Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.34 KB, 60 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Xây dựng nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần là con đường tất yếu để Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Từ sau Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý
của Nhà nước nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển ở nước ta rất
phong phú, đa dạng với nhiều loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó do sự tác
động của các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật
cung cầu,... trong nền kinh tế nước ta cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng hay
quan hệ kinh tế vốn không tồn tại trong cơ chế kế hoạch hóa. Một trong những
hiện tượng đó là sự phá sản của các doanh nghiệp.
Khi một doanh nghiệp bị phá sản sẽ kéo theo những hậu quả nhất định
như sự xáo trộn trong nền sản xuất, ảnh hưởng đến công ăn, việc làm của người
lao động, đến lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Do đó, để đảm bảo, duy trì
mối quan hệ hài hòa giữa những lợi ích nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải có một cơ
chế pháp lý thống nhất và chặt chẽ.
Ngay từ khi Đảng và Nhà nước xác định chủ trương xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, đạo luật phá sản đầu tiên
của nước CHXHCN Việt Nam đã được ban hành năm 1993 để đáp ứng nhu cầu
điều chỉnh pháp luật đó. Tuy nhiên, trong 10 năm thực hiện Luật phá sản doanh
nghiệp 1993 (Luật PSDN (1993) đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Luật phá sản
năm 2004 (2004) ra đời tưởng chừng như đã khắc phục được những hạn chế của
Luật PSDN 1993. Thế nhưng, sau hơn 3 năm thi hành, số lượng các vụ việc phá
sản được thụ lý vẩn ở mức rất khiêm tốn: tổng cộng chỉ có gần 60 hồ sơ được
thụ lý ở cả ba khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng. Điều đó
không có nghĩa là môi trường kinh doanh trong nước hết sức lành mạnh mà
phản ánh rằng các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản vẫn chưa tìm
thấy ở pháp luật phá sản hiện hành một cơ sở vững chắc để bảo vệ quyền lợi cho
mình.
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bên cạnh đó, tháng 12 năm 2006 Việt Nam trở thành thành viên của tổ
chức thương mại thế giới WTO, chính thức tham gia vào sân chơi thương mại
mang tính toàn cầu. Sự hội nhập với các nền kinh tế lớn cũng sẽ kéo theo hệ quả
không thể tránh khỏi của quy luật cạnh tranh khắc nghiệt, khi các doanh nghiệp
Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ông Jan Noether, Trưởng đại
diện Phòng thương mại và công nghiệp Đức tại Việt Nam đã phát biểu: “Vào
WTO đồng nghĩa với những vụ phá sản hàng loạt và thất nghiệp trong giai đoạn
đầu”. Điều này cũng có nghĩa là yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền
lợi cho đối tượng này càng trở nên cấp thiết.
Do vậy, nghiên cứu về thủ tục phá sản để làm sáng tỏ quyền và nghĩa vụ
của chủ nợ và con nợ là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để hoàn thiện
pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và môi trường kinh
tế quốc tế.
Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và
con nợ trong thủ tục phá sản” làm Luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn được kết cấu gồm ba chương không kể lời nói đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.
Chương I: Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản.
Chương II: Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản.
Chương III: Thực trạng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật phá sản.
Với trình độ còn nhiều hạn chế cũng như kinh nghiệm nghiên cứu chưa
nhiều cho nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và tất cả các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN

1.1. Quan niệm về phá sản
1.1.1. Quan niệm về phá sản theo pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới
Danh từ phá sản được bắt nguồn từ chữ "Ruin" trong tiếng Latinh có
nghĩa là "sự kháng tận". Khái niệm này dùng để chỉ sự mất cân đối giữa thu và
chi của một doanh nghiệp. Ở Châu Âu khi nói đến phá sản người ta thường dùng
danh từ "Bankrupcy" trong tiếng Anh hoặc "Banqueroute" trong tiếng Pháp. Cả
hai danh từ này đều bắt nguồn từ chữ "Bancanetta" của Lamã, có nghĩa là "chiếc
ghế bị gãy". Ở thời Lamã các thương gia ở thành phố thường họp nhau lại để
xem xét việc làm ăn và công nợ. Người nào mất khả năng thanh toán công nợ sẽ
bị mất quyền tham gia đại hội thương gia và ghế của họ cũng bị đem ra khỏi hội
trường.
Theo Luật phá sản nhiều nước trên thế giới thì phá sản là tình trạng một
doanh nghiệp không có khả năng nộp thuế, không có khả năng thanh toán công
nợ trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên việc quan niệm thế nào là mất khả
năng thanh toán nợ ở các quốc gia khác nhau cũng rất khác nhau. Có nhiều nước
quy định rõ chỉ số nợ đến hạn chưa được thanh toán để xác định doanh nghiệp
đã lâm vào tình trạng phá sản nhưng ở đại đa số nước thì vấn đề định lượng
khoản nợ như vậy thường không được đặt ra.
* Luật phá sản Hungari ban hành năm 1991 quy định nếu doanh nghiệp bị
rơi vào một trong các trường hợp sau đây đều bị xếp vào loại không có khả năng
thanh toán.
+ Sau 60 ngày không trả được lương cho cán bộ công nhân viên của mình
hoặc quá hạn 30 ngày không trả được nợ cho các chủ nợ mà con nợ không thảo
luận với các chủ nợ hoặc thấy trước khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn
trong vòng một năm.
+ Đã có lệnh buộc phải trả nợ nay hết hạn nhưng vẫn chưa trả được nợ.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Không thực hiện đúng cam kết với các chủ nợ trước pháp luật.

