Truyện Kiều của Nguyễn Du).
- Hãy viết một bức thư ngắn chia sẻ tâm sự cùng nhà văn Nam Cao sau khi học
truyện ngắn Lão Hạc của ông.
- Em hãy viết một bức thư chia sẻ tâm sự với nhà văn về cách xây dựng truyện Cô
bé bán diêm?
- Hãy tưởng tượng và viết một đoạn văn ngắn nói lên tâm sự của em với Cô bé
bán diêm sau khi học song truyện ngắn cùng tên của An đéc xen ? (H
ọc sinh tập
viết, trình bày những điều tâm đắc hoặc thảo luận với nhà văn).
Đây là một loạt tình huống để học sinh có thể bộc lộ khả năng cảm nhận tác
phẩm văn chương của mình. Giáo viên không nên áp đặt học sinh nhưng phải biết
định hướng cho các em những suy nghĩ, tình cảm đúng có giá trị văn chương.
Mặc dù đó chỉ là những việc làm mang tính chấ
t “giả định”, nhưng khả năng tái
hiện, liên tưởng, hình dung ở học sinh sẽ có điều kiện được huy động một cách
triệt để và có rất nhiều lợi ích trong việc rèn viết và cách diễn đạt cho HS.
6- Tập so sánh, khái quát:


So sánh, khái quát là những năng lực phản ánh bản chất kiến thức mà học sinh

lĩnh hội được trong giờ học. Một vài ấn tượng riêng lẻ hay biệt lập trong từng bài
học không thể giúp học sinh có khả năng đánh giá chính xác một hiện tượng hay
vấn đề văn học. Để hình thành và phát triển khả năng này, giáo viên yêu cầu học
sinh tập trung kết nối kiến thức thành hệ thống, rút ra nhận xét ho
ặc định tính,
định danh một vấn đề văn học.
Ví dụ 1: (Câu hỏi so sánh, khái quát).
- Sau khi học các tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội
Châu, Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh, Khi con tu hú của Tố Hữu, Ngắm
trăng của Hồ Chí Minh . Em hãy cho biết các tác phẩm náy có những điểm chung
nào ?
- Sau khi học các tác phẩm Làng của Kim Lân, Lặng lẽ SaPa của Nguyễn Thành
Long và Bến quê của Nguyễn Minh Châu, em hãy so sánh để rút ra nhận xét về
những tìm tòi sáng tạo có tính đặc sắc riêng của mỗi tác phẩm trong việc xây
dựng tình huống truyện và thể hiện hình ảnh con người mới.
Ví dụ 2: ( Câu hỏi phát hiện, so sánh).
- Sau khi học đoạn trích Tức nước vỡ bờ (Trích Tắt đèn của Ngô Tất Tố) và xem
phim Chị Dậu, em hãy so sánh và rút ra nhận xét về hiệu quả c
ủa cách thể hiện
hình
ảnh người nông dân qua hai loại hình nghệ thuật này?
Ví dụ 3: (Câu hỏi so sánh, nhận xét về tình huống của truyện)
Với câu hỏi này, điều quan trọng là giáo viên giúp học sinh chỉ rõ được tình
huống cơ bản của các truyện ngắn đã được học – một việc làm quan trọng khi học
tác phẩm truyện.
+ Tình huống cơ bản của truyện Làng: sự căng thẳng th
ử thách ở nội tâm
nhân vật, từ đó bộc lộ đời sống bên trong, tình cảm và tư tưởng của nhân vật.



+ Lặng lẽ SaPa: tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông hoạ sĩ già, cô kĩ sư trẻ
với anh thanh niên. Nhân vật chính chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng để lại ấn
tượng tốt đẹp cho những nhân vật khác trong truyện.
Ví dụ 4: (Câu hỏi so sánh, mở rộng).
- Sau khi học bài thơ Quê hương của Tế Hanh, em hãy tìm trong văn học Việt
Nam cùng giai đoạn có những tác phẩm văn th
ơ nào thể hiện chủ đề tương tự ?
+ Trong văn học Việt Nam cùng thời kì có các tác phẩm: Quê hương của Giang
Nam, Nhớ mưa quê hương của Lê Anh Xuân, Mặt quê hương của Tế Hanh thể
hiện chủ đề tương tự với tác phẩm này.
- Hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu
đội xe không kính của Phạm Tiến Duật có
điểm nào chung, và điểm nào khác
nhau?
Trong một tiết học, phần luyện tập không thể chiếm nhiều thời gian nhưng
không phải vì thế mà vai trò của nó bị xem nhẹ. Với thời gian hạn hẹp, sự lựa
chọn việc làm nào cho hiệu quả còn tuỳ thuộc vào đặc điểm, yêu cầu riêng của
mỗi bài học. Hình thức so sánh, khái quát giữ vai trò quan trọng trong việc hình
thành ở học sinh khả năng đ
ánh giá vấn đề văn học hay một hiện tượng văn học từ
những cái riêng lẻ, cụ thể.
Chẳng hạn, học sinh được học rất nhiều đoạn trích trong Truyện Kiều nói về
nhân
vật Thuý Kiều nhưng sau tất cả các đoạn trích ấy, giáo viên cần giúp học sinh
khái quát được những đặc điểm của nhân vật này. Qua đó để học sinh có thể
so
sánh với các nhân vật khác trong cùng thời kì văn học (Ví dụ: các em có thể so
sánh Thuý Kiều với Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của
Nguyễn Dữ, Với Kiều Nguyệt Nga trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu)
và cao hơn để học sinh đánh giá được số phận nhân vật, thời đại văn học, lịch sử

xã hội (Ví dụ: Suy nghĩ của em thân phận người phụ
nữ trong xã hội phong kiến


qua các nhân vật Thuý Kiều, Vũ Nương, Kiều Nguyệt Nga trong các tác phẩm
Truyện Kiều của Nguyễn Du Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ,
Với trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.

