Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

SKKN Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng giao tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.11 KB, 14 trang )














SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC THEO HƯỚNG GIAO TIẾP





Trang
A. Mở đầu

I. Cơ sở lý luận
II. Cơ sở thực tiễn





1-3
B. Nội dung của đề tài
I. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
II. Đối tợng nghiên cứu
III. Nội dung nghiên cứu




3-4
C. Phơng pháp luyện tập theo cặp, theo nhóm
I. Tổ chức luyện tập theo cặp
II. Tổ chức luyện tập theo nhóm


4-9
D. Kết quả thực hiện



9-10
E. Kết luận chung



10
F. Những ý kiến kiến nghị




11
G. Tài liệu tham khảo



11

A. Phần mở đầu

I. Cơ sở lý luận :
Đề tài đuợc xây dựng dựa trên những cơ sở lý luận sau :
1. Trong quá trình giảng dạy của mỗi giáo viên, phương pháp là một yếu tố vô
cùng quan trọng. Nếu giảng dạy mà không có phương pháp thì chúng ta không thể
có một hiệu quả đào tạo thực sự , tức là học sinh không thể nắm bắt đầy đủ những
kiến thức chúng ta cần truyền thụ. Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên cần

phải lựa chọn những phương pháp phù hợp với bộ môn và phù hợp với trình độ
của học sinh mình đang dạy.
2. Giảng dạy các môn học ở bậc học THPT nói chung và môn Tiếng Anh nói riêng
trong giai đoạn đổi mới phương pháp là vô cùng khó khăn. Giáo viên luôn không
ngừng cải tiến phương pháp dạy học để cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách
chủ động và ngày càng được củng cố các kỹ năng ngôn ngữ quan trọng như : nghe,
nói , đọc , viết .
3. Phương pháp giảng dạy ngoại ngữ có những mặt chung so với phơng pháp giảng
dạy các môn khoa học khác , song nó còn có những nét riêng biệt mang tính đặc
trưng của bộ môn như : kết hợp tranh ảnh, đồ dùng trực quan, các thiết bị hỗ trợ
dạy nghe để cho học sinh có thể tham gia vào vào các hoạt động trên lớp một
cách chủ động và sáng tạo, có khả năng đóng góp những kinh nghiệm và vốn sống
của bản thân vào bài học thông qua các hoạt động hỏi – trả lời, phỏng vấn, đóng
vai

Để học sinh đạt đợc những kỹ năng này, phương pháp giảng dạy thực tế của giáo
viên đóng vai trò quan trọng, vì tất cả những gì mà giáo viên truyền đạt đều ảnh
hưởng trực tiếp đến học sinh. Ví dụ nếu giáo viên chỉ chú trọng tới việc dạy các
cấu trúc ngữ pháp mà coi nhẹ việc nâng cao và rèn luyện các kỹ năng giao tiếp thì
học sinh chỉ có thể làm được các bài tập ngữ pháp một cách thuần tuý , còn khả
năng nói, giao tiếp bằng Tiếng Anh của các em lại rất hạn chế, mà hai kỹ năng
nghe và nói lại là những kỹ năng quan trọng trong việc học tiếng.
4.Phương pháp giảng dạy ngoại ngữ nói chung và phương pháp giảng dạy Tiếng
Anh nói riêng phải được xây dựng mang tính khoa học và thực tiễn. Nguời dạy
phải tính đến yếu tố mang tính tâm lý và hoàn cảnh xã hội của người học, giáo viên
không thể đưa ra những bài tập quá khó hoặc những yêu cầu quá cao đối với những
đối tượng học sinh cụ thể. Giáo viên phải thiết kế các bài tập, các hoạt động phù
hợp với đặc điểm lứa tuổi và sở thích của các em, song phải đảm bảo tính hệ thống,
không chệch hướng của chương trình giảng dạy như các chủ đề về gia đình, nhà tr-
ường, bạn bè , thể thao , văn hoá,



II. Cơ sở thực tiễn :
Đề tài được xây dựng dựa trên những cơ sở thực tiễn sau :
1. Hiện nay trong các trường phổ thông, môn Tiếng Anh đang được giảng dạy
ngày càng đi vào chiều sâu và có hiệu quả cao hơn. ở huyện Trấn Yên, bộ môn
Tiếng Anh đã được đưa vào chương trình chính khoá từ năm 1994, cho đến nay đã
có 30/ 30 trường THCS đã có giáo viên Tiếng Anh đang giảng dạy. Nhiều năm gần
đây huyện Trấn Yên đã có nhiều học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp trường và cấp
tỉnh môn Tiếng Anh và thi đỗ vào trường Đại học, cao đẳng,TH chuyên nghiệp.
Tuy nhiên về phía học sinh còn nảy sinh những khó khăn khi học bộ môn này như

: các em chưa có khả năng vận dụng kiến thức ngôn ngữ một cách chủ động, tự
nhiên trong giao tiếp.

2. Trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Anh ở các trường hiện nay, giáo viên vẫn
còn gặp nhiều khó khăn về phương tiện dạy học như : đài, băng cát sét, tranh ảnh,
tài liệu tham khảo,không có phòng học chuyên môn,
3. Về phía học sinh, còn có những thói quen không tốt trong việc học ngoại ngữ
như lạm dụng tiếng Việt khi học tiếng Anh, mất trật tự trong các giờ thực hành nói,
không tập chung vào bài học, ngại giao tiếp , thực hành trước lớp,
Vì vậy, trách nhiệm của mỗi giáo viên ngoại ngữ là phải làm cho học sinh hứng
thú hơn, quan tâm hơn tới giờ học. Một trong những giải pháp cho những vấn đề
trên là phải làm thế nào để giờ học sinh động hơn, hiệu quả hơn. Muốn làm được
điều này, người giáo viên phải thiết kế được các hoạt động trên lớp để tất cả học
sinh cùng tham gia, được tham gia nhiều , học sinh thực hành được tiếng Anh
nhiều nhất trong mỗi tiết học.
Chính vì những lý do trên mà tôi quyết định nghiên cứu đề tài “ Đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng giao tiếp”

B. Nội dung của đề tài :
I. Phạm vi của đề tài :
Đề tài “Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng giao tiếp” tập chung vào
nghiên cứu các nội dung sau :
1.Tác dụng của việc luyện tập theo cặp, theo nhóm
2.Vai trò của giáo viên trong quá trình hướng dẫn học sinh thực hành.
3. Phương pháp, thủ thuật, các bước khi tiến hành thực hành cặp, nhóm .
II. Đối tượng nghiên cứu :
Đề tài được nghiên cứu trên đối tượng học sinh lớp 10A1, 10B1, 10B2, 10B3,
10C1, 10C2 trường THPT Lê Quí Đôn, là nơi tôi đang công tác và những đối
tượng học sinh này là do tôi đang trực tiếp giảng dạy.
III. Nội dung nghiên cứu :
1. Phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài:
a. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài tập trung phân tích những hiệu quả của việc sử dụng phương pháp thực

hành theo cặp, theo nhóm ở học sinh.
- Nêu và phân tích những dẫn chứng cụ thể làm nổi bật những ưu điểm và hiệu quả
trong việc sử dụng phương pháp này.
- Kết hợp phân tích và đưa ra những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy
và thực hiện phương pháp mới.
- Tham khảo một số tài liệu có liên quan đến một số vấn đề về phương pháp dạy
môn tiếng Anh.
b. ý nghĩa của đề tài:
Đề tài được xây dựng và nghiên cứu mang một số ý nghĩa sau :

- Đề tài thực sự là một tài liệu tham khảo hữu ích đối với mỗi giáo viên nói chung
và với các giáo viên đang giảng dạy Tiếng Anh nói riêng.
- Đề tài góp phần củng cố cho giáo viên những kinh nghiệm về phương pháp dạy
ngoại ngữ , đặc biệt trong việc dạy cấu trúc ngữ pháp thông qua các tình huống
giao tiếp và sử dụng các hoạt động mang tính tập thể .
- Đề tài cung cấp cho giáo viên một tài liệu cần thiết trong việc so sánh , đối chiếu
với phương pháp giảng dạy thực tế của họ ở trường, từ đó có thể tìm ra ưu điểm
và hạn chế của đề tài.
2. Những kết luận rút ra qua nghiên cứu :
Qua nghiên cứu đề tài này, tôi rút ra những kết luận sau :
- Việc nghiên cứu cần phải căn cứ vào cơ sở lý luận và thực tiễn cụ thể , đồng thời
phải dựa trên những dẫn chứng thực tế, có như vậy đề tài mới có tính khả thi và có
sức thuyết phục.
- Khi nghiên cứu phải bám sát vào nội dung, khía cạnh chính của vấn đề, tập trung
đi sâu vào vào việc phân tích những ưu điểm và hiệu quả của việc sử dụng các
phương pháp mới.
- Việc nghiên cứu đề tài này cần có sự tham khảo từ những tài liệu và các sách
chuyên môn khác, cũng như cần có thời gian để lựa chọn các phương pháp nghiên
cứu có hiệu quả . Cũng như phân tích và xử lý tính đúng sai của những nguồn
thông tin và tài liệu tham khảo được sử dụng cho việc hoàn chỉnh đề tài này.


