Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

TIẾNG VIỆT và lễ hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.05 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
TIẾNG VIỆT VÀ LỄ HỘI Ở VIỆT NAM
(Tài liệu dùng cho sinh viên chuyên ngành
Việt ngữ học cho người nước ngoài)
Người biên soạn: Trần Trí Dõi
Trần Thị Hồng Hạnh
Hà Nội - 2011
1
MỤC LỤC

Lời nói đầu
 Bài 1 Một số nét khái quát về lễ hội ở Việt Nam
3
 Bài 2 Lễ hội chùa Hương
12
 Bài 3 Lễ hội Cổ Loa
22
 Bài 4 Hội Lim
34
 Bài 5 Lễ hội đền Đô
46
 Bài 6 Lễ hội đền Trần
59
 Bài 7 Hội chọi trâu Đồ Sơn
75
 Bài 8 Lễ hội điện Hòn Chén
86
 Bài 9 Lễ hội cầu ngư ở các tỉnh ven biển miền Trung
97


 Bài 10 Lễ hội Katê
108
2
LỜI NÓI ĐẦU

Cùng với việc học tiếng Việt, môn học “Tiếng Việt và Lễ hội ở Việt
Nam” sẽ giúp sinh viên có được những kiến thức cơ bản nhất về lễ hội ở Việt
Nam. Những kiến thức đại cương về lễ hội có thể mang lại cho sinh viên
những hiểu biết sâu sắc hơn về văn hóa của người Việt, một nền văn hóa
mang đậm dấu ấn nông nghiệp trồng lúa nước. Chúng tôi cũng rất mong
muốn rằng, từ đó, sinh viên có thể thêm cơ sở để tự tìm hiểu văn hóa của một
đất nước khi muốn có kiến thức sâu rộng về ngôn ngữ của đất nước đó. Như
vậy, ngoài những hiểu biết về văn hóa ra, môn học còn giúp sinh viên tăng
cường thêm vốn từ vựng tiếng Việt, nhất là những từ đặc trưng văn hóa.
Về mặt kỹ năng, đây là một môn học nhằm mục đích nâng cao kỹ năng
nghe giảng, trao đổi và thảo luận, đọc sách về các vấn đề văn hóa vốn có
nhiều từ ngữ riêng biệt nhằm nâng cao trình độ tiếng Việt của sinh viên. Đồng
thời, sinh viên sẽ có được những hiểu biết và ứng xử văn hóa thông qua các
kiến thức về văn hóa lễ hội. Những kiến thức đó sẽ là nền tảng quan trọng để
phục vụ cho công việc tương lai như hướng dẫn viên du lịch….
Hà Nội, Mùa Xuân năm
2009.
3
 Bài 1 
MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI Ở VIỆT NAM
 Bài đọc
Bất cứ dân tộc nào cũng đều có những lễ hội của dân tộc mình. Lễ hội
chính là một bức tranh thu nhỏ, một bộ bách khoa toàn thư về đời sống văn
hóa tinh thần của dân tộc đó. Đối với người Việt Nam, lễ hội cũng đã trở
thành một nét đặc trưng không thể thiếu khi chúng ta nói đến đời sống văn