Cũng cần lưu ý, khi muốn so sánh, khái quát, giáo viên cần đặt tác phẩm, nhân
vật vào những mối liên hệ hợp lí để có sự so sánh đúng giúp phát triển tư duy
sáng tạo cho học sinh; tránh những so sánh không ăn khớp, khập khiễng.

PHẦN III : CÁC KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM
1. Đánh giá kết quả đạt được:
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy, tôi đã từng áp d
ụng các hình thức luyện tập
sáng tạo cho học sinh các khối lớp (từ lớp 6 đến lớp 9) với nhiều đối tượng học
sinh, có thể rút ra một số kết luận như sau.
Thông qua các hình thức luyện tập sáng tạo, học sinh thể hiện được khả năng
nhạy bén khi tri giác ngôn ngữ, khả năng tái hiện hình tượng một cách đa dạng,
sâu sắc. Học sinh thể hiện được vố
n sống, vốn hiểu biết nhất định về tác phẩm
thông qua những tưởng tượng sáng tạo trong việc bồi đắp cho nét tưởng tượng
của mình thêm phong phú. Nhiều em đã biết bám sát văn bản – tác phẩm văn học
để lấy đó làm căn cứ “xuất phát điểm” và kiểm chứng cho những tưởng tượng
sáng tạo; xu hướng liên tưởng của học sinh khá đa dạng.
Qua khảo sát, phần l
ớn học sinh thực hiện được yêu cầu của giáo viên đưa ra.
Với các hình thức như đọc diễn cảm, hình dung dự đoán kết thúc tác phẩm, đặt lại

tên cho tác phẩm, có tới 70- 80% học sinh thực hiện xuất sắc. Với hình thức tái
hiện một tình huống then chốt trong tác phẩm, xây dựng lời đối thoại với nhân vật
có tới 60 – 65% học sinh thực hiện tốt. Riêng hình thức tập so sánh, khái quát thì
khó hơn, ch
ỉ có học sinh khá giỏi mới thực hiện được.
Cũng cần nói rằng, còn có nhiều học sinh, sự tưởng tượng sáng tạo còn nông
cạn, sai lệch. Một số học sinh phân tích ngôn ngữ một cách hời hợt, hiểu tác phẩm


một cách chung chung thậm chí có trường hợp không hiểu gì về hình tượng văn
học. Nhiều học sinh còn đồng nhất nhân vật văn học với tác giả.
2. Bài học kinh nghiệm:
Qua thực tế giảng dạy bản thân tôi đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm
sau: - Về phía học sinh: phải được bồi dưỡng tư tưởng và tình cảm tích cực,
nắm chắc được kiến thức cơ
bản, có hệ thống và thường xuyên trau dồi vốn biểu
tượng; luôn được rèn luyện cảm xúc ngôn ngữ, phát huy khả năng tự bộc lộ và
đánh giá của bản thân. Không được trang bị kiến thức một cách chắc chắn, không
có vốn ngôn ngữ và khả năng tư duy hình tượng phong phú, không có các mâu
thuẫn của tình huống sáng tạo giáo viên sẽ khó có thể phát huy được năng lực
tiếp nhận văn chương ở học sinh.
- Về phía giáo viên:
+ Sử dụng triệt để các phương tiện và đồ dùng dạy học (tranh ảnh, máy
chiếu, phần mềm vi tính…) làm cho học sinh thực sự tập trung chú ý vào bài học.
+ Bồi dưỡng vốn kiến thức, vốn hiểu biết về văn học cho các em.
+ Rèn luyện cho học sinh khả năng diễn đạt ý tưởng thành ngôn ngữ tường
minh và nắm vững nguyên tắc phân tích tác phẩm.
+ Rèn luyện khả năng hoạt
động của trí nhớ và liên kết hình ảnh, khả năng hình
dung

và hình thành biểu tượng nghệ thuật.
+ Giáo viên chuẩn bị chu đáo các hình thức luyện tập trước khi lên lớp,
hướng dẫn học sinh nghiên cứu, chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
+ Mỗi năm học phải tìm cho mình nhiều biện pháp mới, thường xuyên tự
học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ hiểu biết và tiếp cận tri thứ
c mới để vận
dụng trong dạy học đạt kết quả cao.
+ Phải là người linh hoạt, tế nhị và có óc sáng tạo.
+ Biết cách tổ chức tốt các hoạt động, gợi ý, hướng dẫn học sinh chuẩn bị
lời bình trước khi đến lớp.


+ Sau mỗi bài giảng giáo viên nên dành khoảng thời gian 2-3 phút cuối giờ
để củng cố và dặn dò học sinh chuẩn bị bài cho tốt đặc biệt là việc chuẩn bị cho
những nội dung liên quan đến điểm bình trong văn bản nghệ thuật.
Trên đây là một sáng kiến nhỏ của riêng cá nhân tôi. Tôi mạnh dạn đưa ra để
các bạn đồng nghiệp cùng xây dựng và góp ý. Tôi hy vọng rằng trong quá trình
giảng dạy, chúng ta sẽ tiếp tục nghiên c
ứu, lựa chọn nội dung , phương pháp sao
cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình hơn để góp phần vào việc đổi mới
phương pháp dạy học. Tôi rất mong được sự góp ý cấp trên và các bạn đồng
nghiệp để có thể hoàn chỉnh được kinh nghiệm khi dạy phần củng cố và luyện tập
cho học sinh trong phần tìm hiểu văn bản được tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !


Hoà lộc, ngày 05 tháng 4 năm 2008
NGƯỜI VIẾT





Trương Mạnh Hùng













×