Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kỹ năng của luật sư trong hoạt động đánh giá và nghiên cứu chứng cứ
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, Luật sư được tham gia tố tụng
với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án. Khi tham gia tố tụng Luật sư được
tham gia với hai mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo
(thân chủ) và góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án bảo đảm cho công tác xét
xử được khách quan, đúng pháp luật. Khi tham gia trong tố tụng dù với vai trò là
người bào chữa cho của bị can, bị cáo hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo, lợi ích hợp pháp của đương sự… thì Luật sư cùng với thân chủ
của mình luôn trở thành một bên trong tố tụng. Do đó khi đã trở thành một bên
trong tố tụng thì Luật sư phải sử dụng tổng hợp những kinh nghiệm nghề nghiệp và
kiến thức của mình trong đó có kiến thức về chứng cứ nhằm bác lại quan điểm đối
lập, bảo vệ quan điểm của mình. Chính vì vậy, có thể nói, sự hiểu biết về lý luận
chứng cứ và khả năng sử dụng chứng cứ trong tố tụng là những điều kiện quan
trọng bảo đảm sự thành công của Luật sư trong tranh tụng.
Ở đề tài tiểu luận này, chúng ta cùng tìm hiểu các kỹ năng của luật sư trong
hoạt động đánh giá và nghiên cứu chứng cứ.
Về khái niệm chứng cứ
Như thế nào gọi là chứng cứ trong một vụ án hình sự? Chúng ta thường thấy
rằng, sau khi có một vụ án hình sự xảy ra, các dấu vết của vụ án vẫn còn lưu lại đâu
đó và được thể hiện dưới những hình thức khác nhau. Khi các dấu vết ấy thể hiện ý
nghĩa quan trọng nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội trong vụ án. Thì
từ các dấu vết đó và các điều kiện, căn cứ khác, các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ
khởi tố, truy tố hay xét xử một người đã có hành vi phạm tội. Những dấu vết như
vậy trong vụ án hình sự được gọi là chứng cứ.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 64, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác
định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như
những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.”
Chứng cứ được xác định bằng:
- Vật chứng (Theo Điều 74 BLTTHS thì, “Vật chứng là vật được dùng làm
công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội
phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm
tội”);
- Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo;
- Kết luận giám định;
- Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Như vậy, việc luật sư nhận diện trước tiên được chứng cứ bao gồm những
nội dung gì theo quy định của pháp luật như trên sẽ giúp luật sư dành sự tập trung
của mình vào những yếu tố được xác định là chứng cứ nói trên, nhằm tiến hành
đánh giá và nghiên cứu có kết quả cao nhất.
Vậy, chứng cứ mang những đặc điểm gì? Trả lời câu hỏi này sẽ giúp luật sư
nắm bắt thật chắc các đặc trưng cần thiết khi tiếp cận chứng cứ của một vụ án hình
sự, bởi nếu không nắm chắc các đặc trưng của chúng, nhiều khi không thể quyết
định việc đánh giá chúng ra sao và có thể tốn thời gian, công sức và việc đánh giá
những yếu tố có trong vụ án, nhưng lại không liên quan đến vụ án, hoặc không
phục vụ cho mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của than chủ mình.
Chứng cứ có các đặc điểm sau:
- Tính khách quan: Đây là đặc trưng quan trọng khi tiếp cận, tìm hiểu và
đánh giá chứng cứ buộc luật sư phải lưu ý kỹ. Tính khách quan thể hiện những gì
có thật và phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án hình sự đã xảy ra. Nếu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không đảm bảo tính khách quan, những yếu tố được gọi tên là chứng cứ trong vụ án
sẽ làm sai lệch tính chất của vụ án. Sự đảm bảo tính khách quan của chứng cứ trong
vụ án sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra những quyết định đúng, không
oan sai; đồng thời cũng qua đó, luật sư có cơ sở để bảo vệ cho than chủ của mình
theo đúng tinh thần pháp luật.
- Tính liên quan: Đây là đặc điểm xác định nguồn gốc của việc hình thành
chứng cứ, cũng như xác định có thực về mối quan hệ giữa vụ án với các yếu tố
được gọi là chứng cứ. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ, nó phải có mối
quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án hình sự. Mối quan hệ nội tại, có tính nhân
quả, nghĩa là chứng cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc
một quan hệ nhất định, ngược lại, hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên
nhân dẫn đến việc hình thành các chứng cứ này. Chỉ khi có mối quan hệ nhân quả
ấy diễn ra trên thực tế, chứng cứ mới đảm bảo cơ sở để xác định tính chất và nội
dung xác thực của vụ án, và nó thực sự là cơ sở để đánh giá nhằm phục vụ việc
luận tội, hay gỡ tội.
- Tính hợp pháp: Có trường hợp chứng cứ được đưa ra nhằm kết luận tính
chất và nội dung của vụ án là không hợp phải, đó là chứng cứ do nhầm lẫn, do sai
lầm trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu hay bảo quản chứng cứ. Cũng có
những lúc, chứng cứ được đưa ra để chứng minh lại là chứng cứ do giả mạo.