hóa của người Việt. Nó bao gồm hầu như đầy đủ các hình thức sinh hoạt văn
hóa dân gian như: văn học dân gian (truyền thuyết, thần thoại, thần tích, thần
phả, văn tế, ca dao, hò vè…), nghệ thuật biểu diễn dân gian (sân khấu, dân ca,
chèo tuồng, dân vũ, dân nhạc…); tôn giáo, phong tục tín ngưỡng (nghi lễ,
nghi thức, trò tục, trò diễn, tục lệ, trò chơi dân gian…).
Hội làng Ước Lễ (Nguồn: hanoimoi.com.vn)
Lễ hội ở Việt Nam là sinh hoạt văn hoá dân gian hầu như có mặt ở
khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách đây hàng nghìn năm nhưng
đến nay vẫn được duy trì. Trước đây, tuyệt đại bộ phận người Việt sống ở
làng. Làng không chỉ là một điểm quần cư đơn thuần mà chủ yếu là một tổ
chức xã hội nông nghiệp. Nó được hình thành trên cơ sở một nền sản xuất
nông nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc. Làng không chỉ là không gian cư trú, mà
dần trở thành không gian xã hội và không gian văn hóa. Đó là tấm gương
4
phản chiếu nền văn hóa cổ truyền của dân tộc, hay như có người nhận xét, văn
hóa Việt Nam cổ truyền về cơ bản là văn hóa xóm làng. Vì vậy, có thể nói, lễ
hội của người Việt là lễ hội làng. Có một số hội của nhiều làng, hội của cả
một vùng hoặc hội có tính chất cả nước cũng đều từ cơ sở hội làng mà phát
triển lên.
Hát ca trù (hát ả đảo) (Nguồn: Báo Tia sáng)
Hội làng là nét đặc sắc trong văn hoá làng người Việt. Dân làng mở ra
hội lễ, cũng là người tổ chức nên toàn bộ lễ hội để thờ cúng một vị thần thánh
nào đó - thường là thành hoàng làng. Đó là những nhân vật có công lao dựng
làng, lập nước, hoặc có công truyền nghề, có công chống giặc giữ nước hay
có công chống thiên tai, dịch bệnh Hội làng giúp dân làng nhớ về nguồn cội,
tăng cường tính cố kết cộng đồng, khuyến khích mọi người sống hướng thiện.
Bên cạnh đó, hội làng nào cũng hàm chứa ước mong sự bình yên cho từng cá
nhân và cho mọi gia đình, sự vững mạnh của dòng họ, sự bội thu cho mùa
màng, sự sinh sôi nảy nở của con người. Mong muốn chung của mọi lễ hội là
"nhân khang, vật thịnh" hoặc "quốc thái, dân an". Ngoài ra, lễ hội còn là nơi

để người dân vui chơi, giải trí, thi thố tài năng như một cách thư giãn sau
những ngày lao động vất vả. Do đó, lễ hội dân gian của người Việt thường
diễn ra vào mùa Xuân và chỉ một số ít diễn ra vào mùa Thu là hai mùa đẹp
5
nhất trong năm. Vào thời gian đó cũng là lúc nhà nông có nhiều thời gian
nhàn rỗi. Bởi vậy, dân gian người Việt có câu:
“Tháng Giêng là tháng ăn chơi ”
Địa điểm tổ chức lễ hội thường là ở đình làng, cũng có nơi tổ chức ở
chùa hay đền, miếu, điện của làng. Có thể phân chia hội làng ra làm hai
phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ hay tế lễ với hệ thống các nghi thức uy
nghiêm như rước thần, tế thần, yết cáo ở các đình, đền là phần thuộc về thế
giới tâm linh. Phần này do các lão làng đảm nhiệm. Phần hội là toàn bộ các
hoạt động nghệ thuật, thể thao, vui chơi là phần đời sống văn hóa thường
nhật. Ở đó, người ta có thể tổ chức thi thố tài năng về chăn nuôi, trồng trọt,
chế biến các sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp như thi thổi cơm, làm
bánh, thi nấu cỗ, thi chọi gà, dệt vải, đốt pháo Tất cả các trò chơi thể thao
thượng võ cũng đều được thu hút về hội như: đánh vật, đua thuyền Có
những sinh hoạt văn hóa dân gian thuần tuý như hát quan họ, hát trống quân,
nói khoác Có cả những hoạt động văn hóa nghệ thuật bán chuyên nghiệp
như múa rối, chèo, tuồng, hát ả đào Thực ra sự phân biệt giữa phần lễ và
phần hội như trên cũng chỉ là tương đối. Bởi lẽ trong phần hội cũng ít nhiều
chứa đựng những ý nghĩa như phần lễ, có lễ mới có hội.
Thi chọi gà (Nguồn: vietnamnet.vn)
Nhìn một cách tổng quát, nội dung của hội làng có thể phân loại như
sau:
6
- Lễ hội tái hiện những nghi thức sinh hoạt nông nghiệp như: hội săn
bắn, hội đánh cá, hội cầu mưa, đua thuyền (thường kèm theo các lễ: thờ thần
lúa, thần mặt trời, lễ hạ điền, thượng điền ).
- Lễ hội tái hiện những sự kiện lịch sử, nhằm kỷ niệm và tôn vinh các

anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá như hội Hát Môn (Phúc Thọ, Hà Tây)
tôn vinh Hai Bà Trưng, hội Đền Kiếp Bạc (Chí Linh, Hải Dương) tôn vinh
Trần Hưng Đạo, hội gò Đống Đa (Đống Đa, Hà Nội) kỷ niệm chiến thắng
Ngọc Hồi Đống Đa của hoàng đế Quang Trung
- Lễ hội tái hiện các sinh hoạt xã hội như lễ hội làng nghề Đại Bái (Gia
Lương, Bắc Ninh), lễ hội văn hoá nghệ thuật như hội Lim (Bắc Ninh), hội Lỗ
Khê (hát ca trù ở Đông Anh, Hà Nội), lễ hội Ok Om Bok của đồng bào
Khơme ở Sóc Trăng Vĩnh Long
Chính vì ý nghĩa phong phú, đa tầng của lễ hội ở Việt Nam mà hiện
nay, người ta vẫn chưa thể đưa ra một cách phân loại lễ hội thỏa đáng nhất.
Người ta có thể căn cứ vào nội dung phản ánh của lễ hội để chia ra đây là lễ
hội nông nghiệp, kia là lễ hội anh hùng lịch sử, còn kia nữa là lễ hội tôn giáo
tín ngưỡng. Lại cũng có thể căn cứ vào phạm vi to nhỏ để phân ra đâu là hội
làng, hội vùng, hội cả nước ; rồi lại căn cứ vào thời gian để chia ra lễ hội
mùa xuân, mùa thu; hay nơi tổ chức ở chùa, đền, đình, miếu Cách phân chia
nào cũng có mặt đúng, nhưng cũng không tránh khỏi sự chồng chéo, bởi hàng
trăm hàng ngàn lễ hội của người Việt đều có gốc tích ban đầu là hội làng,
mang đậm tính chất lễ hội nông nghiệp, nhưng trong quá trình lịch sử lâu dài
đã thu nhận vào mình những nội dung văn hóa, xã hội, lịch sử mới, tạo nên sự
đan xen, hòa quyện giữa những cái cổ xưa và những cái du nhập sau này.
Từ ngữ
Đình làng Đa tầng
Lễ hạ điền/ Lễ thượng điền Nghệ thuật biểu diễn dân gian
7
Miếu Nhân khang, vật thịnh
Thế giới tâm linh Quốc thái dân an
Tôn vinh Thành hoàng làng
Tiểu nông Tự cấp tự túc
Văn học dân gian Tái hiện
Văn hóa dân gian Thỏa đáng

Yết cáo Tính cố kết cộng đồng
Văn tế Trò tục, trò diễn
Bơi trải ở sông Lô trong hội đền Hùng (Nguồn: vietnamnet.vn)
 Câu hỏi
1. Lễ hội cổ truyền có vị trí như thế nào trong đời sống tinh thần của người
Việt Nam?
2. Lễ hội ở Việt Nam thường diễn ra vào khoảng thời gian nào? Vì sao?
3. Địa điểm tổ chức lễ hội thường ở đâu?
4. Những nội dung chính thường được thể hiện trong các lễ hội là gì?
5. Lễ hội ở Việt Nam có những ý nghĩa và giá trị xã hội như thế nào nào?
 Bài tập
8
Bài tập 1 Tìm một từ không có điểm chung về ý nghĩa với các từ còn lại
trong nhóm
a. từ điển, bách khoa thư, sách, thư viện, giáo trình
b. chèo, tuồng, cải lương, ca trù, múa rối, kịch
c. truyền thuyết, tiểu thuyết, thần thoại, cổ tích
d. duy trì, bảo trì, tiếp tục, tiếp diễn, tiếp nối
e. Phật, Chúa, thành hoàng, hoàng đế
f. bội thu, thất thu, thu hoạch, Trung thu, lạm thu
g. đình, chùa, miếu, đền, lăng, điện
h. bán chuyên nghiệp, bán nguyệt, bán dạo, bán thời gian, bán đảo
i. nguồn gốc, gốc tích, ẩn tích, nguồn cội, gốc gác, cội rễ, gốc rễ
j. khái quát, tổng quát, quát nạt, bao quát
Bài tập 2 Tìm từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa để thay thế cho các từ gạch
chân trong các câu dưới đây
a, Làng không chỉ là không gian cư trú, mà dần trở thành không gian xã hội
và không gian văn hóa.
……………………………………………………………………………….
b, Ngoài ra, lễ hội còn là nơi để người dân vui chơi, giải trí, thi thố tài năng