* Luật phá sản của Singapo ban hành năm 1985 thì các con nợ bị rơi vào
một trong các tình trạng sau thì đều bị coi là phá sản.
+ Nếu con nợ cố ý gian lận để chuyển giao, chuyển nhượng, biếu xén hay
tẩu tán một phần hay toàn bộ tài sản của mình ở Singapore hoặc ở nước khác.
+ Nếu bị tuyên bố phá sản mà con nợ chuyển giao hay chuyển nhượng
một phần hay toàn bộ tài sản của mình ở Singapore hay ở nước ngoài cho người
khác hay cố tạo các khoản chi phí mà pháp luật hiện hành coi là giả mạo không
hợp pháp.
+ Nếu con nợ bị tòa án quận huyện hay cấp trên xử phạt bằng cách tịch
thu tài sản và chịu án phí 500 đô la (tiền Singapore).
+ Nếu con nợ báo tin cho chủ nợ rằng anh ta hủy bỏ hoặc trì hoãn công nợ.
+ Nếu con nợ điều đình xin khất nợ với hai chủ nợ trở lên hoặc đưa ra kế
hoạch trả nợ nhưng trong vòng 14 ngày sau khi cam kết trả nợ, kế hoạch ấy vẫn
chưa được đăng ký trước Tòa án đúng như chế độ thanh toán công nợ hiện hành.
+ Nếu chánh án hay nhân viên Tòa án cấp quận huyện tiến hành kiểm kê
tài sản thấy rằng con nợ không còn tài sản để tịch thu. Và như vậy ngày Tòa án
hết lệnh kiểm kê được coi là ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Nếu trước Tòa án con nợ xin phá sản hoặc tuyên bố phá sản.
* Luật phá sản Australia đưa ra một số căn cứ để dựa vào đó quyết định
tuyên bố phá sản.
+ Khi số tiền mặt của doanh nghiệp cộng với giá trị tài sản không thuộc
loại có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp và khả năng dễ chuyển nhượng
mà nhỏ hơn tổng số nợ không có bảo đảm thì coi như doanh nghiệp đã lâm vào
tình trạng phá sản.
+ Khi nhận giấy đòi nợ với số lượng lớn mà con nợ không đưa ra được
bằng chứng nào trước tòa về khả năng thanh toán món nợ. Do chính luật sư của
doanh nghiệp mắc nợ đưa ra rằng doanh nghiệp không có khả năng thanh toán
nợ đến hạn. Nếu chủ doanh nghiệp không đưa ra sự phản đối có cơ sở thuyết
phục.
4

Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Khi thẩm phán có thông tin cho rằng nhiều séc của doanh nghiệp bị
Ngân hàng từ chối thanh toán. Trong trường hợp này nếu muốn Toà án không ra
quyết định tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp phải chứng minh trước Tòa là séc
này có thể thanh toán được.
+ Khi doanh nghiệp đang khó khăn về tài chính mà tất cả các chủ nợ có
bảo đảm lại đòi đối xử với các vật bảo đảm, thẩm phán có thể ra quyết định phá
sản với doanh nghiệp nào là vì có thể rõ ràng suy đoán rằng do không trả được
nợ nên các chủ nợ mới tước đi các vật cầm cố, thế chấp.
+ Khi một doanh nghiệp không thực hiện được yêu cầu của thẩm phán về
việc thanh toán một món nợ nào đó theo thủ tục pháp lý thông thường, tức là khi
còn nợ người khác mà có lệnh trả nợ của thẩm phán mà con nợ vẫn không thi
hành đó chính là dấu hiệu mất khả năng thanh toán.
* Luật phá sản Bỉ quy định một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
là doanh nghiệp không trả được nợ đến hạn, bị mất uy tín về tài chính, tức là
không còn đủ tài sản để đảm bảo các số nợ của mình hoặc kiếm cách trả nợ bằng
phương pháp bất thường. Đối với cá nhân thì luật không phân biệt.
* Luật không có khả năng thanh toán và luật treo giò giám đốc của Anh
ban hành năm 1986 thì các doanh nghiệp có giá trị tài sản thấp hơn số nợ phải
trả (hiện tại và tương lai) đều bị xếp vào loại không có khả năng thanh toán.
Nhưng ở Anh không có khả năng thanh toán không có nghĩa là doanh nghiệp bị
xếp vào loại phá sản, mà ở nước này còn dành một thời gian để khôi phục doanh
nghiệp, sau thời gian này nếu doanh nghiệp không trở lại hoạt động bình thường
được và không trả được nợ thì sẽ bị tuyên bố phá sản.
1.1.2. Quan niệm về phá sản theo pháp luật Việt Nam
Ở nước ta, khái niệm phá sản mới xuất hiện sau thời kỳ đổi mới cơ chế
kinh tế. Văn bản pháp lý đầu tiên liên quan đến giải quyết tình trạng doanh
nghiệp thua lỗ không có khả năng thanh toán đó là Quyết định số 315 HĐBT
ngày 01/09/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Tại khoản 4 Điều 3 của quyết định số
315 HĐBT ngày 01/09/1990 quy định: “Đối với các đơn vị kinh doanh thua lỗ

kéo dài nhiều năm thì bộ và địa phương phải lập danh sách đầy đủ, tiến hành
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phân loại theo mức độ quan trọng của các sản phẩm và dịch vụ do đơn vị tạo ra
và theo mức độ kém hiệu quả của các đơn vị. Từ đó tìm biện pháp để hỗ trợ cho
đơn vị hoạt động sáp nhập vào xí nghiệp khác hoặc chuyển thành các tổ chức
kinh tế tập thể. Nếu đã thực hiện các biện pháp chấn chỉnh trên mà vẫn không có
hiệu quả tiếp tục thua lỗ không có khả năng trả nợ thì cho phép giải thể . . ."
Như vậy Quyết đính số 315 HĐBT 01/09/1990 đã đề cập đến những doanh
nghiệp kinh doanh thua lỗ không có khả năng thanh toán (bản chất là phá sản). Tuy
nhiên những doanh nghiệp thuộc diện này theo Quyết định số 315 HĐBT chỉ cho
phép giải thể. Khái niệm phá sản lúc này vẫn chưa được đặt ra.
Đến luật doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty được Quốc hội thông qua
ngày 21/12/1990 thì khái niệm phá sản mới chính thức được đề cập tới. Theo
tinh thần quy định tại Điều 24 luật Công ty ngày 21/12/1990 và Điều 17 Luật
doanh nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990 thì khi doanh nghiệp tư nhân hoặc Công
ty (gọi chung là doanh nghiệp) gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động
kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng số giá trì các tài sản còn lại của
doanh nghiệp không đủ thanh toán các khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản.
Quan niệm về doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như cách tiếp cận
của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty đã không đảm bảo được sự bao
quát cần thiết. Thực tiễn phá sản ở các nước trên thế giới cho thấy có thể một
doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó giá trị tổng số còn lại của doanh nghiệp nhỏ
hơn tổng số nợ đến hạn nhưng chưa chắc đã đưa doanh nghiệp đó đến tình trạng
phá sản, nếu như nợ đến hạn doanh nghiệp đó vẫn thanh toán được đều đặn (tức là
không có dấu hiệu ngừng thanh toán nợ). Ngược lại sẽ có không ít những doanh
nghiệp tài sản lớn hơn và thậm chí lớn hơn rất nhiều so với nợ đến hạn nhưng vẫn
bị Toà án tuyên bố phá sản nếu như các khoản nợ đó doanh nghiệp không có khả
năng thanh toán (ngừng thanh toán).

