Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Hoàn thiện đầu tư nước ngoài tại Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 85 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn lực quan trọng cho sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế của các nước nói chung và của Lào nói riêng. Đặc biệt, đối với các nước
đang phát triển, sự đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng trở nên quan
trọng và cần thiết.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một giải pháp hữu hiệu, là một lợi thế mà các
nước đi sau có thể tận dụng để phát triển thay vì phải mất hàng trăm năm tích luỹ ban
đầu. Các quốc gia đi sau có thể "mượn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý…" của
các quốc gia đi trước nhằm tạo ra một gia tốc đủ lớn để chiến thắng sức ỳ của nền kinh
tế vốn đã còm cõi, lạc hậu.
Đối với Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào nói chung và Thành phố Viêng Chăn
nói riêng. Để có thể phát triển nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá và tạo tiền đề
cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Lào cần phải khai thác tốt nguồn
vốn ở trong nước, đồng thời phải thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, do sự tích lũy trong
nước còn thấp nên đòi hỏi phải thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, trong đó đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn vốn quan trọng.
Thành phố Viêng Chăn là thủ đô của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Thành phố Viêng Chăn có vị thế đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế.
Cùng với cả nước, Thành phố Viêng Chăn đã và đang thi hành những chính sách, biện
pháp nhằm tăng cường năng lực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiến tới tạo nên một
môi trường đầu tư hấp dẫn, hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư
nước ngoài đến với thị trường Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào nói chung và Thành
phố Viêng Chăn nói riêng. Thành phố Viêng Chăn có nhiều tiềm năng và thế mạnh để
phát triển kinh tế - xã hội nhưng nhiều năm qua vẫn chưa có đủ điều kiện để khai thác
do thiếu nguồn vốn. Từ khi Luật Đầu tư nước ngoài của Cộng hoà Dân chủ nhân dân
2
Lào ra đời, Thành phố Viêng Chăn đã thu hút được nhiều công trình và dự án đầu tư
nước ngoài và là một trong những thành phố lớn đứng đầu trong cả nước. Các công
trình và dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần không nhỏ đến hoạt động kinh


tế - xã hội của Thành phố Viêng Chăn, trực tiếp làm sống động và phát triển các ngành
kinh tế của Thành phố Viêng Chăn như là ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ Như vậy có thể khẳng định rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giữ một vai trò
quan trọng trong công cuộc phát triển nền kinh tế của Thành phố Viêng Chăn.
Tuy nhiên hoạt động về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Thành
phố Viêng Chăn còn bộc lộ một số hạn chế, công tác huy động vốn còn chưa đạt được
hiệu quả cao, việc giải ngân đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa đảm bảo theo tiến độ thời
gian mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Thành phố chưa tốt. Vì lý do đã nêu trên tôi đã chọn đề tài nghiên
cứu: "Quản lý Nhà nước về đầu từ trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Thành phố
Viêng Chăn nước CHDCND Lào" làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ kinh tế,
nhằm góp phần giải quyết những vấn đề quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
2. Mục đích nghiên cứu
− Tổng hợp được các lý thuyết, các nghiên cứu về quản lý nhà nước về đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
− Đánh giá việc thực hiện công tác quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên địa bàn thành phố Viêng Chăn.
− Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về đầu
tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Viêng Chăn qua đó góp phần tăng
quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như quá trình giải ngân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3
− Đối tượng nghiên cứu: là các hoạt động về quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Thành phố Viêng Chăn.
− Phạm vi nghiên cứu: chỉ tập trung nghiên cứu về quản lý nhà nước về đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Thành phố Viêng Chăn.
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng quản lý Nhà nước về đầu từ trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành
phố Viêng Chăn đang vướng mắc ở đâu?

- Phương hướng và giải pháp cho công tác quản lý Nhà nước về đầu từ trực tiếp
nước ngoài trên địa bàn thành phố Viêng Chăn?
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
− Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quản lý nhà nước về
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
− Xem xét và đánh giá thực trạng việc quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Thành phố Viêng Chăn trong thời gian qua,
− Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường việc quản lý Nhà nước về đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Thành phố Viêng Chăn trong thời gian tới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được triển khai trên cơ sở một tổ hợp phương pháp nghiên cứu:
điều tra khảo sát để thu thập thông tin sơ cấp và thứ cấp, phân tích so sánh và
tổng hợp. Đồng thời luận án thừa kế có cân nhắc và phê phán, phân tích khách
quan những kết quả nghiên cứu khác của các tác giả trong và ngoài nước.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của luân văn ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung chính được làm
thành 3 chương:
4
Chương I: Tổng quan lý luận về quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
địa bàn thành phố Viêng Chăn
Chương III: Giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên địa bàn thành phố Viêng Chăn
5
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài

1.1.1.1 Khái niệm
Khái niệm về đầu tư là một khái niệm rộng nên có nhiều quan niệm khác nhau
về đầu tư:
- Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể
là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động trí tuệ.
- Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực
hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn
các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
- Đầu tư là của cải mà có thể buôn bán được với hy vọng rằng nó sẽ tạo ra thu
nhập hay tăng thêm giá trị trong tương lai. Sự nhận thức về mặt kinh tế, đầu tư là việc
buôn bán sản phẩm mà không sử dụng hôm nay nhưng nó sẽ được sử dụng trong tương
lai để tạo ra sự giầu có. Về mặt tài chính, đầu tư là của cải tiền tệ buôn bán với ý mà
của cải của nó sẽ thu nhận hoặc tăng thêm giá trị trong tương lai và có thể bán với giá
cao hơn.
- Đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng
lực vốn lớn hơn. Vốn đầu tư là phần tích luỹ xã hội của các ngành, các cơ sở sản xuất
6
kinh doanh, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào
tái sản xuất xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển vốn vào một
hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lại một khoản tiền lớn hơn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố góp phần tạo ra năng lực thực hiện hoá các
nguồn tiềm năng trong và ngoài nước, thông qua hình thức sản xuất kinh doanh đặc
thù: chuyển vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý sang một nước khác ngoài đất
nước của chủ đầu tư.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund), đầu tư trực tiếp
nước ngoài là nguồn vốn đầu tư được thực hiện nhằm thu về những lợi ích lâu dài cho
doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác ngoài nền kinh tế thuộc đất nước của
nhà đầu tư.

Cũng với mục đích đưa ra khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, tổ chức
thương mại quốc tế WTO (Word Trade Organization) coi: đầu tư trực tiếp nước ngoài
xuất hiện khi một nhà đầu tư nước này thiết lập tài sản ở một nước khác với ý định
quản lý tài sản đó và vai trò quản lý đó là tiêu chí để phân biệt với đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (Foreign Direct Investment) là những phương
thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với
mục đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc những mục tiêu phát triển khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức hợp tác kinh doanh quốc tế với
những đặc thù riêng về sự can thiệp của chủ đầu tư nước ngoài vào quá trình kinh
doanh sản xuất: về tính chất lâu dài của dự án, về sự gắn liền với quá trình chuyển giao
công nghệ đòi hỏi được điều chỉnh bằng một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh rõ ràng
và hợp lý.
Nói tóm lại, theo WTO:
7
"Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình kinh doanh của nhà đầu tư nước
ngoài bỏ vốn để thiết lập các cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư, nhờ
đó cho phép họ trực tiếp tham gia quản lý, điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư
nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó".
Theo luật đầu tư nước ngoài của Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào ban hành
1988 và được bổ sung hoàn thiện sau 2 lần sửa đổi (1994 và 2004):"Đầu tư trực tiếp
nước ngoài có nghĩa là sự đưa vào Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào vốn gồm có tài
sản, công nghệ và kinh nghiệm của nước ngoài với mục đích để kinh doanh".
Như vậy, mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về
FDI, ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ
sở sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Trong đó nhà đầu tư có thể thiết lập quyền
sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý, điều hành trực tiếp đối
tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên
cơ sở tuân theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài của nước đó.
1.1.1.2 Bản chất, đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Từ khái niệm của đầu tư trực tiếp nước ngoài, có thể khái quát một số đặc điểm
cơ bản về FDI như sau:
Một là, về nguồn vốn: Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với
nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho
nước tiếp nhận. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân
do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự quyết định sản xuất, và tự chịu trách nhiệm
về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những
ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ cho nền kinh tế củ nước tiếp nhận
đầu tư.
8
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được
công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý, bí quyết sản xuất kinh
doanh, năng lực thị trường.
Hai là, về vốn góp: các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số lượng vốn
tối thiểu theo quy định của từng nước, để họ có quyền được trực tiếp tham gia điều
hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Cộng hoà Dân
chủ nhân dân Lào, nếu doanh nghiệp liên doanh chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp
số vốn tối thiểu 30% của tổng số vốn pháp định.
Ba là, quyền quản lý: quyền quản lý kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài phụ
thuộc vào mức độ góp vốn. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài càng cao thì quyền quản
lý ra quyết định càng lớn. Nếu nhà đầu tư góp 100% vốn thì doanh nghiệp đó hoàn
toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý.
Bốn là, chia lợi nhuận: Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài thì lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh sẽ chia theo tỷ lệ vốn góp của các
bên trong tổng vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại.
1.1.1.3 Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiện nay, hoạt động đầu tư diễn ra rất mạnh mẽ và tất cả các nước đang phát
triển tìm mọi biện pháp để thu hút nguồn vốn FDI. Các nhà đầu tư có nhiều điều kiện
để lựa chọn các hình thức đầu tư khác nhau. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được
thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới ở nước ngoài, mua lại toàn bộ,