như một cách thư giãn sau những ngày lao động vất vả.
……………………………………………………………………………….
c, Vào thời gian đó cũng là lúc nhà nông có nhiều thời gian nhàn rỗi.
……………………………………………………………………………….
d, Phần này do các lão làng đảm nhiệm.
……………………………………………………………………………….
e, Hàng trăm hàng ngàn lễ hội của người Việt đều có gốc tích ban đầu là hội
làng, mang đậm tính chất lễ hội nông nghiệp.
……………………………………………………………………………….
g, Vào thời gian đó cũng là lúc nhà nông có nhiều thời gian nhàn rỗi.
9
……………………………………………………………………………….
Bài tập 3 Viết lại những câu sau, bắt đầu bằng từ cho trước
a, Bất cứ dân tộc nào cũng đều có những lễ hội của dân tộc mình.
Tất cả…………………………………………………………………………
b, Lễ hội là sinh hoạt văn hoá dân gian hầu như có mặt ở khắp mọi miền đất
nước.
Gần như ……………………………………………………………………
c, Làng không chỉ là một điểm quần cư đơn thuần mà còn là một tổ chức xã
hội nông nghiệp.
Làng vừa là………………………………………………………………
d, Trước đây, tuyệt đại bộ phận người Việt sống ở làng.
 Trước đây,………………………………………………………………
e, Bên cạnh đó, hội làng nào cũng hàm chứa ước mong sự bình yên cho từng
cá nhân và cho mọi gia đình, sự vững mạnh của dòng họ, sự bội thu cho mùa
màng, sự sinh sôi nảy nở của con người.
 Hơn thế nữa,……………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………….
Bài tập 4 Sử dụng các từ trong phần Từ ngữ điền vào chỗ trống

a. Là một loại hình sinh hoạt văn hóa tâm linh có từ lâu đời, nghi lễ "Hầu
Thánh”, ”lên đồng" có ý nghĩa _______________các nhân vật lịch sử cùng
với công trạng của các vị dưới hình thức diễn xướng có nghi lễ và hát văn.
b. Giải quyết ____________ mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa nói chung,
giữa bảo tồn và phát triển nói riêng là vấn đề mang tính toàn cầu, được quan
tâm ở tất cả các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển và hội
nhập như Việt Nam.
10
c. Từ bao đời nay, _____________ là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn
của mọi người dân Việt, là nơi chứng kiến những sinh hoạt và mọi đổi thay
trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam.
d. Ca dao chiếm phần lớn nhất trong ____________, biểu hiện tâm hồn giàu
tình cảm, phóng khoáng của người nông dân, một thứ tình cảm bình dị trong
sáng như cuộc đời hiền hòa đôn hậu của họ.
e. Lễ hội nông nghiệp mùa xuân thường bao gồm các nghi lễ và sinh hoạt văn
hóa nghệ thuật nhằm _____________ những sinh hoạt của nghề nông gắn liền
với quá trình sinh trưởng của cây lúa như bắt đầu mùa trồng cây có lễ “hạ
điền”, khi lúa bén rễ thì “lễ cầu lúa tốt”; gặp phải sâu bệnh thì “cúng thần
trùng”, hạn hán thì “cầu đảo”, úng lụt phải có “lễ kỳ tinh”, cày cấy xong thì
______________________.
g. Từ xưa tới nay, lễ hội làng với việc thờ __________________ thường diễn
ra ở đình, đền vào mùa xuân, mùa bắt đầu của một năm mới.
h. Lễ hội của người Việt có thể ví như một bảo tàng tổng hợp lưu giữ khá
nhiều các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cư dân ___________________.
Bài tập 5 Đặt câu với từ, cụm từ sau:
1. bách khoa toàn thư
…………………………………………………………………………………

2. đời sống văn hóa
…………………………………………………………………………………


3. tôn giáo
…………………………………………………………………………………
4. công lao
…………………………………………………………………………………

