Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tiểu luận Khảo sát chuyên đề Nông nghiệp và Nông thôn trên báo Nông Nghiệp Việt Nam (Từ ngày 13

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.66 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
Khoa Báo chí
Tiểu Luận môn Chuyên đề báo chí
Đề tài:
Khảo sát chuyên đề Nông nghiệp và Nông thôn
trên báo Nông Nghiệp Việt Nam
(Từ ngày 13/09/2010 đến ngày 19/09/2010)
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Đình Hoà
Sinh viên: Trương Đức Thành
Lớp: Báo in K27A1
Khoá học: 2007 - 2011
Hà Nội, tháng 12 năm 2010
1
MỞ ĐẦU
Theo Hồ Chí Minh, nông nghiệp luôn có một vị trí hết sức đặc biệt
đối với xã hội. Phát triển nông nghiệp là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn của
mọi vấn đề xã hội. Ngày 7-12-1945 ngay sau khi giành được chính quyền
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trên báo “Tấc đất” số đầu tiên
“Loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên” (nghĩa là trước cần phải ăn), nước ta thì
“dĩ nông vi bản” (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ăn no phải giồng
giọt cho nhiều. Nước muốn giầu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Vậy
chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý mỗi tấc
đất như một tấc vàng”. Như vậy vị trí của nông nghiệp được đề cao do vấn
đề lương thực, thực phẩm là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Vì lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản hàng đầu của con người
là vấn đề ăn, mặc.
Có thể thấy rằng, thông tin Nông nghiệp – Nông thôn trên Nông
Nghiệp luôn có ý nghĩa và có vai trò rất quan trọng đối với đời sống xã hội
và cộng đồng dân cư.
Bức tranh nông thôn và người nông dân Việt Nam hiện nay sẽ ra sao
khi nước ta hội nhập sâu rộng hơn và khi nước ta trở thành nước cơ bản


công nghiệp hóa? Đây là vấn đề mà nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, nhà
văn hóa đang tập trung nghiên cứu. Đảng ta dự kiến sẽ tổ chức Hội nghị
Trung ương 7 (6/2008) để bàn sâu rộng và căn bản về vấn đề nông dân, nông
nghiệp và nông thôn ở Việt Nam (tam nông).
2
NỘI DUNG CHÍNH
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
I.1. Những khái niệm liên quan
I.1.1. Báo Nông nghiệp Việt Nam
I.1.2. Nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và
nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số
nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao
gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa
rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thuỷ sản.
Nông nghiệp là tập hợp các phân ngành như trồng trọt, chăn nuôi, chế
biến nông sản và công nghệ sau thu hoạch.
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế mỗi
nước, đặc biệt là trong các thế kỷ trước đây khi công nghiệp chưa phát triển
và nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế.
II.2. Nội dung về Nông Nghiệp
Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra chủ trương và giải pháp đồng bộ về
vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Văn kiện Đại hội viết: “Đối với
giai cấp nông dân, ra sức bồi dưỡng sức dân ở nông thôn và phát huy vai trò
giai cấp nông dân trong sự nghiệp đổi mới, tập trung sự chỉ đạo và các
nguồn lực cần thiết cho công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, phát
triển nông thôn, thực hiện tốt chính sách về ruộng đất, phát triển nông
nghiệp toàn diện, tiêu thụ nông sản hàng hóa, bảo hiểm sản xuất và bảo hiểm
xã hội…Phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ đồng bào khó khăn, phân bố