từng phần doanh nghiệp đang hoạt động, sáp nhập các doanh nghiệp với nhau.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định theo luật pháp của
từng nước. Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào năm
2004 các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm: có hợp đồng hợp tác kinh doanh
9
(Business cooperation by contract), doanh nghiệp liên doanh (Joint ventures company)
và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% foreign - owned enterprises).
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hay nhiều bên để
cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư
trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả sản xuất kinh doanh cho mỗi bên
mà không thành lập pháp nhân mới.
- Doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do một hoặc nhiều bên nước ngoài
với một hoặc nhiều bên nước nhận đầu tư cùng nhau được thành lập tại nước sở tại để
đầu tư kinh doanh trên cơ sở hợp đồng liên doanh giữa các bên.
Bên nước ngoài phải đưa vào một số vốn theo luật pháp của nước sở tại quy
định. Theo Luật Đầu tư của Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào về vốn tối thiểu của nước
ngoài phải chiếm ít nhất 30% tổng số vốn pháp định.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư 100% vốn, doanh nghiệp có toàn bộ vốn mà tài sản thuộc sở hữu nhà đầu tư
nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước sở tại, họ tự quản lý và chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh thuận theo quy định của nước nhận đầu tư.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp của người nước ngoài đầu tư tại Cộng
hoà Dân chủ nhân dân Lào. Sự thành lập doanh nghiệp có thể thành lập pháp nhân mới
hoặc thành lập chi nhánh của doanh nghiệp nước ngoài.
10
Vốn đăng ký của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tối thiểu phải bằng 30% tổng

số vốn. Trong toàn bộ thời gian hoạt động kinh doanh, giá trị tài sản của doanh nghiệp
không được nhỏ hơn vốn đăng ký.
Ngoài các hình thức FDI ở trên còn có các hình thức khác như:
- Hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT).
Hợp đồng xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian
nhất định. Hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình
đó cho Nhà nước sở tại.
- Hình thức xây dựng - chuyển giao (BT).
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao là văn bản ký kết giữa Chính phủ nước sở tại
và đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong,
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước sở tại do Chính phủ
nước sở tại phải thanh toán các hạng mục công trình như trong văn bản ký kết.
- Hình thức xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO):
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh là văn bản ký kết giữa Chính
phủ nước sở tại và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau
khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho Chính phủ nước
sở tại và sau đây Chính phủ cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một
thời gian xác định.
Về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản,
một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ
sung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của các nhà đầu
tư nước ngoài hiện nay.
11
1.1.2 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng phát triển chung của thế giới
nói chung. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một nội dung của vấn đề trên. Do vậy
đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một xu hướng phát triển khách quan của các quốc
gia.
1.1.2.1 Vai trò của FDI đối với nước đầu tư (nhà đầu tư)
FDI đem lại lợi nhuận cao hơn đầu tư trong nước hoặc xuất khẩu hàng hoá. Đây

là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các nhà đầu tư. Tuy việc đầu tư ra nước ngoài
làm giảm nhu cầu tương đối về lao động ở trong nước hay giảm năng suất nhưng
ngược lại lợi nhuận thu được từ đầu tư nước ngoài cao hơn.
FDI thúc đẩy việc xuất khẩu trực tiếp các nguồn lực như vốn, khoa học công
nghệ, lao động giúp các nước đầu tư mở rộng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín về
kinh tế ổn định cũng như chính trị. Nhà đầu tư sẽ khai thác được lợi thế của nước chủ
nhà, khai thác tài nguyên thiên nhiên mà không tìm được ở nước mình, chiếm lĩnh
được thêm thị trường của nước nhận đầu tư.
Mặt khác việc đầu tư ra nước ngoài làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc
tế của nước đầu tư. Nó có ảnh hưởng tích cực do việc chuyển một phần lợi nhuận về
nước, nhưng nó cũng gây ra những tiêu cực tạm thời như làm thâm hụt cán cân thanh
toán và ngân sách khiến một số ngành trong nước không được đầu tư đầy đủ.
1.1.2.2 Vai trò của FDI đối với nước nhận đầu tư
Thu hút FDI là một nhu cầu tất yếu nhằm bổ sung vốn, khắc phục, tình trạng
thiếu vốn do tỷ lệ tích luỹ nội bộ thấp đồng thời khai thác tốt hơn các thế mạnh như tài
nguyên, lao động, thị trường… của quốc gia mình. Đồng thời nó là cơ hội để tiếp nhận
các tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ ở các quốc gia phát triển thúc đẩy nhu
12
cầu máy móc thiết bị hiện đại nhất trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình.
Như vậy tính chất khác biệt của các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia dẫn đến
sự xuất hiện nhu cầu đi đầu tư và nhu cầu được đầu tư trong đó các bên đều phải tìm
thấy ở FDI những lợi ích của mình dù ở mức độ lợi nhuận có thể khác nhau. Khi cung
và cầu đầu tư gặp nhau, dòng vốn được di chuyển khỏi biên giới quốc gia này và trực
tiếp tham gia hoạt động kinh tế ở quốc gia khác. Do đó FDI trở thành một tất yếu
khách quan và có xu hướng ngày càng phát triển và phong phú đa dạng với các loại
hình khác nhau.
1.1.2.3 Vai trò của FDI đối với nước các nước chậm phát triển và đang
phát triển
Hiện nay, FDI không phải chỉ có ở các nước chậm phát triển và đang phát triển