11
5. thư giãn
…………………………………………………………………………………

6. lao động
…………………………………………………………………………………

7. vất vả
…………………………………………………………………………………

8. xã hội nông nghiệp
…………………………………………………………………………………

9. đoàn kết
…………………………………………………………………………………

10. thế giới tâm linh
…………………………………………………………………………………

12
 BÀI 2 s
LỄ HỘI CHÙA HƯƠNG
 Bài đọc
Trong tâm thức người dân đất Việt, chùa Hương được coi là cõi Phật.

Nơi đây năm nào cũng đón tiếp hàng chục vạn lượt người hành hương trong
những ngày đầu năm mới. Người ta đi hội vì nhiều lẽ: để cầu tài cầu lộc, để
thăm thú cảnh đẹp thiên nhiên, để tìm lại dáng nét của những phong tục cổ
xưa, hay chỉ để thoát khỏi chốn thành thị ồn ào Hội chùa Hương là một
trong những lễ hội đông vui nhộn nhịp và có thời gian dài nhất trong tất cả
các lễ hội của Việt Nam.
Chùa Hương - Suối Yến (Theo: wikipedia)
Lễ hội chùa Hương diễn ra trên địa bàn xã Hương Sơn, thuộc địa phận
huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội. Cách trung tâm Hà Nội
chừng 60 km về phía Nam, Hương Sơn gồm sáu thôn: Tiên Mai, Phú Yên,
Hội Xá, Đục Khê, Yến Vĩ, Hạ Đoạn. Nơi đây có nhiều dãy núi đá vôi kề bên
những dòng suối uốn lượn quanh co. Trên núi và trong các hang động, người
ta đã cho xây dựng nhiều đền chùa mà trung tâm là chùa Hương trong động
Hương Tích. Hệ thống chùa chiền, đền thờ và hang động nằm trong khu vực
13
này có diện tích khoảng chừng 6 km². Quần thể văn hóa - tôn giáo này, với
hàng chục ngôi chùa thờ Phật và vài ngôi đền thờ thần hoặc những ngôi đình
thờ tín ngưỡng nông nghiệp hay tín ngưỡng thờ mẫu, gắn liền với rất nhiều
huyền thoại và truyền thuyết linh thiêng.     
Trước đây, hội chùa tự động khai hội và tự động kết thúc mùa hội.
Thường là sau tết Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng) khách đã tụ họp về mở
hội, đến khoảng rằm tháng Ba thì vãn khách. Ngày nay, hội mở sớm hơn, lấy
ngày mồng Sáu tháng Giêng làm ngày khai hội. Ngày này vốn là ngày lễ khai
sơn (lễ mở cửa rừng) của người dân làng Yến Vĩ và Phú Yên thuộc xã Hương
Sơn.
Đường vào chùa chính chụp năm 1927)
(Ảnh tư liệu của Viện TTKHXHVN)
Lễ mở cửa rừng của làng Yến Vĩ tổ chức ở đền Ngũ Nhạc. Còn làng
Phú Yên làm lễ mở cửa rừng ở đền Hạ. Lễ mở cửa rừng vốn xưa là một nghi
lễ nông nghiệp của người Việt cổ. Người ta tổ chức nghi lễ với mục đích tạ

thần núi, tạ chúa sơn lâm, cầu mong mưa gió thuận hòa trong năm làm ăn gặp
nhiều may mắn, con người an khang tráng kiện, không bị thú dữ ăn thịt. Ngày
nay, nghi lễ này chỉ còn diễn ra ở một số vùng người Mường, một dân tộc
thiểu số miền núi vốn là người Việt cổ. Đối với cư dân ở đồng bằng, người ta
14
không tổ chức lễ mở cửa rừng nữa mà chỉ có lễ hạ cây nêu (mồng Bảy tháng
Giêng) chấm dứt một tuần vui tết để bắt tay vào mùa làm ăn mới.
Sau những nghi thức cúng tế, dân làng cử một cụ ông bước vào rừng,
cầm dao chặt đứt một cành cây và vài sợi dây leo. Cụ ông này phải là chủ một
gia đình vợ chồng ăn ở thuận hòa, đã từng sinh con đẻ cái và chúng mau ăn
chóng lớn. Sau đó, người dân mới chính thức đi rừng. Ngày nay, nghi thức
mở cửa rừng còn hàm chứa thêm một ý nghĩa mới, đồng nghĩa với việc mở
cửa chùa. Sau lễ mở cửa chùa, du khách trẩy hội đông dần mà cao điểm nhất
là ngày Mười Tám tháng Hai âm lịch. Tương truyền, đây là ngày khánh đản
Đức Quan Thế Âm, nghĩa là ngày sinh của bà Chúa Ba ở chùa Hương.
Đường vào chùa Long Vân – thuộc quần thể chùa Hương – chụp năm
1955 (Ảnh tư liệu của Viện TTKHXHVN)
Hội cứ đông vui tấp nập đến tận tháng ba. Khi cái nắng đầu hè oi bức
thì cái thú leo núi cũng chẳng còn hấp dẫn với du khách nữa và hội sẽ vãn
dần. Như thế, hội chùa cứ dần dần khép lại, còn lễ chùa hay đi du lịch thắng
cảnh Hương Sơn thì vẫn diễn ra quanh năm. Mồng một, hôm rằm và các ngày
chủ nhật của những tháng sau đó, khách vẫn thường lui tới thăm thú cảnh đẹp
nên thơ này.
Chùa Hương là một danh thắng nổi tiếng. Quần thể núi non ở đây tạo ra
những dáng hình kỳ thú. Hệ thống hang động tạo nên nét đặc sắc cho quần thể
Hương Sơn. Bao quanh quần thể núi non, hang động là những dòng suối uốn
15
lượn quanh co. Thật là núi non sơn thuỷ hữu tình. Trong tất cả các hang động
ở đây, nổi bật hơn cả là động Hương Tích và động Tuyết Sơn. Động Hương
Tích đã to lại rộng. Người xưa coi động Hương Tích là miệng con rồng. Theo