C. Phương pháp Luyện tập theo cặp, theo nhóm
I. Tổ chức luyện tập theo cặp
Nhiều hoạt động để luyện tập từ, cấu trúc câu hay ngữ pháp như nghe nhắc lại,
thay thế lắp ghép, chuyển đổi rất thích hợp với việc luyện tập theo cặp. Việc tổ
chức luyện tập theo cặp và lại rất cần thiết để đạt được mục tiêu cuối cùng của các
chương trình dạy ngoại ngữ là trang bị cho người học khả năng giao tiếp , trao đổi
dễ dàng và trôi chảy bằng ngoại ngữ . Lợi thế của loại hình bài tập này là việc tạo
cho học sinh những cơ hội để luyện nói và giao tiếp gần giống ngoài đời thực .
ở hoàn cảnh Việt Nam chúng ta, lớp học ngoại ngữ thường đông , giờ học ngắn
không đủ cho đại bộ phận học sinh tham gia đóng góp vào bài học . Trừ việc luyện
đọc đồng thanh, trung bình mỗi học sinh trong lớp chỉ có tổng cộng độ 10 – 15
giây để nói. Muốn tăng thời gian học sinh được luyện nói trong buổi học , giáo
viên phải tổ chức các hoạt động để tất cả học sinh đều được nói.
Những người theo quan điểm lấy người dạy làm trung tâm thường cho rằng nếu
tất cả học sinh trong lớp đều tham gia nói một lúc thì lớp học sẽ trở nên hết sức ồn
ào , mất trật tự , khó kiểm soát. Nhưng thực tế không hẳn như vậy. Với sự hướng
dẫn và kiểm soát của giáo viên và việc thiết lập những quy định khi làm việc ở
nhóm , tổ , thì tiếng ồn trao đổi bằng ngoại ngữ là tiếng ồn trao đổi tích cực, là biểu
hiện của việc học hành.
1. Vai trò của giáo viên khi học sinh luyện tập theo cặp :

Những giáo viên trước kia luôn giữ vai trò lãnh đạo , kiểm soát mọi hành động
trong lớp học thì nay cần phải có một cách nhìn nhận khác vì vai trò của họ đã thay
đổi trong những giai đoạn luyện tập mới mẻ này của học sinh. Lúc này giáo viên
có hai chức năng. chức năng thứ nhất là ngời theo dõi : giáo viên đi từ nhóm này
sang nhóm kia lắng nghe và ghi nhận những lỗi lặp đi lặp lại trong học sinh nhưng
vẫn để các em nói tự nhiên, hết sức tránh ngắt lời các em, trừ khi thật cần thiết .
Những lỗi trầm trọng sẽ được giải quyết vào lúc khác , có thể là đầu buổi học tiếp
theo hoặc cuối buổi luyện tập. Chức năng thứ hai của giáo viên là ngời cung cấp tư

liệu , giúp đỡ, giải đáp cho học sinh những vấn đề khó về ngữ liệu hoặc kiến thức
chung.
2. Giới thiệu cách thức luyện tập theo cặp
Khi sử dụng loại hình bài tập này lần đầu thì nên giải thích cho học sinh những -
ưu điểm và lý do sử dụng nó. Việc giải thích có thể thực hiện bằng tiếng Việt.
Thêm vào đó cần thống nhất với học sinh những nguyên tắc sau:
a. Làm bài tập luyện theo cặp không phải là thời gian để chuyện gẫu .
b. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ của bài tập, học sinh có thể đổi vai và làm bài
tập đó một lần nữa.
c. Nếu hết giờ và học sinh vẫn chưa làm bài xong thì cũng không có gì đáng lo
ngại, vì quan trọng hơn cả là học sinh đã được thực hành luyện tập, chứ không
nhất thiết là kết quả cụ thể của một nhiệm vụ nào đó.
d. Học sinh có thể đề nghị giáo viên giúp đỡ nếu cần .
e. Sau khi hết thời gian làm bài , nhất thiết giáo viên phải kiểm tra đánh giá kết quả
những công việc học sinh vừa thực hiện theo cặp.
f. Tất cả mọi học sinh phải tham gia vào hoạt động này trong một cặp nào đó. Khi
bị lẻ học sinh nào thì học sinh đó phải tham gia vào với cặp ngồi gần chỗ mình
nhất. Nếu yêu cầu bài tập là trao đổi giữa hai người thì người thứ ba ngồi theo dõi,
sau đó tham gia trao đổi ở vòng luyện tập thứ hai với một trong hai ngời kia.
3. Các bước tiến hành luyện tập theo cặp :
Bước 1 : Chuẩn bị
Cần chuẩn bị hết sức cẩn thận thông qua việc giới thiệu và thực hành ngữ liệu,
làm sao cho tất cả mọi hs đều tự tin khi sử dụng ngoại ngữ . Sau bước giới thiệu và
thực hành ngữ liệu nên lưu tất cả các thông tin trên bảng.
Bước 2 : Giáo viên làm mẫu với một học sinh.
Giáo viên cùng với một học sinh khá trong lớp đóng vai làm mẫu hoàn chỉnh một
bài tập để cho cả lớp hiểu được yêu cầu và biết cách thực hiện.
Bớc 3 : Hai học sinh làm mẫu
Gọi hai học sinh khá hoặcgiỏi lên làm mẫu trước lớp một lần nữa. Nếu cho phép
học sinh đứng tại chỗ thì phải yêu cầu học sinh nói đủ to cho cả lớp nghe được.