mà ở cả những nước tư bản phát triển. Trong phần này tác giả chỉ nó về vai trò của FDI
đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển.
Trong suốt mấy chục năm qua, FDI ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng của
nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội rất nhiều quốc gia. Ngày nay, vai trò của FDI đã
khẳng định nó có đem những lợi thế quan trọng cho các nước tiếp nhận đầu tư trong
phát triển kinh tế xã hội.
Thứ nhất, FDI bổ sung vốn cho nền kinh tế.
FDI là nguồn vốn quan trọng giúp các nước tiếp nhận đầu tư cơ cấu lại nền kinh
tế, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển. FDI không
chỉ bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển mà còn là một luông vốn ổn định hơn so với
các loại vốn đầu tư quốc tế như vốn ODA…, FDI dựa trên triển vọng tăng trưởng,
không tạo ra nợ cho chính phủ nước nhận đầu tư và không bị rằng buộc về điều kiện
của nhà đầu tư , vì thế ít thay đổi khi tình huống bất lợi.
13
Thứ hai, FDI cung cấp công nghệ mới.
Đối với các nước chậm phát triển như Lào, đi tắt đón đầu để có công nghệ mới
trong quá trình phát triển kinh tế là một đòi hỏi bức thiết hiện nay. Con đường thuận lợi
nhất để làm được điều đó là thông qua FDI, đây được coi là nguồn quan trọng để phát
triển khả năng công nghệ của nước nhận đầu tư. Vai trò này được thể hiện thông qua
việc chuyển giao công nghệ sẵn có từ các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển
khả năng công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà (cũng được
mong đợi từ các nhà ĐTNN).
Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các công ty xuyên
quốc gia sang nước chủ nhà; được thông qua doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và
doanh nghiệp liên doanh mà bên nước ngoài nắm tỷ lệ lớn cổ phần dưới dạng công
nghệ.
Bên cạnh việc chuyển giao các công nghệ sẵn có, thông qua FDI, các doanh
nghiệp FDI còn góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển công nghệ của nước
chủ nhà. Đồng thời, trong quá trình tham gia liên doanh, các doanh nghiệp trong nước
có thể học tập được từ công nghệ nguồn và cải tiến phù hợp với điều kiện trong nước.

Để khai thác tốt nguồn vốn, đem lại hiệu quả kinh tế cao, chuyển giao công nghệ là
một phương pháp tất yếu. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, chỉ khi nào đội ngũ những
người lao động ở các nước tiếp nhận đầu tư có khả năng sử dụng thành thạo các thiết bị
hiện đại, có năng lực tổ chức quản lý giỏi, nguồn FDI mới có điều kiện để phát huy tác
dụng.
Thứ ba, FDI giúp phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm.
FDI góp phần tăng qui mô hoạt động hoặc thành lập các doanh nghiệp, ngành
nghề kinh doanh mới, thu hút thêm lao động. Đặc biệt, đi theo các dự án FDI là các
ngành dịch vụ và gia công cho các dự án này, tạo thêm nhiều cơ hội, việc làm cho
14
người lao động. Đây là môi trường tốt để giải quyết tình trạng lao động dư thừa ở các
nước chậm và đang phát triển. Đồng thời FDI cũng tạo ra thu nhập cho người lao động
và có tác động tích cực trong phát triển nguồn nhân lực của nước chủ nhà; thông qua
việc tạo điều kiện cho những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn
FDI có cơ hội học hỏi, tiếp nhận khoa học công nghệ, rèn luyện kỹ năng lao động,
năng lực tổ chức quản lý ở trình độ cao.
Nguồn lực quan trọng này chính là nhân tố đảm bảo cho các nước nhận đầu tư
có điều kiện rút ngắn khoảng cách tụt hậu, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế. Thực tiễn cho thấy, không ở đâu có điều kiện nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ
hiện đại và phương thức quản lý có hiệu quả bằng các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Trong các lợi ích mà FDI đem lại thì lợi ích về việc làm và nâng cao trình
độ cho thế hệ những người lao động mới và vấn đề có giá trị và ý nghĩa quan trọng hơn
cả.
Thứ tư, FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát
triển nội địa nền kinh tế, mà cò là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế
đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu hiện nay. FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt
động kinh tế đối ngoại, thông qua đó, các quốc gia sẽ tham gia ngày càng sâu sắc vào
quá trình phân công lao động quốc tế, vào quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trên
thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế của mình cho phù hợp. Sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung của
thế giới, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho FDI. Ngược lại, FDI cũng góp phần thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước chủ nhà, thông qua việc tạo ra nhiều
lĩnh vực ngành nghề kinh tế mới và góp phần nâng cao nhanh chóng kỹ thuật, công
nghệ ở nhiều ngành kinh tế, tăng năng suất lao động ở các ngành này.
15
Ngoài ra, với tác động của FDI, một số ngành nghề truyền thống được kích
thích phát triển, nhưng cũng có một số ngành nghề phát triển chậm lại và dần bị xoá
bỏ.
Thứ năm, FDI tạo điều kiện mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu.
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng và cân bằng cán cân thương mại
của mỗi nước. Nhờ xuất khẩu, những lợi thế so sánh của các nhân tố sản xuất của nước
chủ nhà được khai thác có hiệu quả hơn.
Các nước chậm và đang phát triển, tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí có
thể cạnh tranh được nhưng vẫn rất khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường quốc
tế. Vì thế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi
trong chính sách thu hút FDI của các nước này. Thông qua FDI, các nước nhận đầu tư
có thể tiếp nhận với thị trường thế giới, vì hầu hết các hoạt động FDI đều có công ty
xuyên quốc gia và đa quốc gia thực hiện. Ở tất cả các nước đang phát triển, các công ty
xuyên quốc gia, đều đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu do vị thế
và uy tín của chúng trong hệ thống sản xuất và thương mại quóc tế; Đây cũng là điều
kiện đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước đang phát triển.
Ngoài ra, FDI còn đem lại một số lợi thế khác cho nước chủ nhà như tăng nguồn
thu ngân sách nhà đầu tư các khoản thuế, tiền thuê đất, và thu lợi nhuận; đa dạng hoá
sản phẩm, chất lượng cao, giá cả hợp lý, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của
các tầng lớp dân cư…
1.2 Quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm về quản lý nhà nước về FDI
1.2.1.1 Khái niệm
16