quan niệm dân gian, đã đi chùa Hương mà chưa tới động Hương Tích thì coi
như chưa tới chùa Hương. Năm Canh Dần (1770) Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm,
một người có tài văn chương, tuần thú qua vùng Hương Sơn, đã đến thăm
động Hương Tích. Cảm cái đẹp và hùng vĩ của thắng cảnh, ông đã đặt bút cho
khắc năm chữ "Nam thiên đệ nhất động" ở đây.
Một phần trong quần thể chùa Hương (Theo: wikipedia)
Tìm ra động Hương Tích và dựng thảo am Thiên Trù là do ba vị hòa
thượng ở thời vua Lê Thánh Tông (1442-1497) kế tiếp nhau gây dựng nên.
Sau đó vào nửa cuối thế kỷ XVII, hòa thượng Trần Đạo Viên Quang Chân
nhân đã chấn hưng cõi Phật Hương Sơn. Cho đến đầu thế kỷ XX, toàn khu
thắng cảnh Hương Sơn đã có khoảng một trăm ngôi chùa, trong đó có những
ngôi chùa được xây dựng có qui mô lớn, nghệ thuật tinh xảo như chùa Tam
Bảo hay nhà tổ ở Thiên Trù
Kể từ đó tới nay, công việc kiến tạo chùa có lúc hưng lúc thịnh nhưng
chùa Hương không bị lãng quên trong tâm trí nhân dân. Điều này phản ánh
16
vai trò của đạo Phật trong việc gây dựng, phát triển Hương Sơn thành một đại
kỳ quan của nước Việt.
Một phần trong quần thể chùa Hương (Nguồn: tamtay.vn)
Theo cuốn Nam Hải Quan Thế Âm, một truyện nôm ra đời vào khoảng
thế kỷ XVIII – XIX, thì chùa Hương là nơi lưu dấu tu hành của công chúa
Diệu Thiện con vua Diệu Trang Vương nước Hưng Lâm. Dân gian quen gọi
công chúa Diệu Thiện là Bà Chúa Ba. Bà tu hành chín năm ở động Hương
Tích rồi đắc đạo thành Đức Quan Thế Âm bồ tát. Sau đó Người trở về quê
hương diệt trừ cái ác, đáp hiếu cha mẹ, phổ độ chúng sinh. Người Việt phần
nhiều theo đạo Phật nên việc hàng năm có đông người đi hội chùa Hương
cũng là điều dễ hiểu. Nó tạo nên sắc thái một mùa hội chùa ở đất Hương Sơn.
Trong thời gian lễ hội, sau lễ Phật, các vãi thường tụ tập ở một nơi và
nhóm dậy hình thức sinh hoạt vui chơi là hát chèo đò. Hát chèo đò được thực
hiện ở bất cứ chỗ nào, nhưng đông vui hơn cả là ở sân chùa hay sân nhà tổ.

Còn ở những nơi khác như chùa Giải Oan, điện Cô gần động Tuyết Sơn hình
thức sinh hoạt vui chơi thường là hầu bóng có kèm theo điệu múa.
17
Từ ngữ
Hành hương Tín ngưỡng thờ mẫu
Linh vật Chúa sơn lâm
Tráng kiện Hạ cây nêu
Trẩy hội Vãn cảnh
Dáng nét Vãn khách
Tối cổ Miền thánh địa
Tuần thú Truyện nôm
Khánh đản Phổ độ chúng sinh
Vãi Hầu bóng
Truyện Nôm Hòa trộn
Nhà tổ Kiến tạo
Câu hỏi
1. Lễ hội chùa Hương diễn ra vào thời gian nào?
2. Địa điểm diễn ra lễ hội chùa Hương có điểm gì đặc biệt?
3. Vì sao hội chùa Hương có thể được coi là một trong những lễ hội chùa lớn
nhất Việt Nam?
4. Em hãy cho biết những yếu tố tín ngưỡng dân gian nào được dung nạp và
phản ánh trong lễ hội chùa Hương?
Đường vào chùa Hương (Nguồn: vietnamnet.vn)
 Bài tập
18
Bài tập 1 Chọn từ thích hợp thay thế cho những từ gạch chân
a. Người ta đi hội vì nhiều lẽ: để cầu tài cầu lộc, để thăm thú cảnh đẹp thiên
nhiên, để tìm lại dáng nét của những phong tục cổ xưa, hay chỉ để thoát khỏi
chốn thành thị ồn ào
A. Lý do B. Nguyên lý C. Lý lẽ D. Lý luận