3
dân cư theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm, xóa đói,
giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng nông thôn mới”.
Quan điểm trên đây của Đảng thể hiện sự trung thành, sự vận dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nền kinh tế nước ta sau hơn 20 năm đổi mới, tuy đạt được những
thành tựu hết sức to lớn nhưng nhìn tổng thể vẫn chưa thoát khỏi tính chất
của một nền kinh tế nông nghiệp. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ
lực phấn đấu để “…đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”(1). Một trong những yếu tố bảo đảm thực
hiện mục tiêu nói trên là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
quá trình phát triển đất nước. Là một quốc gia nông nghiệp, giải quyết tốt
vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn đã, đang và sẽ còn là vấn đề có
giữ vị trí nền tảng đối với quá trình giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Nông nghiệp đối với sự phát triển của các nước chuyển đổi
Báo cáo của WB cho rằng Đông Á và ĐNA, đặc biệt là các nước có
nền kinh tế đang chuyển đổi từ nông nghiệp sang đô thị hóa như Việt Nam,
thì nông nghiệp vẫn được coi là yếu tố quan trọng trong việc xóa đói nghèo,
tăng thu nhập cho nông dân. Hay nói cách khác, nông dân muốn thoát nghèo
vẫn phải gắn với nông nghiệp.
Các số liệu thống kê cho thấy, đã có 200 triệu người thoát nghèo nhờ
nghề nông; việc di dân ra thành thị cũng là nguyên nhân chiếm 20% trong
việc giảm số người nghèo có thu nhập 1 USD/ngày ở khu vực Đông Á và
Đông Nam Á; tới năm 2040 vẫn còn 75% người nghèo và đa số họ vẫn sống
ở nông thôn.
+ Nông nghiệp còn mở đường cho các chính sách đổi mới.
4
Thực tiễn trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam đã
đem lại lợi ích cho cả vùng đô thị và nông thôn. Năm 1993 có tới 2/3 số dân

nông thôn được coi là nghèo thì ngày nay con số này chỉ còn 1/5. Nhưng khi
Việt Nam chuẩn bị bước vào vị thế là nước có mức thu nhập trung bình và
cao hơn, vấn đề là liệu sự phát triển có lợi cho tất cả mọi người còn tồn tại
được nữa không? Cải thiện năng suất nông nghiệp và tạo cơ hội cho người
nghèo ở nông thôn và các dân tộc thiểu số vẫn là vấn đề lớn cần phải quan
tâm đúng mức.
Nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam đã làm tốt việc tạo điều kiện
cho sản xuất tiếp cận tốt nhất với tài nguyên thiên nhiên như đất đai, nước
giao đất cho nông dân sản xuất cùng với tự do hoá thương mại và đầu tư
mạnh về thuỷ lợi.
+ Nông thôn Việt Nam hiện nay: một số tồn tại
Tại cuộc hội thảo "Công nghiệp hóa nông thôn và phát triển nông thôn
Việt Nam - Đài Loan", do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Nghiên
cứu Trung ương Đài Loan tổ chức ngày 17/12/2007, và cuộc hội thảo “Nông
dân Việt Nam trong quá trình hội nhập” do Viện Chính sách và Chiến lược
phát triển Nông nghiệp nông thôn tổ chức ngày 18/12/2007, các chuyên gia
đã liệt kê ra những vấn đề xã hội bức xúc, nan giải trong 20 năm qua. Đó là
vấn đề khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội; tình trạng thiếu
việc làm, di dân tự phát; xung đột xã hội gia tăng; dân trí và quan trí thấp;
dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe yếu kém; đời sống văn hóa có nhiều biểu
hiện tiêu cực, xuống cấp; năng lực quản lý xã hội, kết cấu hạ tầng thấp kém;
môi trường bị ô nhiễm và suy thoái ở mức báo động.
Mức độ giảm nghèo chung của Việt Nam tiến bộ liên tục. Tuy nhiên,
xu hướng phân hóa giàu nghèo gia tăng trong nội bộ khu vực nông thôn, đặc
biệt là giữa nông thôn với đô thị. Nhiều chuyên gia còn đưa ra con số về
5
chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn - thành thị lên tới trên 6,9 lần (2004)
chứ không phải con số 3,5 lần như vẫn nhắc đến.
Một vấn đề nữa là người nông dân thiếu việc làm do bị mất đất do xu
thế tích tụ ruộng đất ngay tại nông thôn và quá trình đô thị hóa và phát triển