Quản lý nói chung là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào các đối
tượng quản lý để điều khiển đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Quản lý nhà nước (QLNN) là sự tác động và điều chỉnh mang tính quyền lực
nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước đối với các quá trình phát triển xã hội để
điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người. QLNN ở bất cứ lĩnh
vực nào, suy cho cùng cũng là hoạt động của nhà nước và chủ thể QLNN là một tập
hợp các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội và viên chức nhà nước trong các cơ
quan đó.
Quản lý nhà nước về đầu tư chính là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định
hướng vào quá trình đầu tư bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế - xã hội
và tổ chức - kỹ thuật cùng các biện pháp nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao
trong những điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy Luật
kinh tế khách quan nói chung và quy Luật vận động đặc thù của đầu tư nói riêng.
Nói tóm lại: “Quản lý nhà nước về FDI là tập hợp những tác động của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền nhằm tạo khung pháp lý cho việc thu hút ngày càng nhiều và
sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ cho các mục tiêu của Nhà nước đã đề
ra”.
1.2.1.2 Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nhà nước cần thiết phải quản lý đối với FDI là vì những lý do sau:
Thứ nhất: Xuất phát từ vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn vốn FDI chứa trong nó tiền, công nghệ, kỹ năng quản lý… tác động tích cực
làm thay đổi cơ cấu kinh tế, nguồn lực con người và các lĩnh vực khác. Do vậy để phát
huy mặt tích cực của FDI thì cần có sự quản lý của Nhà nước và chỉ có nhà nước mới
có thể quản lý toàn bộ nguồn toàn nền kinh tế. Nhà nước tiến hành quản lý việc thu
17
hút, sử dụng nguồn vốn FDI vạch ra các chính sách, kế hoạch phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với nền kinh tế. Hoạt động quản lý FDI là chức năng
quản lý hành chính nhà nước đối với kinh tế mà Đảng đã đề ra.
Thứ hai: FDI được thực hiện bởi các cá nhân, pháp nhân và đại diện của các
quốc gia khác gắn liền với lợi ích của quốc gia đó, nên nó liên quan đến vấn đề quan hệ

quốc tế. Quan hệ quốc tế là thuộc thẩm quyền quản lý của nhà nước. Sở dĩ nhà nước
phải quản lý là vì: Trong trường hợp có sự tranh chấp, có mâu thuẫn trong FDI thì sẽ
kéo theo mâu thuẫn về chính trị của hai quốc gia đó hậu quả là phá hoại mối quan hệ
tương trợ lẫn nhau của hai quốc gia và làm giảm vị thế uy tín của quốc gia mình. Nhà
nước cần phải tăng cường quản lý FDI, giữ gìn và tăng cường mối quan hệ hợp tác với
các quốc gia khác để tranh thủ sự trợ giúp một cách tối đa của các nước.
Thứ ba: Ngoài các đóng góp tích cực FDI còn tác động tiêu cực về kinh tế,
chính trị, văn hoá xã hội của nước nhận đầu tư. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,
sự cạnh ranh của các doanh nghiệp, các quan hệ kinh tế đối ngoại có thể kéo theo sự lệ
thuộc kinh tế, sự phá hoại môi trường, những tranh chấp, sự xác động văn hoá thậm chí
cả sự bất ổn về chính trị. Vì vậy FDI cần đạt dưới sự quản lý của Nhà nước tại nước
nhận đầu tư.
+ Ngoài những lợi ích và những rủi ro đối với nước nhận đầu tư, FDI còn mang
lại những lợi ích và ẩn chứa nhiều rủi ro cho các nhà ĐTNN. Các nhà ĐTNN tiến hành
bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh tại nước nhận đầu tư, họ phải đối mặt với những yếu
tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý mới mẻ. Đây là nhân tố ảnh hưởng tới các nhà
ĐTNN.
Nếu môi trường đầu tư tại nước nhận đầu tư thuận lợi thì sẽ thu hút được các
nhà đầu tư, nếu môi trường đầu tư không thuận lợi thì sẽ gây ảnh hưởng tới các nhà
đầu tư từ đó làm suy giảm số lượng các dự án đầu tư dẫn đến gây ảnh hưởng đến nền
18
kinh tế xã hội. Vì vậy đây cũng là một vấn đề đặt dưới sự quản lý của Nhà nước. Nhà
nước cần phải tạo ra một khung pháp lý luận lợi để đảm bảo lợi ích của các nhà ĐTNN
đồng thời hạn chế rủi ro cho họ như vậy mới có thể thu hút được các nhà đầu tư nước
ngoài. Vì vậy QLNN đối với FDI trở thành một tất yếu.
1.2.1.3 Chức năng và vai trò của QLNN đối với FDI
Từ sự cần thiết khách quan phải có sự quản lý của nhà nước đối với FDI, Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý như sau:
+ Chức năng bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ các lợi ích quốc gia mà phạm vi
kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan.