Trong quá trình nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện nhận thức về phá sản
doanh nghiệp, khắc phục hạn chế này của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật
Công ty, Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993 quy định: “doanh
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ
trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết
mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Theo quy định này thì dấu hiệu
"mất khả năng thanh toán nợ đến hạn" là dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất để xác
định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, còn dấu hiệu “đã áp dụng các
biện pháp tài chính cần thiết” chỉ là những dấu hiệu bổ sung cho việc xác định
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Các dấu hiệu xác định doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản đã được quy định chi tiết tại Điều 3 của Nghị định số
189 CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ. Cụ thể:
(1) Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nói
tại Điều 2 của Luật phá sản doanh nghiệp, nếu kinh doanh bị thua lỗ trong 2 năm
liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, trong 3 tháng liên tiếp
không trả đủ lương cho người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp
đồng lao động.
(2) Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản như trên, doanh
nghiệp phải áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết để khắc phục tình trạng
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn như: Có phương án tổ chức lại sản xuất
kinh doanh, quản lí chặt chẽ các khoản chi phí, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm;
có biện pháp xử lí hàng hóa, sản phẩm, vật tư tồn đọng; thu hồi các khoản nợ và
tài sản bị chiếm dụng; thương lượng với các chủ nợ để hoãn, mua, bảo lãnh,
giảm và xóa nợ; tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay để trang trải các
khoản nợ đến hạn và đầu tư đổi mới công nghệ.
(3) Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết trên đây mà
doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn, không khắc phục được tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn thì doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản và phải xử

lí theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp.
Như vậy, theo Luật PSDN, chỉ có thể áp dụng thủ tục phá sản đối với một
doanh nghiệp khi đã lâm vào tình trạng phá sản, tức là phải có đầy đủ 3 điều
kiện trên.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có thể nhận thấy rằng Luật PSDN và Nghị định số 189/CP (1994) đã có
những quy định khá chặt chẽ về điều kiện để xác định doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản. Tuy nhiên, với những quy định chặt chẽ như vậy, pháp luật
phá sản đã đi theo hướng thủ tục phá sản được áp dụng là để xử lý tài sản của
con nợ hơn là để phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Bởi vì, trên
thực tế, chờ cho đến lúc hội đủ các điều kiện trên mới mở thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp sẽ không có một khả năng tài chính nào
để khôi phục lại doanh nghiệp của mình và lúc đó nếu mở thủ tục phá sản cũng
chỉ để thanh lý, chứ không phải để khôi phục doanh nghiệp. Như vậy, một mục
đích quan trọng của việc ban hành Luật PSDN (tạo điều kiện cho doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản khôi phục hoạt động kinh doanh, nhằm trở lại thương
trường) đã không đạt được.
Nhằm khắc phục hạn chế này, Luật phá sản năm 2004 quy định theo
hướng đơn giản hóa tiêu chí xác định tình trạng phá sản, tôn trọng quyền thỏa
thuận so với Luật phá sản năm 1993
1
, theo Điều 3 thì “doanh nghiệp, hợp tác xã
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ khi chủ nợ yêu cầu thì coi là
lâm vào tình trạng phá sản”. Như vậy, tiêu chí này đã được quy định đơn giản
hơn trước, dễ thực hiện vì không căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên nhân của
tình trạng thua lỗ, tạo điều kiện cho việc sớm mở thủ tục phá sản, cũng như tạo
khả năng phục hồi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp
tác xã, điều đó có ý nghĩa quan trọng, bởi nếu xác định tình trạng này muộn sẽ
có rất ít cơ hội thành công, cho dù đó là thủ tục thanh toán hay là tình trạng phục

hồi.
Qua khái niệm trên ta thấy dấu hiệu để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã
(DN, HTX) lâm vào tình trạng phá sản là DN, HTX đó không có khả năng thanh
toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu và như quy định tại Mục
2 – Chương I – Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/04/2005 thì việc
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ đã có yêu
cầu thanh toán được hiểu cụ thể như sau:
1
Theo Tô Nguyễn Cẩm Anh, tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 2005 (Số 6/2005), tr33.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Có các khoản nợ đến hạn:
Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có
bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm) đã rõ ràng được các bên
xác nhận, có đầy đủ giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp.
- Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không
có khả năng thanh toán.
Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ
chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh nghiệp, hợp tác
xã thanh toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh
nghiệp, hợp tác xã. . .)
Nghiên cứu dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, về phương
diện lí luận cũng như thực tiễn cần xem xét một số khía cạnh cụ thể sau:
Thứ nhất, mất khả năng thanh toán không có nghĩa là DN, HTX hoàn toàn
cạn kiệt tài sản. Doanh nghiệp có thể còn rất nhiều tài sản mà vẫn mất khả năng
thanh toán, chỉ vì tài sản đó không thể bán được, cho nên doanh nghiệp không
có tiền để thanh toán các khoản nợ.
Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh nghiệp
không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào tình
trạng tài chính tuyệt vọng, trừ phi có sự can thiệp của tòa án hoặc sự giúp đỡ của

các chủ nợ.
Thứ ba, đối với doanh nghiệp tư nhân, nếu trong hoạt động sản xuất kinh
doanh có giao kết bất kì hợp đồng nào mà sau đó phát sinh ra các khoản nợ thì
các khoản nợ này được coi là cơ sở để đánh giá tình trạng phá sản của doanh
nghiệp. Nhưng ở đây cũng cần phân biệt với các khoản nợ cho do chủ doanh
nghiệp tư nhân xác lập trên cơ sở những hợp đồng phục vụ cho sinh hoạt cá
nhân hoặc gia đình họ vì nó không xuất phát từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, pháp luật không nhất thiết quy định cụ thể mất khả năng thanh
toán một khoản nợ bao nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản, bởi vì tình
hình tài chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau, có thể có những doanh
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp nợ vài ba chục triệu nhưng không có cách gì để trả, trong lúc có những
doanh nghiệp nợ tới vài ba trăm triệu vẫn có khả năng thanh toán bình thường.
Thứ năm, bản chất của việc mất khả năng thanh toán có thể không trùng
với biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không. Trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, nhiều doanh nghiệp không trả được nợ nhưng điều này chỉ có tính chất
nhất thời trong khi mọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn diễn ra bình thường.
Ngược lại, có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là trá hình, che đậy tình trạng tài
chính tuyệt vọng của doanh nghiệp, họ phải sử dụng nhiều phương tiện gian trá
để bù đắp ngân quỹ như vay nặng lãi, thế chấp tài sản nhiều lần để vay vốn ngân
hàng . . .
2
Do đó, về cơ bản khi con nợ ngừng trả nợ thì coi như đã lâm vào tình
trạng phá sản và lúc đó, các chủ nợ đã có cơ sở pháp lí để làm đơn yêu cầu Toà
án thụ lý và giải quyết vụ việc phá sản mà họ là nguyên đơn.
Tóm lại, theo quy định của pháp luật Việt Nam, phá sản là khái niệm
dùng để chỉ doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với dấu hiệu đặc trưng
nhất là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản chưa hẳn đã bị phá sản. DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản

chỉ được coi là bị phá sản khi đã tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản.
1.2. Sự tác động của phá sản và vai trò của pháp luật phá sản trong nền
kinh tế thị trường
1.2.1. Sự tác động của phá sản trong nền kinh tế thị trường
Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường nó là hiện
tượng thường kéo theo những hiệu quả kinh tế xã hội nhất định nó tác động đến
nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội và pháp luật.
1.2.1.1 Về mặt tiêu cực
Phá sản thường gây ra những xáo trộn ảnh hưởng đến việc phát triển sản
xuất ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động.
Nhìn nhận một cách tổng quát từ các nước có nền kinh tế phát triển đến
các nước chậm phát triển thì vấn đề nạn thất nghiệp của người lao động là một
2
Giáo trình Luật Thương Mại, trường Đại học Luật Hà Nội.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vấn đề nổi cộm, rất nhiều quốc gia tìm cách hạn chế khắc phục nó, nhưng nhìn
chung vấn đề này là một vấn đề khó giải quyết. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
thất nghiệp nhưng có lẽ phá sản là nguyên nhân không nhỏ dẫn tới đội quân thất
nghiệp ngày càng kéo dài thêm mãi gây biết bao hậu quả không lường cho xã
hội. Đối với bản thân người lao động, phá sản doanh nghiệp làm cho họ mất việc
làm, mất thu nhập, phá sản ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, đến miếng cơm
manh áo của chính bản thân họ và gia đình họ. Vì vậy, để khắc phục tình trạng
này nhiều quốc gia đã có những biện pháp tích cực để hạn chế những ảnh hưởng
xấu của phá sản doanh nghiệp đến đời sống người lao động như bồi thường thiệt
hại cho người thất nghiệp, trả lương bảo hiểm, đào tạo họ để có thể đảm đương
một công việc khác.
Bên cạnh những tác động tiêu cực trên ta còn thấy phá sản có nhiều tác
động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế. Mỗi doanh nghiệp khi bị phá sản thì
doanh nghiệp khác là bạn hàng của doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng theo kiểu

dây chuyền người không bán được hàng kẻ không cung cấp được sản phẩm của
mình (nếu doanh nghiệp bị phá sản trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc
không có nguyên vật liệu cho sản xuất (nếu doanh nghiệp phá sản bán nguyên
vật liệu cho họ), mặt khác chủ nợ của doanh nghiệp sẽ không đòi được nợ dẫn
tới không có vốn đầu tư vào sản xuất hoặc trang trải các khoản nợ mà họ vay các
chủ nợ khác. Đặc biệt, trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản là những
doanh nghiệp lớn thì ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế là rất tồi tệ. Xét
trường hợp nếu các ngân hàng hoặc công ty tài chính lớn bị phá sản thì lẽ tất
nhiên ảnh hưởng của nó là không thể lường trước được. Vì trong hệ thống ngân
hàng nếu một ngân hàng lớn bị phá sản đương nhiên những ngân hàng khác bị
ảnh hưởng theo dẫn tới tình hình sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng theo. Có thể
nói rằng, một doanh nghiệp bị phá sản sẽ là nguy cơ tiềm tàng đối với một
doanh nghiệp .
1.2.1.2. Về mặt tích cực
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chúng ta có thể khẳng định rằng, phá sản không chỉ có những ảnh hưởng
tiêu cực mà nó còn có những ảnh hưởng tích cực đến nhiều mặt đời sống kinh tế
xã hội.
Xét về mặt kinh tế thì phá sản là một giải pháp hữu hiệu để “cơ cấu lại”
nền kinh tế, có thể ví phá sản như vườn dọn sạch cỏ dại để cây trồng phát triển,
phá sản góp phần hình thành duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức
đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng nghiệt ngã. Phá sản giữ một vai
trò đặc biệt quan trọng để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả,
kinh nghiệm quản lý tồi ra khỏi nền kinh tế, giữ lại những doanh nghiệp mà ở
chúng sức cạnh tranh tốt hơn, làm ăn có lãi hơn. Thực tế đã chứng minh rằng
trong nền kinh tế thị trường chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả,
sự cạnh tranh bao giờ cũng mang lại kết cục nghiệt ngã nhưng nó lại là quy luật
muôn thủa của nền kinh tế thị trường nơi mà ở đó lợi nhuận là trung tâm cạnh
tranh là động lực.

Bên cạnh những ảnh hưởng đã trình bày ở trên phá sản còn tác động đến
nhiều ngành luật như Dân luật, Hình luật... bởi vì khi tiến hành giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau, nhiều các quan
hệ xã hội khác nhau mà chúng là đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật
khác nhau. Chẳng hạn như khi các doanh nghiệp bị phá sản thường Tòa án xét
xử các vụ tranh chấp về công nợ giữa chủ nợ và con nợ nếu chúng không thỏa
thuận được với nhau và như vậy phá sản liên quan đến Dân luật, hoặc trong
trường hợp con nợ cố tình gian lận trong phá sản phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định khoản 3 Điều 8 Luật phá sản (2004), trong quá trình tiến hành
thủ tục phá sản nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm phán cung cấp tài
liệu cho Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cùng cấp để xem xét khởi tố về hình
sự, ở đây rõ ràng phá sản đã liên quan đến Hình luật...
Tóm lại, phá sản là một hiện tượng phức tạp nhiều khi nó làm ảnh hưởng
lớn đến nền chính trị như vụ phá sản của tập đoàn viễn thông Worldcom năm
2005 vừa qua. Tuy nhiên, trong từng lĩnh vực riêng phá sản cũng giải quyết
được một số vấn đề lớn về kinh tế và xã hội, đó cũng là một giải pháp hữu ích để
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng nặng về cả vật chất lẫn tinh thần, tránh
tình trạng gây sức ép cho các con nợ. Trong nền kinh tế thị trường cần phải xem
xét phá sản là hiện tượng lành mạnh tất yếu, nó là một sản phẩm của nền kinh tế
thị trường và nền kinh tế này chấp nhận nó là một lẽ đương nhiên.
1.2.2. Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường yếu tố cạnh tranh là sự sống còn và thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó nền kinh tế thị trường đã để lại đằng sau
những hậu quả ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế - chính trị xã hội, một trong
những vấn đề đó liên quan đến hiện tượng phá sản. Vì vậy pháp luật phá sản có
vai trò hết sức quan trọng, không những bảo vệ lợi ích chính đáng của những
chủ thể tham gia quan hệ phá sản mà còn góp phần tăng cường ổn định trật tự xã
hội thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