các khu công nghiệp hiện nay (20 năm qua, 300.000 héc-ta đất nông nghiệp
bị mất đi do quá trình này). Điều này đã làm cho vấn đề thiếu việc làm tại
nông thôn và xu hướng di dân ra thành phố để mưu sinh là không thể tránh
khỏi. Đây là xu thế của một xã hội phát triển là giảm tương đối cơ cấu của
nông nghiệp trong nền kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Thiếu hụt nhất ở khu vực này là tri thức và thông tin khoa học hiện đại
không được chuyển giao một cách có hệ thống. Người nông dân thiếu kiến
thức, nên khó chuyển giao được khoa học công nghệ để họ thực sự làm chủ.
Điều này tiếp tục đặt họ và thế bất lợi hơn nữa.
Một thách thức to lớn nữa của khu vực nông thôn là sức ép trong chi
tiêu cho giáo dục, áp lực của tình trạng gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi
trường đến mức báo động. Làng nghề và các khu công nghiệp nông thôn gây
ô nhiễm đất, nước và không khí rất nặng, làm suy thoái tài nguyên môi
trường do khai thác tự phát, không theo quan điểm phát triển kinh tế - xã hội
bền vững. Khu vực đô thị - công nghiệp là nguồn gây ô nhiễm và suy thoái
môi trường nặng nề hơn và cư dân ven đô lại là những người trực tiếp chịu
hậu quả.
+ Một số giải pháp
Phải có sự dịch chuyển lao động. Sự dịch chuyển này bằng hai cách.
Một là đưa lao động ra khỏi khu vực nông thôn về các khu công nghiệp, đưa
đi xuất khẩu lao động, đưa về thành phố. Hai là đưa công nghiệp, dịch vụ về
nông thôn, phát triển làng nghề Mặc dù đây là vấn đề rất lớn để giảm thiểu
6
sự bất bình đẳng hiện nay, nhưng Việt Nam chưa quan tâm nhiều tới vấn đề
này, trong khi đây là xu thế tất yếu.
Tăng đầu tư của Nhà nước về nông thôn. Hiện nay, đầu tư của Nhà
nước về nông thôn còn hạn chế (chiếm 14% tổng đầu tư) và đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này không đáng kể (3% tổng đầu tư FDI cả
nước). Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư cho khoa
học công nghệ (hiện chiếm 0,13% GDP nông nghiệp, trong khi các nước

tương tự là 4%). Tất nhiên, vấn đề này cũng không dễ dàng bởi nông dân rất
khó tiếp cận và làm chủ KHCN.
Thiết lập hệ thống khuyến nông tốt. Có thể thuê khuyến nông tư nhân
làm mà không cần phải dựa hoàn toàn vào Nhà nước. Ngoài ra, phải có các
cơ chế tài chính phù hợp thu hút các tổ chức quốc tế, phi chính phủ làm việc
này và tăng cường các mô hình giáo dục, đào tạo ở địa phương để người dân
có thể tiếp cận được". Song song đó là đầu tư cho các dịch vụ công khác và
đẩy mạnh cải cách thể chế.
Nhà nước cần đầu tư đào tạo nghề cho nông dân để đối phó với sự
dịch chuyển trong nông nghiệp.
Tận dụng nhiều hơn những ưu đãi cho nông nghiệp. Khi gia nhập
WTO, phải xóa bỏ chính sách trợ giá, nhưng phải tận dụng được ưu đãi mà
WTO cho phép (khoảng 10% GDP của nông nghiệp) như thủy lợi, hệ thống
tưới tiêu, cải tạo đất đai, nghiên cứu áp dụng khoa học - công nghệ vào nông
nghiệp.
Có chính sách hỗ trợ cho an ninh lương thực. Nhà nước cần có chính
sách hỗ trợ cho lĩnh vực này. Muốn đảm bảo an ninh lương thực, duy trì diện
tích và sản lượng lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long thì phải có chính sách để
bảo đảm thu nhập cho người dân và cho phát triển vùng này. Hiện nay,
những tỉnh có tỉ trọng nông nghiệp cao trong GDP là những tỉnh nghèo, kém
7
phát triển. Nên xem vấn đề an ninh lương thực dưới góc độ cung cấp dịch vụ
cơ bản.
+ Những bức xúc trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở nước ta
hiện nay
Trong hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nông nghiệp, nông
dân và nông thôn nước ta đã có bước phát triển khá toàn diện và to lớn.
Nông nghiệp phát triển ổn định và có xu hướng tái sản xuất theo chiều sâu,
đời sống vật chất, tinh thần nông dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn thay
đổi theo chiều hướng lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế – xã hội, góp phần