+ Thực hiện chức năng định hướng, cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
diễn ra theo chủ trương, đường lối chính sách pháp luật của Đảng Nhà nước, qua đó
thu về những kết quả nhất định trong hoạt động này.
+ Chức năng và vai trò trong việc thu hút, quản lý sử dụng nguồn vốn FDI và
đảm bảo những điều kiện cần thiết cho hoạt động FDI trong việc phát triển kinh tế xã
hội. Đồng thời hạn chế tối đa những tác hại do FDI gây ra.
Với vị trí chức năng vai trò như trên, có thể nói hoạt động quản lý nhà nước có ý
nghĩa rất quan trọng quyết định đến hiệu quả thu hút sử dụng vốn FDI tại nước nhận
đầu tư.
1.2.2 Nội dung quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nội dung QLNN đối với FDI tuỳ thuộc vào điều kiện, tình hình, hoàn cảnh của
mỗi quốc gia và thay đổi theo các thời kỳ khác nhau. Song về căn bản QLNN về FDI
có những nội dung chủ yếu sau:
1.2.2.1 Xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
19
Nhà nước xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
chung cho cả nền kinh tế và quy hoạch, kế hoạch đầu tư trong đó xác định rõ địa bàn,
lĩnh vực ngành nghề mà nước sở tại khuyến khích hay hạn chế đầu tư để chủ đầu tư
xây dựng các phương án đầu tư của mình sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.
1.2.2.2 Xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật trong lĩnh vực FDI
Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về FDI là nội dung quan trọng
nhất của hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI.
Pháp luật cần có cho hoạt động QLNN về đầu tư nước ngoài, có phạm vi rộng
và đa dạng như: Luật khuyến khích đầu tư và các văn bản, các qui định pháp luật lĩnh
vực khác có liên quan đến FDI như: Luật dân sự, Luật lao động, Luật về thuế, Luật
khoa học và công nghệ, Luật thương mại…
Để quản lý tốt các hoạt động FDI, nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, nhiều
hình thức quản lý khác nhau, một công cụ đặc biệt hữu hiệu, có tính chất bắt buộc thực
hiện, có hiệu lực cao là quy định pháp luật cho Nhà nước ban hành, trên cơ sở quan
điểm đường lối, chính sách của Đảng về FDI, phù hợp với thông lệ, hệ thống pháp luật

trên thế giới và tập quán quốc tế.
Không những là công cụ quan trọng của nhà nước, hệ thống pháp luật nói chung
và luật FDI nói riêng còn là cơ sở pháp lý để đảm bảo cho hoạt động FDI được thực
hiện thuận lợi, đồng thời giới hạn những phạm vi các chủ đầu tư nước ngoài có thể
thực hiện. Để thu hút đầu tư có hiệu quả, đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh của các
doanh nghiệp việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Pháp luật được ban hành không chỉ trên cơ sở những điều kiện tự
nhiên kinh tế xã hội của nước chủ nhà mà còn tính đến bối cảnh và thông lệ quốc tế,
tính đến môi trường pháp lý chung của các nước trong khu vực và thế giới. Và về
nguyên tắc pháp luật phải đồng bộ, nhất quán, ít thay đổi, Nhà nước phải đảm bảo pháp
20
luật được thực thi một cách nghiêm túc, đội ngũ cán bộ công chức thi hành pháp luật
phải tôn trọng và căn cứ vào pháp luật, không gây trở ngại cho các nhà đầu tư nước
ngoài.
1.2.2.3 Tạo dựng môi trường đầu tư
Ngoài việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật thông thoáng cho việc đầu
tư trực tiếp nước ngoài thì để đảm bảo thu hút vốn FDI ngày càng nhiều thì Nhà nước
cần phải thường xuyên cải thiện môi trường đầu tư trong nước như:
- Đảm bảo sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội; xây dựng các chính sách ưu
đãi, hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
- Xây dựng và hoàn thiện kết cấu cơ sở hạ tầng. Hệ thống các công trình hạ tầng
có khả năng phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài.
Đồng thời xây dựng và nâng cao hệ thống bảo hiểm, xây dựng các trung tâm chứng
khoán hiện đại để phục vụ cho các nhà đầu tư.
- Nâng cao năng lực hệ thống các doanh nghiệp và nguồn nhân lực (lao động)
nội địa. Dù đầu tư dưới hình thức nào các nhà đầu tư nước ngoài đều cần tìm kiếm
nguồn lao động giá rẻ, trình độ tay nghề cao và tìm kiếm các tối tác kinh tế nội địa có
năng lực để hợp tác kinh doanh.
1.2.2.4 Xúc tiến đầu tư, hình thành hồ sơ dự án
Xúc tiến đầu tư là hoạt động nhằm giới thiệu các cơ hội đầu tư, trên thị trường