Bước 4 : Quy định thời gian
Báo cho học sinh biết các em sẽ có bao nhiêu thời gian để thực hiện bài tập này (
thông thường chỉ khoảng 2 – 3 phút )
Bước 5 : Học sinh thực hành theo cặp
Ra hiệu lệnh cho tất cả học sinh bắt đầu làm bài cùng một lúc.Trong khi học sinh
làm bài, giáo viên đi từ cặp nọ sang cặp kia, theo dõi và giúp đỡ các em khi cần
thiết nhưng tránh can thiệp vào các hoạt động của các em dù có thể thấy những lỗi
sai.
Bước 6 : Kiểm tra trước lớp
Hết giờ làm bài, khi thấy hầu hết các cặp đã làm xong, ra hiệu cho tất cả học sinh
dừng lại. Chọn một vài cặp bất kỳ và yêu cầu những học sinh đó trình bày lại bài
trước lớp. Việc kiểm tra này rất quan trọng vì nó khiến cho hs phải làm việc
nghiêm túc hơn ở các lần luyện tập sau. Học sinh sẽ trở nên cần cù hơn, tự giác
hơn khi biết rằng giáo viên sẽ kiểm tra đánh giá cho điểm các hoạt động học tập
của các em.
4. Các loại hình luyện tập theo cặp
a. Hội thoại :
Sau khi học một bài đối thoại mẫu, học sinh đã nắm được cấu trúc của bài và
hiểu được các vấn đề ngữ pháp trong đó, giáo viên có thể yêu cầu từng cặp hs đóng
vai bài đó nhưng có thể thay thế một số chi tiết ( Thí dụ như : tên, tuổi, quê quán ,
nghề nghiệp, sở thích ) để biến lời thoại thành của hs về chính bản thân các em
hoặc những vấn đề mà các em quan tâm.
b. Bài luyện thay thế :
Sau khi giới thiệu các mẫu câu và cho học sinh luyện tập tập thể thật nhanh, giáo
viên viết các từ gợi ý để thay thế lên bảng rồi yêu cầu học sinh luyện theo cặp. Nên
để nhiều chỗ trống ở phần gợi ý để học sinh phát huy khả năng sáng tạo của mình.
Thí dụ viết lên bảng :
When I’m alone
on holiday I love to + V

at my friend’s
( V = chat , watch video, read magazines , listen to music, )
c. Thực hành ngữ pháp
Sau khi học sinh đã nắm được vấn đề ngữ pháp và đã được luyện tập thể ( bằng
các bài tập nhắc lại hoặc chuyển đổi ), chia học sinh thành từng cặp và yêu cầu
các em trao đổi với nhau ( Chú ý chọn các chủ điểm gần gũi, quen thuộc ). Ví dụ ,
nói về chính bản thân mình hoặc những điều có thực liên quan đến cuộc sống của
học sinh. Các từ gợi ý ở trên bảng vẫn là lý tưởng cho bài luyện này. Thí dụ như
luyện về thời quá khứ của động từ :
1 2 3
Last month I/ we went

Last Saturday my friends saw
During the last holiday my sister played
etc etc etc
Hoặc thí dụ sau đây là một bảng gồm hai nhóm từ tương phản dùng để luyện
tập sử dụng các danh từ đếm được và các danh từ không đếm được .
floor 70 c carrots 75c
sugar 0c cassava 30c
coffee $1.90 oil $1.40
tea $1.25 paraffin 20c
soft drinks 35c sardines 50c
( kilo, tin , bottle, packet, litter,etc )
Trước khi dùng bảng này để luyện tập, học sinh cần nắm đợc các câu hỏi “ Have
you got any ?” , “ Is / Are there any ?”. Ngoài ra hs có thể bổ sung
thêm một số danh từ chỉ đồ vật khác vào bảng trên , hoặc tự lập một bảng mới vào
vở bài tập của mình, nhưng không cho ngời bạn cùng cặp biết để tạo ra yếu tố bất
ngờ khi nói . Trong khi học sinh hỏi và trả lời, giáo viên theo dõi xem các hình thái
số ít và số nhiều có đợc sử dụng đúng hay không.
d. Kiểm tra không chính thức