1.2.2.1. Vai trò bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ nợ
Khi mới hình thành, Luật phá sản chủ yếu được áp dụng cho các thương
gia nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Ví dụ: Luật phá sản đầu tiên của nước
Anh đã quy định nhiều biện pháp rất nghiêm ngặt, kể cả bỏ tù con nợ.
Đồng thời với quá trình dân chủ hóa các hoạt động kinh tế, nhất là xu thế
mở rộng quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, pháp luật về phá sản ngày
càng có xu hướng nhân đạo hóa các biện pháp áp dụng đối với chủ doanh nghiệp
bị phá sản, phát triển các quy định nhằm bảo vệ lợi ích của các con nợ. Tuy
nhiên lợi ích của các chủ nợ vẫn là mục tiêu bảo vệ hàng đầu.
Sự bảo vệ của pháp luật về phá sản đối với các chủ nợ thể hiện ở chỗ:
pháp luật cho phép các chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã - Khoản 1 – Điều 13 Luật phá sản (2004); chủ nợ có
quyền tham gia giải quyết những vấn đề quan trọng của doanh nghiệp mà liên
quan đến lợi ích của mình trong quá trình giải quyết việc phá sản. Chẳng hạn, lợi
ích của chủ nợ được bảo đảm bằng việc pháp luật cho phép tất cả các chủ nợ đều
được tham gia vào hội nghị chủ nợ, được cử đại diện của mình tham gia vào tổ
quản lí, thanh lí tài sản - Điều 9, Điều 62 – Luật phá sản (2004). Hơn nữa, trong
quá trình giải quyết, pháp luật phá sản còn đưa ra các cơ chế cho phép các chủ
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nợ có khả năng bảo vệ tối đa lợi ích của mình như: kiểm tra, giám sát các hoạt
động kinh doanh, hành vi của con nợ (Điều 63) , tham gia giải quyết những vấn
đề liên quan trực tiếp tới quyền lợi của mình, khiếu nại các quyết định của Toà
án . . . tất cả nhằm mục đích bảo vệ tối đa hoá khă năng thu hồi nợ.
Ngoài ra, vai trò của Luật phá sản trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ (ở chừng mực nhất định còn nhằm bảo vệ quyền lợi ích của
người lao động) qua quy định tại Điều 31 – Luật phá sản (2004) : kể từ ngày
nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm doanh nghiệp, hợp tác xã
cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo đảm; từ bỏ hoặc giảm bớt
quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm

bằng tài sản của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sau khi nhận được quyết định mở
thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã phải được sự đồng ý bằng văn bản của
Thẩm phán trước khi thực hiện những họat động sau: cầm cố, thế chấp, chuyển
nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển
nhượng; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; vay tiền; bán, chuyển đổi
cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; thanh toán các khoản nợ mới phát
sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho
người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.
Để bảo vệ tuyệt đối quyền lợi cho các chủ nợ, Luật phá sản còn cho phép
chủ nợ có bảo đảm còn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao dịch của DN,
HTX quy định tại khoản 1 – Điều 43 của Luật phá sản (2004) vô hiệu. Khi các
giao dịch này được tuyên bố vô hiệu thì những tài sản thu hồi được phải nhập
vào khối tài sản của DN, HTX. Thêm vào đó, trong quá trình tiến hành thủ tục
phá sản nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang
được thực hiện hoặc chưa được thực hiện sẽ có lợi hơn cho DN, HTX thì chủ nợ
cũng có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Pháp luật đã thiết kế sẵn một thủ tục pháp lí đảm bảo sự bình đẳng quyền
lợi giữa các chủ nợ, không cho phép chủ nợ nào được tự ý xé lẻ đi kiện riêng
con nợ để đòi nợ, không một chủ nợ nào được con nợ ưu tiên trả nợ trong khi
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các chủ nợ khác chưa được trả (trừ chủ nợ có đảm bảo đặc biệt cho món nợ của
mình, chủ nợ có tài sản cầm cố, thế chấp)
1.2.2.2. Vai trò bảo đảm lợi ích của con nợ
Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh, không một nhà kinh doanh nào
lại không muốn làm ăn có hiệu quả, thu lợi nhuận cao. Nhưng có thể là vì lý do
nào đó, như sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý, thiếu khả năng thích ứng
với những biến động về thị trường, vi phạm những chế độ, thể chế quản lý kinh
tế, tài chính . . . nên doanh nghiệp không thể cạnh tranh nổi với các doanh
nghiệp khác, đi đến lâm vào tình trạng phá sản. Vì vậy, pháp luật cũng có những

quy định để bảo vệ lợi ích chính đáng của con nợ.
Pháp luật phá sản hướng tới bảo vệ lợi ích của con nợ như: giảm bớt gánh
nặng tài chính (bằng việc ấn định thời điểm ngừng trả nợ, tạo điều kiện cho con
nợ thương lượng với chủ nợ để xoá nợ, giảm nợ, mua nợ . . .), hạn chế những
hành vi pháp lý chống lại con nợ từ phía các chủ nợ, buộc các chủ nợ vào một
khuôn khổ chung trong quá trình đòi nợ. Con nợ được tạo cơ chế khôi phục
được, pháp luật phá sản còn đưa ra cơ chế giúp cho việc thanh lý tài sản của con
nợ được nhanh nhất và giải phóng con nợ khỏi trách nhiệm thanh toán đối với
các chủ nợ.
Ngoài ra, Luật phá sản còn có quy định đến việc xử lý các khoản nợ chưa
đến hạn của con nợ. Đó là, trong trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ
tục thanh lý đối với DN, HTX thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở
thủ tục thanh lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính
lãi đối với thời gian chưa đến hạn.
1.2.2.3. Vai trò bảo vệ lợi ích của người lao động trong Luật phá sản
Phá sản không những gây ảnh hưởng xấu cho chủ nợ, cho doanh nghiệp
mà còn làm ảnh hưởng trực tiếp tới người lao động trong doanh nghiệp, họ sẽ
không có việc làm để đảm bảo cuộc sống. Có thể nói rằng người lao động là chủ
nợ nghèo nhất của doanh nghiệp mắc nợ và là chủ nợ không có bảo đảm. Vì vậy,
pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích cho người lao động.
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo quy đinh của hầu hết các nước trên thế giới, trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, người lao động có quyền cử đại
diện tham gia để bảo vệ lợi ích của mình, tiền lương và các khoản lợi ích chính
đáng khác của họ bao giờ cũng thuộc diện ưu tiên trong thứ tự phân chia tài sản
của doanh nghiệp và những người lao động trong doanh nghiệp bị phá sản
thường được tạo cơ hội tìm việc làm mới.
Theo Điều 14 – Luật phá sản (2004) quy định: "trong trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động