đầu tư, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể nắm bắt được cơ hội đầu tư này.
Nhà nước là người nắm bắt các thông tin một cách toàn diện về thị trường về
đối tác và cơ hội đầu tư sẽ là người hướng dẫn, giới thiệu các lợi thế của quốc gia mình
cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Hoạt động xúc tiến đầu tư có thể được thực hiện qua các công việc sau:
21
- Hướng dẫn các cơ quan QLNN theo ngành và lãnh thổ thực hiện các hoạt
động liên quan đến FDI.
- Cung cấp các thông tin về thị trường đầu tư nước mình (qua các hoạt động
ngoại giao, qua các diễn đàn đầu tư, trung tâm thông tin, tư vấn đầu tư…).
- Giới thiệu chính sách, pháp luật, các thông tin về các đối tác kinh doanh trong
nước với các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời cung cấp thông tin về các đối tác là nhà
đầu tư nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước để tìm hiểu và hợp tác đầu tư kinh
doanh.
1.2.2.5 Thẩm định, cấp giấy phép đầu tư
Công tác QLNN về FDI phải coi trọng công việc thẩm định và cấp giấy phép
đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong công việc xin cấp giấy phép
đầu tư, đồng thời cung cấp và hương dẫn các thủ tục hành chính có liên quan.
22
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ VIÊNG CHĂN
2.1 Tổng quan về tình hình nên kinh tế của thành phố Viêng Chăn
2.1.1 Tổng quan về điều kiện tự nhiên của thành phố Viêng Chăn
Viêng chăn là thủ đô của nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, là trung tâm
chính trị hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và
giao dịch quốc tế của cả nước.
Viêng Chăn có vị trí địa lý rất thuận lợi, nằm ở vùng đồng bằng Viêng Chăn,
vùng kinh tế trọng điểm miền trung, có tổng diện tích tự nhiên là 3920 km

2
(chiếm
1,7% diện tích cả nước), dân số trung bình năm 2006 là 711,919 người, mất độ dân số
là 182 người/ km
2
. Thành phố Viêng Chăn hiện có 9 huyện là Chănthabuly,
Sikhottabong, Xaysettha, Sisattanak, Naxaythong, Xaythany, Hatxayphong,
Sangthong, Parknguem. Toàn Viêng Chăn có 496 thôn bản, trong đó khu vực thành thị
chiếm 63% tổng số thôn bản, khu vực nông thôn ngược lại chỉ chiếm 37%. Dân số
Viêng Chăn có trình độ văn hoá cao nhất nước, có tình thần cần cù lao động và thuyền
thống yêu nước và ý chí cách mạng kiên cường.
Thành phố Viêng Chăn có đường biên giới chung với Thái Lan là sông Mêkông
dài khoảng 165 km ở phía Nam, phía Tây và phía Bắc có đường địa giới chung với các
huyện Salakham, Phôn hông, Tuolakhôm của tỉnh Viêng Chăn, phía Đông tiếp giáp với
huyện Thaphabat của tỉnh Bolikhăm xay. Viêng Chăn nằm trên trục đường xuyên Á,
nằm ở trung điểm giữa Miền Bắc và Miền Nam, có dân bay, đường sông và mạng lưới
đường bộ khá phát triển. Từ Viêng Chăn có thể dễ dàng đến tất cả các nơi trong nước
23
và quốc tế bằng đường hàng không, đường bộ và đường thuỷ. Vị trí địa lý như trên là
rất thuận lợi để thành phố Viêng Chăn trở thành địa phương đi đầu trong cả nước trong
trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đặc biệt là sự thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.1.2 Tổng quan về điều kiện kinh tế - xã hội của thành phố Viêng Chăn
Thành phố Viêng Chăn còn là một trung tâm kình tế lớn, có các ngành công
nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, có hệ thống hạ tầng thuỷ lợi kiên cố, các trường đại
học, các viện nghiên cứu hàng đầu của cả nước. Thành phố Viêng Chăn còn là nơi tập
trung các cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, các cơ quan ngoại giao, các đại
sự quán, các văn phòng đại diện của các tổ chức quốc tế. Đây là một lợi thế riêng có
của Viêng Chăn mà không một địa phương nào trong cả nước có được.
Tốc độ tăng trường kinh tế và cơ cấu kinh tế từng giai đoàn:
Giai đoạn 1996-2000 là giai đoàn của cả nước Lào thực hiện kế hoạch phát triển