Việc kiểm tra thường xuyên cũng có tác dụng như giảng dạy. Khi cho phép học
sinh cùng cộng tác để làm một bài kiểm tra, giáo viên có thể khuyến khích được
việc học tập của các em vì những học sinh yếu sẽ được những học sinh khá hơn
giúp đỡ. Thỉnh thoảng nên có một bài kiểm tra ngắn cuối giờ và sau đó cho điểm
luôn. Bài kiểm tra đó không cần phải bao gồm toàn bộ những kiến thức học sinh
vừa học trong bài mà nó có thể tập trung vào bất cứ khía cạnh nào của việc sử
dụng ngôn ngữ. Yêu cầu của bài làm cần hết sức rõ ràng, viết câu mẫu lên bảng và
khống chế thời gian để luyện cho hs khả năng phản ứng nhanh nhẹn , linh hoạt
trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bài làm xong có thể được kiểm tra miệng hoặc các
cặp đổi chéo kiểm tra và chấm bài cho nhau.
e. Mô tả tranh
Tranh ảnh có thể dùng như các yếu tố kích thích cho rất nhiều loại hình bài tập
luyện theo cặp. Thí dụ, nhìn vào một bức tranh đi kèm với một bài đọc, một học
sinh trong cặp tìm ra những chỗ đúng sai trong tranh, còn học sinh kia nêu lên ý
kiến tán thành hay phản đối ( so sánh tranh với bài đọc ).
Hoặc hai học sinh có hai tranh toàn cảnh giống nhau nhưng các chi tiết trong tranh
thì khác nhau ( như vị trí đồ vật trong tranh, màu sắc, loại quần áo, hình dáng bề
ngoài của người ). Một học sinh tả các chi tiết trong tranh của mình còn hs kia
tìm ra những điểm khác biệt trong bức tranh của mình.
f. Tìm đầu đề cho một bài đọc
Trước khi cả lớp học một bài đọc , yêu cầu từng cặp học sinh đọc lướt sau đặt
cho bài đọc một đầu đề. Tuỳ vào độ dài của bài mà ấn định thời gian, nhưng cần

chú ý là thời gian dành cho hoạt động này không được quá nhiều vì về thực chất
đây là loại hình bài tập luyện kỹ năng đọc lướt lấy ý chính. Hơn thế nữa, hoạt động
này rất tuyệt vời vì nó cho hs một cơ hội đọc có mục đích thực tế, đọc để lấy thông
tin thực sự. Kết quả đọc có thể được kiểm tra miệng với từng hs hoặc cả lớp.
g. Hỏi và trả lời
Cuối các bài đọc thường có các câu hỏi. Học sinh có thể thảo luận tìm câu trả lời
cho các câu hỏi này theo cặp. Đầu tiên học sinh làm miệng, sau đó giáo viên gọi

một vài hs bất kỳ để kiểm tra. Hoặc làm cho hoạt động này phong phú hơn bằng
cách cho hs thảo luận miệng rồi viết câu trả lời ra giấy, các cặp đổi chéo chấm các
câu trả lời cho nhau dưới sự kiểm soát của giáo viên.
h. Viết câu minh hoạ
Sau khi dạy và luyện từ mới, ở cuối buổi học, vẫn để các từ mới đó trên bảng, chỉ
xoá các câu minh hoạ đi rồi yêu cầu hs viết lại các câu minh hoạ khác cho các từ
mới đó để kiểm tra xem hs đã thực sự hiểu nghĩa và cách sử dụng của các từ mới
đó không.
II. Tổ chức luyện tập theo nhóm
Trong các lớp học của chúng ta , ghế ngồi không thể di chuyển quanh lớp học đ-
ược, vì vậy ở hoàn cảnh này chỉ có thể yêu cầu hs bàn trên quay xuống tạo thành
các nhóm để luyện tập. Tốt nhất là tạo thành các nhóm có từ 4 – 6 hs, nhưng nhiều
khi số lượng hs trong mỗi nhóm còn phụ thuộc vào số hs ngồi ở mỗi bàn.
Sau khi chia nhóm xong, nên chỉ định hoặc để thành viên các nhóm tự bầu ra
nhóm trưởng hoặc thư ký nhóm. Người này sẽ trực tiếp liên hệ với giáo viên khi
nhóm gặp khó khăn trong việc thực hiện yêu cầu của bài tập. Điều này sẽ giúp cho
việc kiểm soát tất cả các nhóm trong lớp của giáo viên nhẹ nhàng, dễ dàng hơn.
Nên chỉ định hoặc hướng dẫn hs có khiếu khẩu ngữ và hoạt bát hơn để làm việc
này. Nhưng đôi khi cũng cần thay đổi : Chọn một hs khá nhưng còn rụt rè để tạo
điều kiện cho hs đó rèn luyện để trở nên mạnh dạn hơn. Hoặc cũng có thể để các
thành viên trong nhóm lần lượt làm nhóm trởng. Điều quan trọng là công việc này
cần phải làm nhanh, dứt khoát và hs phải được thông báo ngay ai là nhóm trưởng
để các em có thể bắt tay vào việc được, không bị lãng phí thời gian. Việc chia
nhóm có thể thực hiện bằng tiếng Việt, nếu dùng tiếng Anh thì trước đó phải cho
hs làm quen và hiểu được các mệnh lệnh như : “ first row, turn and face the
second. Third row , turn and face the fourth please. Now work in groups .”