và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì người lao
động cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó". Trong trường hợp này
người lao động sẽ được miễn phí phá sản (Khoản 2 – Điều 21).
Pháp luật phá sản bảo vệ lợi ích của người lao động còn được thể hiện đặc
biệt trong việc phân chia tài sản thì người lao động được ưu tiên thanh toán
trước chỉ sau phí phá sản (Điều 37). Như vậy, pháp luật về phá sản xác định cơ
sở pháp lý cho việc bảo vệ lợi ích hợp pháp và hạn chế thiệt thòi vật chất mà sự
phá sản đem lại cho người lao động.
Ngoài ra, vai trò của Luật phá sản hiện hành ngày nay còn thể hiện rõ nét
qua giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh (thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh) nhằm cứu giúp con nợ vượt ra khỏi tình trạng phá sản. Nếu DN, HTX
thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thì Thẩm phán sẽ đình
chỉ thủ tục phục hồi họat động kinh doanh và khi đó DN, HTX đó được coi
không còn lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp này Luật phá sản cùng
lúc bảo vệ được ba mục tiêu: bảo vệ quyền lợi ích của các chủ nợ (các chủ nợ sẽ
được thanh toán hết nợ); bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp mắc nợ (doanh nghiệp
không bị đào thải khỏi nền kinh tế thị trường); bảo vệ quyền lợi người lao động
(người lao động không bị mất công ăn, việc làm).
1.2.2.4. Pháp luật còn góp phần bảo vệ kỷ cương xã hội
Khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản, trước những nguy cơ có thể mất
nhiều khoản tín dụng của mình, các chủ nợ có động lực mong muốn thúc đẩy
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thực hiện những hành vi chống lại con nợ. Những hành vi đó có thể là hợp pháp
và cũng có thể là bất hợp pháp. Nếu không có sự can thiệp của pháp luật hoặc sự
can thiệp không hiệu quả thì những hành vi bất hợp pháp của các chủ nợ rất dễ
xảy ra, gây nên tình trạng lộn xộn trong đời sống xã hội. Do vậy, pháp luật về
phá sản quy định cách mà mỗi nhóm chủ nợ khi được bồi thường không làm hại
đến những nhóm chủ nợ khác tạo nên một sự công bằng cần thiết trong việc

thanh toán cho các chủ nợ, cũng có nghĩa là các bên được đưa vào một khuôn
khổ chung mà trong đó lợi ích của các bên đều được xem xét một cách công
bằng và minh bạch.
Bằng việc giải quyết thoả đáng mối quan hệ về lợi ích giữa chủ nợ và con
nợ cũng như giữa các chủ nợ với nhau, pháp luật về phá sản đã góp phần hạn
chế những mâu thuẫn, những căng thẳng có thể có giữa họ, nhờ đó góp phần bảo
đảm được trật tự, kỉ cương trong xã hội.
1.2.2.5. Luật phá sản góp phần tổ chức lại cơ cấu lại nền kinh tế
Phá sản để lại nhiều tiêu cực cho nền kinh tế. Nhưng không thể phủ nhận
một điều rằng phá sản đã góp phần tích cực vào việc tổ chức cơ cấu lại nền kinh
tế nhằm loại bỏ khỏi nền kinh tế những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Đồng thời Luật phá sản là biện pháp cưỡng chế buộc các nhà kinh doanh luôn
luôn phải năng động, sáng tạo nhưng không được mạo hiểm và liều lĩnh. Luật
phá sản là cơ sở pháp lý để tạo nên môi trường lành mạnh cho các nhà kinh
doanh.
Tóm lại: Pháp luật phá sản có ý nghĩa rất to lớn trong nền kinh tế thị
trường nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung, là cơ sở pháp lý để các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật phá sản áp dụng một cách thống nhất góp phần lập
lại kỷ cương và trật tự xã hội.
Luật phá sản đã xử lý kịp thời những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả
lâm vào tình trạng phá sản. Đồng thời bảo vệ được lợi ích chính của chủ nợ
trong việc đòi nợ, bảo vệ chủ doanh nghiệp mắc nợ (con nợ) bảo vệ lợi ích chính
đáng của người lao động. Hơn thế nữa Luật phá sản đã góp phần bảo vệ trật tự
kỷ cương xã hội. Với ý nghĩa đó Luật phá sản là công cụ quan trọng của Nhà
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước trong nền kinh tế thị trường góp phần ổn định đời sống kinh tế chính trị
của đất nước.
1.3. Các cơ quan tham gia quá trình giải quyết phá sản.
1.3.1. Vai trò trung tâm của Tòa án nhân dân (TAND) trong việc giải

quyết phá sản
Pháp luật của hầu hết các nước đều trao cho Tòa án có thẩm quyền tuyên
bố phá sản, song vai trò cụ thể của cơ quan này trong quá trình giải quyết việc
phá sản ở các nước khác nhau là không giống nhau,
Bởi vì phá sản là hiện tượng gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt và
cho nhiều người, do đó cơ quan nào có quyền tuyên bố phá sản là vấn đề được
pháp luật nhiều nước quan tâm.
Theo quy định của Điều 7 Luật phá sản (2004), thẩm quyền giải quyết phá
sản được phân cấp cho Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh
căn cứ vào việc cơ quan cấp nào (tỉnh hay huyện) đã cấp giấy chứng nhận đăng
kí kinh doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã cụ thể đó.
Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết phá sản đối với các hợp tác xã đăng
kí kinh doanh tại cơ quan cấp huyện đó.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh cụ thể là Tòa kinh tế giải quyết phá sản đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng kí kinh doanh tại cơ quan đăng kí kinh doanh
cấp tỉnh đó.
Tùy vào tính chất của việc phá sản, quy mô của hợp tác xã, TAND tỉnh sẽ
lấy lên để tiến hành thủ tục giải quyết phá sản đối với hợp tác xã thuộc thẩm
quyền của TAND cấp huyện. Việc giải quyết phá sản tại Tòa án cấp huyện do
một Thẩm phán phụ trách, tại Tòa án cấp tỉnh do một hoặc ba Thẩm phán phụ
trách. Do đó, nếu như Luật PSDN (1993) quy định việc giải quyết phá sản tập
trung tại TAND tỉnh thì Luật phá sản (2004) đã mở rộng thẩm quyền giải quyết
phá sản cho Tòa án huyện, điều này có thể được lý giải bởi sự không ngừng
nâng cao về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán.
Quy định như vậy là phù hợp với tính chất và hoạt động của Tòa án các
cấp theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ chính trị, theo đó tăng thẩm
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quyền cho Tòa án cấp huyện, TAND tối cao chủ yếu thực hiện việc xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án