quan trọng vào sự ổn định của đất nước, tạo cơ sở cho sự phát triển bền
vững. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, nông nghiệp, nông dân, nông thôn đang
đứng trước những khó khăn, thách thức rất lớn. Sự phát triển của nông
nghiệp có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại và thiếu tính bền vững; nông thôn
đang có chiều hướng tụt hậu; đời sống của nông dân nhìn chung còn thấp, ở
nhiều vùng chậm được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, phát sinh nhiều vấn
đề xã hội bức xúc.
Có nhiều cách tiếp cận để nhận diện các nguyên nhân, song nhìn tổng
thể và suy đến cùng thì nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Nó được thể hiện
trong hoạt động lãnh đạo và quản lý, sự quan tâm chưa xứng tầm với vai trò
của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong đời sống kinh tế – xã hội và
những đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn.
Thời gian qua, để tăng GDP, các địa phương mới chỉ chú trọng phát
triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và phát triển các khu đô thị
mới. Việc thu hồi đất nông nghiệp đã làm cho diện tích đất canh tác bị thu
hẹp. Bài toán toàn dụng lao động trong nông nghiệp, nông thôn và các vấn
đề xã hội nảy sinh do việc thu hồi đất nông nghiệp chưa tìm ra lời giải thoả
đáng. Tỷ lệ thời gian lao động trong nông nghiệp đạt ở mức thấp (chỉ
8
khoảng 65%). Tình hình đó đã làm xuất hiện một động thái khác – sự di dịch
nguồn lao động tự phát từ các vùng nông thôn đổ về các đô thị tìm kế mưu
sinh. Những dòng lao động di dịch đó đã “kéo” lực lượng lao động trẻ khoẻ
và có kiến thức ra khỏi địa bàn nông thôn làm xuất hiện tình trạng lao động
nông nghiệp tại nhiều địa phương chỉ còn lại chủ yếu là phụ nữ và người cao
tuổi, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tăng tốc và tính bền vững của sự phát
triển nông nghiệp và nông thôn.
Lực lượng lao động không được toàn dụng, mức thời gian lao động
thấp dẫn đến giảm thu nhập. Hiện có ý kiến cho rằng mức thu nhập bình
quân của người dân nông thôn chỉ đạt trên dưới 500.000 đồng/tháng, trong
khi, việc chi cho ăn, mặc chiếm tới 80 – 90%. Trong điều kiện lạm phát tăng

cao như hiện nay, vấn đề càng trở nên hết sức bức xúc. Hiện trạng về
khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn có xu hướng
tăng lên do sự doãng ra về cánh kéo giá cả giữa các sản phẩm công nghiệp
và nông nghiệp cũng là một thực tế. Số liệu năm 2006 là 47/100; tỷ lệ hộ
nghèo (theo chuẩn mới) vẫn còn ở mức 18% (ở nhiều vùng sâu, vùng xa tới
40%).
Mục tiêu của chúng ta là trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, muốn vậy, chắc chắn chúng phải làm thay đổi các chỉ số vừa nêu theo
chiều ngược lại. Điều đó có nghĩa là, bằng những nỗ lực tối đa, chúng ta
nhất định phải giải quyết một cách khoa học nhất vấn đề phát triển nông
nghiệp, nông thôn, cải thiện đời sống nông dân.
Sẽ không phải là quá khi nói rằng, giải quyết vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn như thế nào có quan hệ nhân quả với giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa đối với nước ta hiện nay.
Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, ngăn chặn xu hướng phát triển
thiếu tính bền vững của nông nghiệp, ngăn chặn chiều hướng tụt hậu của
9
nông thôn, tạo bước đột phá trong xây dựng nông thôn mới, giải quyết đúng
đắn vấn đề nông dân – trung tâm của hệ thống chính sách kinh tế – xã hội
đang là vấn đề đặt ra trước mắt chúng ta.
+ Hướng giải quyết những bức xúc trong nông nghiệp, nông dân và
nông thôn hiện nay?
Để giải quyết những bức xúc của vấn đề nông nghiệp, nông dân và
nông thôn hiện nay, với tính cách là bước chuyển căn bản, giải pháp quan
trọng nhất hiện này là tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện tốt Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy Đảng Cộng sản Việt
Nam (khoá X) về “Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.
Việc quán triệt và triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương lần
thứ bảy, sẽ là bước đi mang tính đột phá và cũng mang ý nghĩa cơ bản để
cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá giải quyết một các triệt để