Những chứng cứ đó là những chứng cứ không hợp pháp. Chỉ khi chứng cứ được
bảo đảm tính hợp pháp thì nó mới phản ánh đầy đủ mối quan hệ nội tại, có thật, liên
quan với vụ án. Do đó, tất cả những gì có thật phải được cung cấp, thu thập, nghiên
cứu, bảo quản theo một trình tự do luật định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm giá trị
chứng minh của chứng cứ. Thực tế, tính hợp pháp của chứng cứ được xác định
thông qua hoạt động chứng minh được toà án và tất cả người tham gia tố tụng thực
hiện và tuân thủ.
Luật sư cũng cần xác định rõ đâu là chứng cứ buộc tội hay là chứng cứ để gỡ
tội; đâu là chức cứ trực tiếp hay gián tiếp; đâu là chứng cứ gốc và chứng cứ sao
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chép lại, thuật lại nhằm nắm bắt các khía cạnh khác nhau của chứng cứ một cách
toàn diện.
Về đánh giá và sử dựng chứng cứ
Trong khi hành nghề, luật sư do đặc thù nghề nghiệp của mình nên thường
gặp những bất lợi hơn các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tiếp cận, phát hiện
và thu thập các chứng cứ liên quan để phục vụ cho quá trình bào chữa một vụ án
hình sự. Thiết nghĩ, hiện nay nhiều lúc luật sư không thể hiện sự chủ động tìm
kiếm, phát hiện và thu thập, xử lý các chứng cứ của một vụ án hình sự, nằm phát
huy khả năng chứng minh của chứng cứ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích cho
khách hàng. Thế nên, có những trường hợp luật sư chỉ đánh giá và nghiên cứu
những chứng cứ được các cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp, hoặc chỉ dựa trên
những lời khai, lời thuật lại của những người có liên quan trong vụ án qua đơn
thuần là các văn bản được soạn ra trên giấy. Như thế, rõ ràng việc nghiên cứu, đánh
giá chứng cứ chưa được toàn diện và trọn vẹn.
Điều 11 BLTTHS quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án
có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Luật quy định như vậy có nghĩa là luật sư (người bào chữa) được tham gia
vào quá trình điều tra (từ khi khởi tố bị can), truy tố và xét xử, được đọc các tài
liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án mà khách hàng mời luật sư làm người bào
chữa. Trong cách thức để luật sư tham gia vào vụ án hình sự, họ được trao một số
quyền, trong đó có những quyền liên quan đến chứng cứ trong vụ án, như: phát
hiện và thu thập chứng cứ; đánh giá chứng cứ; sử dụng chứng cứ.
Cụ thể, tại Điều 58 BLTTHS quy định “Quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa”, trong đó khoản 2 của Điều 58 nếu các quyền:
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác;
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Như vậy, luật sư không nên thụ động trong việc dựa vào các tài liệu, chứng
cứ sao chụp được của các cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ cho việc nghiên
cứu, đánh giá của mình. Quyền của luật sư trong việc đánh giá, nghiên cứu chứng
cứ cần được phát huy có hiệu quả bằng khả năng vận dụng, nắm bắt và xác định
được mục tiêu hướng đến của vụ án để thu thập, phát hiện ra những yếu tố nào
trong vụ án có thể trở thành chứng cứ quan trọng phục vụ cho việc bào chữa của
luật sư đối với khách hàng.
Cần lưu ý thêm, tránh trường hợp luật sư dấn sâu vào việc tìm kiếm chứng
cứ phục vụ công việc của mình mà quên đi nghĩa vụ đối với các cơ quan tiến hành
tố tụng trong việc phát hiện chứng cứ, để xảy đến tình trạng luật sư phạm luật. Tại
Điểm a, khoản 3 Điều 58 BLTTHS có quy định, “Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng,
khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách
nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án”.
Khi xác định được việc chủ động tiếp cận, phát hiện và nghiên cứu chứng cứ
được rồi, điều tiên quyết luật sư cần nắm vững là định hướng mục đích của việc
đánh giá, nghiên cứu chứng cứ có được trong vụ án. Do mục đích của luật sư trong
quyền đưa ra chứng cứ khác với những cơ quan và người tiến hành tố tụng, bởi luật
sự, trước hết là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, sau nữa góp phần
làm sáng tỏ những tình tiết khác nhau về vụ án. Trong thực tế, cũng có trường hợp,
luật sư không được sử dụng chứng cứ thu thập được, bởi nếu sử dụng chứng cứ đó
sẽ làm xấu đi tình trạng của thân chủ.
Ví dụ: Luật sư N. P bào chữa cho ông T. N trong một vụ án cướp tiệm vàng,
Trước các cơ quan tiến hành tố tụng, bị can không nhận tội, nhưng trong quá trình
tìm hiểu vụ việc, luật sư N. P phát hiện ra những chứng cứ buộc tội bị can T. N, vì
vậy, luật sư N. P không có quyền đưa ra chứng cứ đó, bởi như vậy sẽ vi phạm đức