nhân dân cấp dưới bị kháng nghị, tập trung vào việc tổng kết thực tiễn, hướng
dẫn việc xét xử của Tòa án các cấp . . .
3
.
Có thể thấy, phá sản về bản chất là một hiện tượng kinh tế, song do tính chất
phức tạp của nó mà Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới đều giao
thẩm quyền giải quyết cho hệ thống Tòa án, Tòa án là nhân vật trung tâm, giữ vị
trí quyết định đối với việc giải quyết một vụ phá sản, vì trong quá trình giải quyết
một vụ phá sản thường liên quan đến lợi ích của các bên khác nhau mà Tòa án là cơ
quan độc lập, có tính chất khách quan, nguyên tắc "Tòa án xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật" đã trở thành nguyên tắc hiến định.
Tham gia vào quá trình giải quyết phá sản DN, HTX, Tòa án có vị trí
trung tâm, có vai trò chủ đạo và là người trực tiếp giải quyết loại công việc này
của xã hội. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản được mở đầu bằng việc
Tòa án nhận, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; Toà án quyết định việc mở
hay không mở thủ tục phá sản. Vai trò của Tòa án không chỉ dừng lại ở việc
quyết định những vấn đề thuộc về tố tụng phá sản mà nó còn can thiệp vào cả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tòa án giám sát hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết phá sản, quyết định
việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo đảm tài sản của doanh
nghiệp.
Khi tiến hành giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản DN, HTX. Tòa án
cùng với các bên phải phân tích, đánh giá khả năng phục hồi của doanh nghiệp
để trên cơ sở đó mà ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hay thủ tục thanh lý
đối với doanh nghiệp. Thủ tục phục hồi chỉ được tiến hành khi có yêu cầu của
chủ nợ hoặc doanh nghiệp mắc nợ. Đối với những doanh nghiệp mắc nợ mà rõ
ràng là không thể phục hồi được khả năng thanh toán thì pháp luật cho phép Tòa
án ra quyết định tuyên bố phá sản và tiến hành ngay thủ tục thanh lý doanh
nghiệp mà không cần làm thêm bất cứ một thủ tục pháp lý nào khác.
3

Theo Ths. Vũ Hồng Vân Tạp chí TAND tháng 11-2005 (Số 21), tr 16.
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khác với thông lệ chung đó, pháp luật phá sản Việt Nam mà cụ thể là
Luật PSDN lần đầu tiên được ban hành năm 1993 lại quy định mà theo đó bất cứ
một doanh nghiệp nào bị Tòa án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản đều phải trải qua giai đoạn xây dựng phương án hòa giải và
giải pháp lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, họp Hội nghị chủ nợ để bàn bạc,
xem xét phương án này và sau đó nếu không được sự chấp nhận của Hội nghị
chủ nợ thì Tòa án mới được ra quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh
nghiệp đó. Quy định này dẫn tới hậu quả là, mặc dù tài sản của doanh nghiệp
mắc nợ trên thực tế đã không còn gì đáng kể, bản thân chủ doanh nghiệp hoặc
người quản lý doanh nghiệp và các chủ nợ không muốn phục hồi nhưng doanh
nghiệp đó vẫn bắt buộc thực hiên đầy đủ các bước như trên. Như thế, việc tổ
chức lại doanh nghiệp trong trường hợp này rõ ràng là không chỉ không có kết
quả mà còn trái ý muốn của các đương sự. Việc quy định áp đặt như vậy là
không phù hợp với thực tế, dẫn đến việc tổ chức lại doanh nghiệp mắc nợ, cả
các chủ nợ, cả Tòa án và các chủ thể khác có liên quan, Thực tế đã cho thấy
nhiều Tòa án địa phương đã rất lúng túng khi gặp phải những trường hợp doanh
nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản đã hoàn toàn rơi vào tình trạng không còn tài
sản gì đáng kể, nếu thụ lý để giải quyết thì phải tiến hành đầy đủ các giai đoạn
theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 với những chi phí
không nhỏ. Ngược lại, nếu không thực hiện đầy đủ các thủ tục này thì Tòa án lại
bị coi là vi phạm pháp luật.
Để khắc phục tình trạng này, Luật phá sản (2004) đã đi theo hướng quy
định nhiều thủ tục khác nhau trong thủ tục phá sản (Điều 5) bao gồm: thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX; thủ tục thanh lý tài sản; thủ tục
tuyên bố phá sản. Sau khi quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào tình trạng
thực tế của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, Tòa án sẽ quyết định áp dụng
thủ tục nào cho phù hợp, đối với những DN, HTX không còn khả năng phục hồi,

Tòa án sẽ áp dụng ngay thủ tục thanh lý tài sản, nếu xác định tài sản còn lại của
doanh nghiệp không đủ để thanh toán chi phí phá sản thì Tòa án có thể tuyên bố
phá sản ngay. Trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi nếu DN, HTX thực hiện
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không đúng, không đầy đủ hoặc không thực hiện được phương án phục hồi hoạt
đông kinh doanh thì Tòa án cũng có thể quyết định chuyển từ thủ tục phục hồi
sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản.
Quy định như trên tạo điều kiện vừa chấm dứt nhanh chóng sự tồn tại của
những doanh nghiệp không còn đủ khả năng phục hồi, giảm thiểu đến mức tối đa
cho việc tiến hành thủ tục phá sản, bảo vệ quyền lời của các chủ nợ.
1.3.2. Sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong quá trình
giải quyết phá sản
Với tư cách là cơ quan giám sát, VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tất cả các giai đoạn của thủ tục giải quyết phá sản, đối với các chủ thể
tiến hành giải quyết việc phá sản DN, HTX nhằm đảm bảo thực hiện đúng đắn
Luật phá sản, đạt được những mục tiêu mà Luật đã đề ra.
Điều 12 Luật phá sản quy định: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo quy định của
Luật này và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ".
Đối với VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và cấp
tương đương có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật việc giải quyết phá
sản của TAND cấp huyện đối với hợp tác xã đã đăng kí kinh doanh tại cơ quan
đăng kí kinh doanh cấp huyện đó.
Đối với VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương
đương (nơi DN, HTX đăng ký kinh doanh) có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo
pháp luật việc giải quyết phá sản của TAND cấp tỉnh đối với DN, HTX đã đăng
kí kinh doanh tại cơ quan đăng kí kinh doanh cấp tỉnh đó hoặc đối với trường
hợp TAND cấp tỉnh lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã thuộc
thẩm quyền của TAND cấp huyện.