b. Nơi đây có nhiều dãy núi đá vôi kề bên những dòng suối uốn lượn quanh
co.
A. Kề cận B. Kế cận C. Kế tiếp D. Gần bên
c. Ngày nay, nghi thức mở cửa rừng còn hàm chứa thêm một ý nghĩa mới,
đồng nghĩa với việc mở cửa chùa.
A. Hàm súc B. Hàm ẩn C. Hàm hồ D. Hàm số
d. Mồng một, hôm rằm và các ngày chủ nhật của những tháng sau đó, khách
vẫn thường lui tới thăm thú cảnh đẹp nên thơ này.
A. Đến B. Lùi C. Thăm D. Gặp
Bài tập 2 Đặt câu dựa vào những từ gợi ý, chú ý không thay đổi trật tự cho
sẵn
a, Chùa Hương / quần thể văn hóa - tôn giáo / ở / Hương Sơn.
………………………………………………………………………………….

b, Quần thể / nổi tiếng / linh thiêng / danh lam thắng cảnh.
………………………………………………………………………………….

c. Trung tâm / động Hương Tích / ba vị hòa thượng / Lê Thánh Tông.
………………………………………………………………………………….

d, Lễ khai hội / mùng sáu tháng Giêng / lễ mở cửa rừng / dân làng Yến Vĩ và
Phú Yên.
19
………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………….

e, Đông vui nhất / hát chèo đò / sân chùa / sân nhà tổ.
…………………………………………………………………………………
Bài tập 3 Đặt câu với những cụm từ sau

a, Sơn thủy hữu tình
………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………….

b, Mưa thuận gió hòa
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….

c, Mau ăn chóng lớn
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….

d, Ăn ở thuận hòa
………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………….

e, An khang tráng kiện
………………………………………………………………………………

20
………………………………………………………………………………….

Bài tập 4 Đúng  hay Sai 
a, Động Hương Tích to nhưng không rộng. 
b, Ngày 18 tháng 2 âm lịch là ngày giỗ của công chúa Diệu Thiện. 
c, “Nam Thiên đệ nhất động” là năm chữ do Tĩnh Đô Vương cho khắc trên
động Hương Tích.


d, Vua Lê Thánh Tông là người tìm ra động Hương Tích và dựng thảo am
Thiên Trù.

e, Ngày nay, hội chùa Hương khai hội vào ngày Tết thượng nguyên 
g, Lễ hạ cây nêu là nghi lễ của cư dân dân tộc thiểu số miền núi 
h, Sinh hoạt nghệ thuật thu hút đông người tham gia tại lễ hội chùa Hương là
hát chèo đò. 
Bài tập 5 Chọn từ điền thích hợp điền vào chỗ trống
hành hương hồi hương quần thể tập thể
hòa trộn hòa hợp tín ngưỡng tôn giáo
vãn cảnh vãn khách linh thiêng lung linh
a, Lễ khai hội chùa Hương được coi là một nghi lễ ___________ đầu năm
mới đối với mỗi người tham dự.
b, Tháng giêng là tháng của đất trời giao hòa, tháng của lễ hội, tháng của
những cuộc ____________ để lòng được thanh thản, bình an.
c, Trẩy hội lễ Phật và __________ chùa Hương mỗi độ xuân là một nhu cầu
tâm linh thiết yếu và một thú du ngoạn tao nhã của mỗi người dân Việt.
d, Chùa Hương – một điểm du lịch thú vị, nơi ____________ tuyệt vời giữa
cảnh quan hùng vĩ do thiên nhiên tạo ra với bầu không khí Phật giáo đầy
màu sắc huyền thoại.
21
e, Sự kết hợp giữa đạo Phật và ___________ thờ Mẫu ở cõi Phật Hương
Sơn chính là sự giao hòa niềm tin trong tâm hồn người Việt.
g, Thiên Trù là ngôi chùa chính trong ___________ di tích chùa Hương,
được khởi dựng từ thời vua Lê Thánh Tông,với hệ thống các di tích Tam
bảo, Long đao gác chuông, Nam Thiên môn, Nhà bia Dốc Trò, Tổ đường,
Viên Công bảo tháp uy nghiêm, trầm mặc
22
 BÀI 3 
LỄ HỘI CỔ LOA