kinh tế-xã hội 5 năm lần thứ IV. Trung bình giai đoàn 1996-2000, GDP thành phố tăng
9,67%/năm, cao hơn gần 2 lần so với mức tăng trung bình của cả nước cùng kỳ, trong
đó tốc độ tăng trưởng trung bình năm của ngành nông, lâm nghiệp là 8,53%, công
nghiệp là 10,72%, và dịch vụ là 7,62%. Thu nhập bình quân đầu người tăng rất nhanh,
năm 2000 đạt 596 USD/người/năm, tăng thêm 303 USD/người so với năm 1995. Giai
đoàn 2001-2003: nền kinh tế thành phố Viêng Chăn tiếp tục tăng trưởng, tuy nhiên
mực tăng trưởng trung bình thấp hơn giai đoàn trước. Năm 2003 GDP của thành phố
Viêng Chăn đạt 4700 tỷ kíp, tăng trưởng trung bình 8,92%/năm, trong đó công nghiệp
tăng trung bình 9,51%/năm, nông nghiệp 8,12%/năm, dịch vụ 7,74%/năm.
2.2. Thực trạng thu hút và sử dung vốn FDI của thành phố Viêng Chăn
2.2.1. Những thuận lợi và khó khăn
 Những thuận lợi.
24
CHDCND Lào có nền chính trị ổn định. Từ sau giải phóng đất nước năm 1975,
Lào duy trì tốt mối quan hệ sẵn có với tất cả các trên thế giới và các nước trong khu
vực, Ngoài ra còn có sự hợp tác với các tổ chức quốc tế như: Ngân hàng thế giới (WB),
quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), tập đoàn tài chính thế giới (IFC), ngân hàng phát triển châu
Á (ADB), chương trình của liên hợp quốc (UNDP) và các thành viên của khối
ASEAN. Vào năm 1986 Đảng và Nhà nước Lào đã có những bước đột phá mới rất
quan trọng về thay đổi hệ thống nền kinh tế Lào. Đó là đã vạch ra phương hướng và
chủ trương mở cửa nền kinh tế trong nước theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành
phần trong nền kinh tế thị trường (thay cho chính sách bao cấp của Nhà nước). Điều đó
làm cho sự xuất hiện của các thành phần kinh tế khác nhau ra đời trong đó gồm có
thành phần kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ đó nền kinh tế cả nước được
phục hồi, tăng trưởng thực tế năm 1991 - 1995 trung bình tăng 5 - 6%/năm, lạm phát
giảm mạnh từ mức 60%/năm 1989 đến 18%/năm vào năm 1990. Từ đó làm cho các
doanh nghiệp có vốn nước ngoài đầu tư vào Lào dẫn đến sự ra đời của Pháp Luật đầu
tư nước ngoài được ban hành và thông qua ngày 25/7/1988 nhằm khuyến khích việc
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng hoạt động ngân hàng, hoạt động tài chính, bảo
hiểm về mối quan hệ hợp tác lao động. Và điều luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi và

bổ sung 2 lần vào ngày 14/3/1994 và ngày 22/10/2004 và gần đây nhất là vào ngày
08/07/2009 Quốc hội đã thông qua và phê duyệt cho việc gộm 2 luật vào nhau giữa luật
xúc tiễn đâu tư trong nước và luật xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào làm thành
một luật và đổi tên thành luật Xúc tiến đầu tư. Chứng tỏ sự phát triển của ĐTNN được
phát triển trong từng giai đoạn.
Hiến pháp mới của CHDCND Lào ra đời vào ngày 15/8/1991, Hiến pháp năm
1991 khẳng định Nhà nước Lào CHDCND Lào khẳng định tại điều 14 “Nhà nước quản
lý và phát triển các loại hình sở hữu nhà nước, tập thể, cá thể, tư nhân của các nhà tư
bản trong và ngoài nước và sở hữu của cộng đồng nước ngoài dã đầu tư vào CHDCND
25
Lào. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế thi đua, hợp tác phát triển sản xuất
kinh doanh, các thành phần kinh tế đều đảm bảo công bằng trước pháp luật”.
Sự ra đời của Hiến pháp mở đường cho quan hệ quốc tế, kinh tế quốc tế được
nâng cao một bước. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Lào ngày
càng nhiều.
Cùng với sự tạo điều kiện thuận lợi và khung pháp lí, kinh tế của cả nước, thủ
đô Viêng Chăn cũng không ngừng khuyến khích đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thu hút FDI.
Ngoài ra thủ đô Viêng Chăn còn có một trí địa lý thuận lợi, là một thành phố
trung tâm giao thông của các tỉnh giữa Bắc và Nam, có biên giới giáp với Thái Lan và
nhiều nguồn tài nguyên chưa được khai thác.
 Những khó khăn.
- Chính sách ưu đãi thu hút FDI của Lào nói chung và nói riêng của thành phố Viêng
Chăn chưa rõ ràng và chưa cụ thể từng lĩnh vực được ưu tiên. Luật Đầu tư xác định
lĩnh vực ưu tiên nhưng lại chậm trong việc xác định và phân loại từng dự án gọi
vốn và còn bị động khi triển khai chính sách tài chính, thuế và giá có ảnh hưởng
trực tiếp tới chi phí và lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài.
- Luật Đầu tư đã sửa và bổ sung nhiều lần để thông thoáng phù hợp từng giai đoạn
nhưng thủ tục, dịch vụ lại phức tạp, chính trị xã hội thì thương xuyên ổn định
nhưng chính sách về kinh tế lại chưa thực sự phù hợp từng thời kỳ. Các luật liên

quan đến đầu tư hầu hết đầy đủ rồi nhưng việc thực hiện luật pháp không nghiêm
làm cho môi trường đầu tư của Lào giảm sức hấp dẫn và lòng tin, một trong đó là
Thành phố Viêng Chăn.

×