Riêng đối với việc giải quyết phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thì VKSND cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính có nhiệm vụ kiểm
sát việc tuân theo pháp luật việc giải quyết phá sản của TAND cấp tỉnh nơi đặt
trụ sở chính của doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài đó.
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài các chủ thể trên, tham gia vào quá trình giải quyết phá sản DN,
HTX còn có sự tham gia của cơ quan Thi hành án và một số cơ quan chuyên
môn khác (Điều 9 - Luật phá sản).
Tóm lại, mặc dù Luật phá sản quy định có sự tham gia của nhiều cơ quan
khác nhau vào quá trình giải quyết phá sản nhưng Tòa án là chủ thể giữ vai trò
trung tâm, quyết đinh. Cơ quan Viện kiểm sát, Thi hành án và một số cơ quan
chuyên môn khác tham gia vào quá trình giải quyết phá sản là để đảm bảo cho
Tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ
TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN
2.1. Giai đoạn nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
2.1.1. Giai đoạn nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
2.1.1.1. Giai đoạn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
* Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Pháp luật phá sản được đặt ra trước hết nhằm bảo vệ quyền về tài sản của
các chủ nợ. Do vậy, Luật phá sản của tất cả các nước đều dành cho chủ nợ có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ. Tuy nhiên có sự khác
nhau trong việc quy định phạm vi các chủ nợ có quyền nộp đơn. Có nước cho
phép cả chủ nợ có bảo đảm cũng có quyền đệ đơn (Trung Quốc và Hung-ga-ry).
Một số nước khác lại quy định chỉ có chủ nợ không có bảo đảm mới có quyền
này hoặc cả chủ nợ có bảo đảm nhưng phải kèm theo những điều kiện nhất định

như phải từ bỏ quyền được bảo đảm (Luật phá sản Malayxia), hoặc là chủ nợ có
phần giá trị nợ lớn hơn phần giá trị tài sản bảo đảm (chủ nợ có bảo đảm một
phần).
Luật phá sản (2004) chỉ quy định cho chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ
nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với
DN, HTX khi nhận thấy DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản (khoản 1 Điều
13). Quy định như vậy là hợp lý vì chủ nợ có bảo đảm một phần vẫn còn có
quyền yêu cầu DN, HTX (con nợ) trả nốt phần không có bảo đảm.
Luật phá sản đã không cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp đơn,
họ bị hạn chế quyền này bởi chính sự thỏa thuận về việc xử lý giá trị tài sản bảo
đảm. Bản thân số nợ của chủ nợ này đã được bảo đảm bằng tài sản của DN,
HTX hoặc của người thứ ba. Chính vì vậy, trong mọi trường hợp lợi ích của chủ
nợ có bảo đảm cũng luôn được bảo vệ, nên việc quy định cho họ có quyền nộp
đơn là không cần thiết
4
.
4
Theo Ths. Vũ Hồng Vân, tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11-2005(số 21), tr9.
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là thủ tục bắt buộc đầu tiên của trình
tự giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là căn
cứ để Tòa án có ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX đó hay
không. Theo quy đinh tại Điều 7 Luật PSDN (1993), khoản 3 Điều 10 Nghị định
189 thì các chủ nợ gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, kèm theo đơn phải có các
giấy tờ, tài liệu chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn. Quy định này là một trở ngại lớn đối với chủ nợ
nếu muốn nộp đơn yêu cầu giải quyết phá sản. Muốn chứng minh một doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì phải có đầy đủ giấy tờ về tổng số nợ đến
hạn của doanh nghiệp, giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, tình hình kinh

doanh . . . trong khi đó chủ nợ nộp đơn chỉ có thể có giấy tờ liên quan đến các
khoản nợ của mình, việc tiếp cận và có được các giấy tờ liên quan đến tình hình
tài chính của doanh nghiệp mắc nợ là rất khó vì chế độ kê khai sổ sách kế toán,
kiểm toán . . . còn chưa được công khai, nhiều doanh nghiệp đã làm ba loại sổ kế
toán, một cho doanh nghiệp, một cho chủ doanh nghiệp và một cho kế toán nên
việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh như trong Luật PSDN (1993) là khó có thể
thực hiện được.
Nhằm khắc phục những hạn chế trên Luật phá sản (2004) đã quy định đơn
giản hơn điều kiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và chủ nợ không phải
cung cấp cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu chứng minh DN, HTX mất khả năng
thanh toán đến hạn khi gửi đơn yêu cầu. Đơn yêu cầu phải được gửi cho tòa án
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và phải bao gồm các nội dung theo
quy định tại Điều 13 Luật phá sản (2004).
Liên quan đến quyền của chủ nợ, Luật phá sản (2004) quy định một loại
chủ nợ khá đặc biệt là người lao động với những khoản nợ lương, bảo hiểm xã
hội. Về thực chất đối với doanh nghiệp mắc nợ, người lao động là một chủ nợ
không có bảo đảm, hàng hóa duy nhất đem ra trao đổi là sức lao động và tiền
lương là nguồn sống chính của bản thân và gia đình họ. Do đó, khi DN, HTX
lâm vào tình trạng phá sản thì người lao động là một trong những người bị thiệt
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hại nhiều nhất và thực sự lâm vào cảnh "tứ cố vô thân"
5
, không có lương, nguy
cơ thất nghiệp đe dọa. Chính vì thế, Điều 14 Luật phá sản (2004) đã quy định
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động thông qua người
đại diện được cử hoặc đại diện công đoàn.
Theo Điều 14 Luật phá sản 2004 quy định: " Trong trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản nợ khác cho người lao động
và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì người lao

động cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Đại diện cho người lao động được cử hợp pháp sau khi được quá nửa số
người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán thành bằng cách bỏ phiếu kín
hoặc lấy chữ ký; đối với doanh nghiệp, hợp tác xã quy mô lớn, có nhiều đơn vị
trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp phải được quá nửa
số người được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành".
Luật PSDN (1993) quy định người lao động chỉ có thể thực hiện quyền
nộp đơn yêu cầu khi doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động
trong ba tháng liên tiếp, điều kiện này không còn đặt ra trong Luật phá sản
(2004). Đây là một điểm tiến bộ của Luật phá sản (2004) trong việc bảo vệ
quyền lợi cho người lao động.
* Nghĩa vụ của con nợ.
- Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được coi là một nghĩa vụ của
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Con nợ là người đầu tiên hiểu rõ nhất về
tình trạng tài chính của bản thân. Vì vậy, để bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp
pháp của các chủ nợ, con nợ phải có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khi nhận thấy mình lâm vào tình trạng phá sản
6
. Điều 15 Luật phá sản quy
định "khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì
chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã có
5
Theo Ths. Vũ Hồng Vân, tạp chí Tòa án nhân dân tháng 11-2005(số 21), tr9.
6
Theo PGS-TS. Dương Đăng Huệ, tạp chí TAND, đặc san chuyên đề về Luật phá sản tháng 8-2004,
tr107.
25

×