 Bài đọc
Hàng năm, cứ đến ngày mùng Sáu Tết Nguyên đán, nhân dân tám xã
quanh vùng Cổ Loa (còn gọi là Bát xã Loa Thành) lại nô nức tổ chức lễ hội
Cổ Loa để tưởng nhớ Thục Phán An Dương Vương, vị vua đã có công bảo vệ
đất nước Âu Lạc, chống giặc ngoại xâm. Nhân dân lấy ngày này để mở hội vì
đây là ngày Thục Phán xưng ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là An Dương Vương. Lễ
hội trải rộng trong toàn vùng nhưng tâm điểm vẫn là khu di tích Cổ Loa thuộc
xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội hiện nay.
Đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội (Theo:
wikipedia)
Vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, sau 10 năm lãnh đạo nhân
dân kháng chiến chống quân Tần giành thắng lợi, Thục Phán An Dương
Vương tự xưng vua, đặt tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Để củng cố
và xây dựng đất nước, tăng cường khả năng phòng thủ quân sự, Thục Phán
giao cho tướng Cao Lỗ xây dựng thành Cổ Loa. Tục truyền rằng Thục An
23
Dương Vương xây thành nhiều lần nhưng đều không xây được. Sau có thần
Kim Quy hiện lên, bò đi bò lại nhiều vòng dưới chân thành. Thấy vậy, Thục
An Dương Vương cho xây thành theo dấu chân Rùa vàng thì từ đó thành xây
không đổ nữa. An Dương Vương cũng phát triển thuỷ binh và cho chế tạo
nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế quân sự vững chắc cho kinh thành Cổ Loa.
Sơ đồ Cổ Loa (Theo: wikipedia)
Theo truyền thuyết, thành Cổ Loa được xây dựng kiểu vòng ốc nên
người ta gọi là Loa thành. Tương truyền thành có tới 9 vòng, dưới thành ngoài
là hào sâu ngập nước, thuyền bè có thể đi lại được. Ngày nay ở Cổ Loa chỉ
còn lại 3 vòng thành đất: thành Ngoài (chu vi 8 km), thành Giữa (hình đa
giác, chu vi 6,5 km) và thành Trong (hình chữ nhật, chu vi 1,6 km). Diện tích
trung tâm rộng tới 2 km
2
. Thân thành ngày nay còn có chiều cao trung bình từ

4 - 5 m, có chỗ còn cao tới 12 m, chân thành rộng khoảng 20 - 30 m. Các cửa
của 3 vòng thành cũng được bố trí rất khéo, không nằm cùng trên một trục
thẳng mà lệch chéo đi rất nhiều. Do đó, đường nối hai cửa thành ở cùng một
hướng đều là những đường quanh co, lại có ụ đất phòng ngự ở hai bên nên
gây rất nhiều trở ngại cho quân địch khi tiến đánh thành. Qua tư liệu lịch sử ở
các thời kỳ Cổ Loa có rất nhiều tên: Loa Thành (thành ốc), thành Côn Lôn,
thành Tư Long, Cửu Thành, thành Việt Vương, thành Khả Lũ, Cổ Loa thành.
24
Đến thế kỷ thứ X, thời kỳ Ngô Quyền làm vua, Cổ Loa lại trở thành kinh đô
lần thứ hai. Ngày nay, từ trung tâm thành phố Hà Nội, đi 18 km đến xã Cổ
Loa thuộc huyện Ðông Anh, bạn sẽ tìm thấy vết tích còn lại của ba vòng
thành xưa bằng đất. Nơi đây các nhà khảo cổ tìm thấy được hàng vạn mũi tên
đồng, lưỡi cày, rìu sắt, xương thú vật, tiền đồng, trống đồng, các đồ gốm bằng
đất nung v.v.
Cổ vật tìm thấy tại Cổ Loa (Nguồn: Báo Bưu điện ICTNews)
Năm 1962, Cổ Loa được xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá cấp Nhà
nước. Ở đây có đầy đủ các loại hình di tích: đình, đền, chùa, am, miếu. Từ
ngoài bước vào qua cổng làng, cũng là cổng thành Trong, ta sẽ tới đình làng
Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan
triều hội ngày xưa nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy". Cạnh
đình là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu.
Chuyện nàng công chúa Mỵ Châu gắn liền với truyền thuyết nỏ thần,
câu chuyện tạo nên một phần linh thiêng không thể thiếu khi nhắc đến Cổ
25

×