1. Vai trò của giáo viên
GV là người quản lý tất cả mọi hoạt động ở lớp học. Do vậy họ phải đặt kế hoạch
cho nó , tổ chức nó, bắt đầu nó, theo dõi nó, canh chừng thời gian cho nó và kết

thúc nó. Điều kiêng kỵ nhất là sau khi yêu cầu hs làm việc theo nhóm, giáo viên về
bàn ngồi làm việc riêng, coi như vậy là xong việc. Nhất thiết giáo viên phải quản
lý, theo dõi đôn đốc, giúp đỡ hs luyện tập. Gv có thể đi từ nhóm nọ sang nhóm kia
, kiểm tra xem học sinh có thực hiện đúng yêu cầu của bài tập hay không, có nói

chuyện riêng không, hay có điều gì cần giúp không. Giáo viên cần phải tích cực và
nhạy cảm với bầu không khí lớp học cũng như nhịp điệu làm việc của các nhóm,
ghi nhớ các lỗi lặp đi lặp lại của hs để điều chỉnh lại bài dạy của mình sau này. Nếu
nhận thấy đa số hs gặp khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ của bài tập, nên
dừng tất cả các nhóm lại, giải thích thêm về yêu cầu bài tập, về cấu trúc hay vấn đề
ngữ pháp hoặc cho cả lớp luyện lại vấn đề đó rồi mới lại tiếp tục làm việc theo
nhóm.
2. Các loại hình luyện tập theo nhóm
Các hoạt động theo nhóm có xu hướng tự do hơn và cũng mang tính giao tiếp t-
ương hỗ nhiều hơn là các hoạt động theo cặp. Có nhiều hoạt động rất dễ thực hiện,
ngay cả đối với những giáo viên ít kinh nghiệm nhất.
a. Trò chơi
Các trò chơi đoán thông tin để luyện câu hỏi Yes – No . Đơn giản nhất là trò
đoán “ Who am I thinking of ?” ; “ What is my profession ? hoặc “ Guess what I
did ( lastnight / during the weekend ) . Đề tiêu đề trò chơi lên bảng, cung cấp một
số từ gợi ý , từ vựng, kiến thức nền, sau đó làm mẫu rồi mới cho hs tự chơi.
b. Đặt câu hỏi
Yêu cầu các nhóm đọc bài khoá sau đó đặt câu hỏi về bài đó . Sau vài phút các
nhóm gấp sách lại, lần lợt các trưởng nhóm hoặc thư ký đứng lên đặt một vài câu
hỏi, các thành viên các nhóm khác có nhiệm vụ trả lời. Để hs có hứng thú trong
hoạt động nên tổ chức nó như một cuộc thi : Các câu trả lời được chấm điểm dựa
vào độ chính xác về ngôn ngữ cũng như thông tin.
c. Thực hành có hướng dẫn
Sau khi dùng bài luyện thay thế để học sinh làm quen với cấu trúc và chức năng
của nó nên tổ chức thêm bài luyện tập có ý nghĩa giao tiếp hơn bằng các hoạt động

theo nhóm mang tính chất trò chơi và sáng tạo hơn.
Thí dụ , sau khi dạy cấu trúc với Should / shouldn’t với nghĩa khuyên bảo :
You should / shouldn’t + V
( You should eat more fruit )
Giáo viên cho một số từ gợi ý để học sinh làm việc theo nhóm : một người nêu
lên vấn đề của mình và những người khác trong nhóm đưa ra các lời khuyên. Một
vấn đề có thể có nhiều lời khuyên khác nhau. Để hs tham gia tích cực hơn nên biến
hoạt động này thành một cuộc thi : Xem nhóm nào đưa ra được nhiều lời khuyên
nhất và có những lời khuyên sáng suốt nhất không thể bắt bẻ được.
Thí dụ , cho các từ gợi ý : wallet/ lost ; bad mark for science
shirt / torn ; have headache / toothache
watch / broken, etc
Có thể dành một ít phút để hs tự nêu lên vấn đề thực sự mà các em gặp trong
cuộc sống của mình, và các bạn ở nhóm khác cho lời khuyên. Hoặc ngược lại, hs ở

nhóm này đọc một số lời khuyên của mình còn hs ở các nhóm khác phải cố gắng
đoán xem đó là các lời khuyên về vấn đề gì.
d. Đọc và viết chính tả
Tại sao gv lại luôn phải là người đọc chính tả ? Công việc này có thể giao cho
một hs trong nhóm đọc cho các thành viên khác.Tất nhiên nên chọn các đoạn văn
ngắn và đã được học từ trước. Người đọc bài cũng có thể có trách nhiệm kiểm tra
và chữa lỗi cho các thành viên khác trong nhóm.
e. Trò chơi đóng vai
Sau khi cả lớp đã luyện tập một cấu trúc với một chức năng nào đó , trò chơi
đóng vai có tác dụng rất tốt để củng cố những hiểu biết của hs về chức năng của
cấu trúc đó trong những hoàn cảnh tự nhiên hơn. Thí dụ, có thể yêu cầu các nhóm
đóng một cảnh trong đó một người phàn nàn muốn đổi một thứ quần áo mới mua
hôm trước; hoặc thu lượm thông tin cho một kỳ nghỉ chọn gói, với trò đóng vai,
các nhóm có thể dựng lên những vở kịch trong đó mỗi thành viên đóng một vai.
Trong khi các thành viên trong nhóm đóng kịch, thư ký nhóm ghi chép vắn tắt các

lời thoại để sau đó duyệt lại rồi cả nhóm sẽ trình bày trước lớp.
f. Trả lời các câu hỏi suy đoán
Sau mỗi bài đọc, gv có thể đa ra một số câu hỏi để hs suy đoán về những tình
tiết xảy ra trong bài. Câu trả lời chỉ dựa trên suy luận của hs chứ không có trong
bài. Hs trong nhóm thảo luận và đi tới một câu trả lời chung cho cả nhóm.
g. Thảo luận
Dùng cho hs đã có kiến thức tương đối cao. Thảo luận cho phép hs tự do diễn
đạt các quan điểm của mình, vì vậy tính hữu ích của thể loại bài tập này không có
gì phải tranh cãi nữa. Gv đa ra một chủ đề nào đó ( What do you think about
women who work as politicians ? What should be done about all the beggars on
the streets ?) Rồi để cho tất cả các nhóm bàn bạc , thảo luận, trao đổi quan điểm
của mình trong vài phút. Sau đó một thành viên trong nhóm sẽ báo cáo lại ý kiến
chung của cả nhóm ( nếu có sự thống nhất ), hoặc tóm tắt lại các ý kiến ( nếu có sự
khác nhau ). Tiếp theo để cho hs cả lớp cùng thảo luận về vấn đề đó. Gv không cần
thiết phải bày tỏ quan điểm của mình, trừ khi có những ý kiến sai mà không có ai
phản bác .


D. Kết quả thực hiện :
áp dụng phương pháp luyện tập theo cặp, theo nhóm trong một thời gian tôi
nhận thấy rằng học sinh hứng thú hơn trong việc học tập ngoại ngữ , mỗi giờ học
thực sự đã bớt căng thẳng hơn và điều quan trọng hơn cả là thời gian học sinh được
thực hành cũng như số học sinh có cơ hội thực hành nhiều hơn. Kết quả cụ thể như
sau ( tính theo một tiết học 45 phút ):

TT Lớp TS học Thời gian hs Số hs tham gia Ghi chú

sinh thực hành
1 10A1 43 25 phút 43
2 10B1 39 25 phút 39

3 10B2 42 25 phút 42
4 10B3 44 25 phút 44
5 10C1 39 25 phút 39
6 10C2 40 25 phút 40



Kết quả đạt được ( Thông qua các hình thức kiểm tra ) :


TT Lớp TS học
sinh
Kết quả đầu
năm
Kết quả sau
nghiên cứu
Ghi chú
1 10A1 43 1 G, 2K, 25 TB,
15 Y
9 G, 11K, 20 TB,
3 Y

2 10B1 39 0 G, 8 K, 10 TB
, 21Y
3 G, 15K , 18 TB
,3 Y

3 10B2 42
0G, 10K, 20TB,
Y12

3 G, 15 K, 22 TB,
2 Y

4

10B3 44 0 G, 0 K, 24
TB, 20 Y
1 G, 5 K, 28 TB,
10 TB

5

10C1 39 1 G, 6 K, 15
TB, 17 Y
2 G, 15 K, 15 TB,
7 Y

6

10C2 40 0 G, 9 K, 12TB,
19 Y
2 G, 12 K, 20 TB,
6 Y

Qua số liệu trên ta nhận thấy tôi chỉ cần 25 / 45 phút luyện tập cho mỗi tiết học,
thì tất cả số học sinh của lớp tôi đã đều được tham gia nói, hoặc viết.
Vậy tổng thời lượng mà học sinh thực hành trong mỗi tiết học là rất lớn , hiệu
quả của việc dạy học đã được nâng cao rất nhiều trong thời gian qua.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải kể đến những mặt hạn chế của phương pháp này,
đó là cách thức quản lý của giáo viên, cách chuẩn bị các hoạt động, sự tự giác của

học sinh,
Nói tóm lại, để làm cho phương pháp này có hiệu quả cao trong quá trình giảng
dạy, người giáo viên phải có sự đầu tư cao trong công tác soạn giảng, có sự quản
lý học sinh tốt và đặc biệt phải tuân thủ các bước tiến hành hoạt động.

E. Kết luận chung
Việc tổ chức học sinh làm bài tập theo cặp hoặc nhóm tạo được nhiều cơ hội
luyện tập và sử dụng ngoại ngữ một cách sáng tạo trong những tình huống gần với
đời sống thật của hs. Hơn thế nữa, sự thay đổi trong các hoạt động học tập và kiểu
giao tiếp giúp duy trì được sự tập trung chú ý của các em. Qua các hoạt động này,

hs cũng ý thức hơn được rằng bản thân các em có quyền tự chủ và trách nhiệm đối
với sự tiến bộ của chính mình.
Việc tổ chức luyện tập tiếng Anh theo cặp / nhóm còn giúp cho hs bạo dạn hơn
trong việc sử dụng tiếng Anh. Hs yếu kém thường lo sợ sẽ mắc lỗi trước mặt thầy
cô của mình, nhưng nếu chỉ có các bạn cùng lớp thì sự e dè đó sẽ ít hơn nhiều – Hs
sẽ vợt qua được những nhược điểm về tính cách của bản thân để học tốt hơn.
Ngoài ra các em cũng có cơ hội để giúp đỡ, học hỏi lẫn nhau nhiều hơn.
Các kết quả thu lượm được từ việc quan sát, lắng nghe và chấm các bài viết sẽ
hết sức quý giá vì chúng giúp hiểu sâu hơn về quá trình học của hs . Gv sẽ nắm đư-
ợc các điểm yếu, điểm mạnh của hs, những vấn đề cần bổ sung cho các bài sau,
những chỗ cần điều chỉnh trong giáo trình , giáo án của mình. Gv cũng học được
cách khoan dung với những lỗi không quan trọng, không làm ảnh hởng đến nghĩa
của lời nói và khuyến khích học sinh mạnh dạn hơn khi sử dụng tiếng Anh.
Quan trọng hơn cả là học sinh sẽ nhìn nhận giáo viên như những ngời hết sức
nhạy cảm với quá trình học tập của các em, những người mà các em có thể đến để
xin lời khuyên. Nhờ vậy mà mối quan hệ giữa giáo viên và hs sẽ tốt đẹp hơn.


F. ý kiến kiến nghị :

Nhằm từng buớc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập ngoại ngữ trong các
trường THPT trong toàn tỉnh, bản thân tôi là một giáo viên Tiếng Anh có những
kiến nghị sau :
1. Ban giám hiệu các trường, tổ chỉ đạo chuyên môn dành nhiều thời gian và đánh
giá khách quan những đề tài , sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên.
2. Các trường và sở giáo dục đầu tư kinh phí cho giáo viên bổ sung đồ dùng, thiết
bị dạy học như : đài , băng cassette, tranh ảnh và các tài liệu tham khảo khác
3. Tăng cường nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ ngoại ngữ trong huyện, các
trường tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên ngoại ngữ tham gia sinh hoạt chuyên
môn trong tổ , nhóm ngoại ngữ.
4.Sở giáo dục thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, giao lưu trao đổi chuyên
môn cho các giáo viên dạy ngoại ngữ trong toàn tỉnh.
Trên đây là toàn bộ nội dung của đề tài “đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng giao tiếp” của tôi. Để cho đề tài được hoàn thiện hơn, tôi kính mong các
đồng chí cùng nghiên cứu, tham gia góp ý kiến cho đề tài này. Tôi xin trân trọng
cảm ơn các đồng chí và các bạn.



……………………………………………………………………………………


G. Tài liệu tham khảo


1. The English language Teachers’ hand book -
Joanna Baker & Heather Westrup

2. Practical Techniques for Language teaching –
Micheal Lewis & Jimmie Hill

3. Teaching Skill ( The Methodology Course ) - VSO’s material
4. Teaching large multilevel classes – Natalie Hess
5. phương pháp giảng dạy Tiếng Anh THPT - Nguyễn Hạnh Dung
6. Sách hướng dẫn giảng dạy môn Tiếng Anh THPT và một số tài liệu khác.



×