vấn đề “tam nông” hướng tới mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm
2020.
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới nhận thức về nông nghiệp, nông dân và
nông thôn
Quá trình đổi mới của đất nước, trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận,
chính sách của chúng ta được bắt đầu tư nông nghiệp, nông thôn và nông
dân, và chính lĩnh vực này đã mở đường cho các chính sách đổi mới. Nhưng
thực tế thời gian qua cho thấy, dường như nhận thức của chúng ta đối với
vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa theo kịp những đòi hỏi của
thực tiễn. Những chính sách với nông nghiệp, nông thôn và nông dân được
hoạch định như, vốn cho sản xuất – kinh doanh, việc làm, phát triển thị
trường, xây dựng kết cấu hạ tầng…, lại chưa phản ánh lộ trình phát triển của
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của nền kinh tế cũng như những
vấn đề mới đặt ra từ quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đã
10
đến lúc, nhận thức của chúng ta về nông nghiệp, nông thôn và nông dân cần
phải đổi mới so với hiện nay. Thực tiễn bức xúc trong khu vực nông nghiệp,
nông dân, nông thôn và cuộc khủng hoảng lương thực trên thế giới nổ ra từ
đầu năm 2006 cho thấy rõ nhu cầu khách quan này.
Nội dung của đổi mới nhận thức về nông nghiệp, nông dân và nông
thôn hiện nay tập trung ở hai vấn đề chính:
Nhận thức mới về mục tiêu phát triển nông nghiệp trong điều kiện sự
biến đổi về môi trường sống trên hành tinh đang diễn ra hết sức phức tạp, đe
doạ sự sống của hàng tỷ người, nhất là đối với các nước nghèo. Sự phát triển
của nông nghiệp trong điều kiện như vậy phải đáp được ứng mục tiêu và các
yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững. Đến lượt nó, sự phát triển nông
nghiệp bền vững phải đảm bảo: bền vững về sinh thái; lợi ích về kinh tế; lợi
ích xã hội đối với nông dân và cộng đồng.
Tư duy về nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải đổi mới theo hướng
nhận thức đầy đủ hơn về vai trò, vị trí của mỗi thực thể đó. Ở khía cạnh thứ

hai này, nông nghiệp phải được coi là nền tảng để ổn định phát triển kinh tế
xã hội, và vấn đề chính sách đối nông dân phải được coi là trung tâm trong
hệ thống chính sách của chúng ta. Biểu hiện của nhận thức đó phải được thể
hiện bằng các biện pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, thu
hẹp cả về khoảng cách và cả về tốc độ sự phát triển giữa khu vực nông thôn,
đời sống nông dân so với khu vực đô thị. Trong hoạch định chính sách phát
triển đất nước, xác định bước đi, cách làm, cũng như lộ trình thực hiện nhất
định phải đặt nó trong mối quan hệ với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn để có những quyết sách đúng đắn. Mọi chính sách, bước đi, cách làm
gây hiệu ứng tiêu cực theo hướng để nông nghiệp, nông dân, nông thôn tụt
hậu, “hy sinh” sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn, cho dù đó chỉ là sự
11
tụt hậu, sự hy sinh tạm thời, cần được coi là không phù hợp với nhận thức
mới đối với khu vực chiến lược này trong điều kiện hiện nay.
Thứ hai, cần tăng đầu tư hơn nữa cho nông nghiệp, nông dân và
nông thôn
Đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đây vừa là
điều kiện, vừa là cơ hội để nông nghiệp, nông dân và nông thôn tiếp nhận sự
đầu tư của Nhà nước. Vừa qua, Nhà nước đã tăng cường đầu tư cho sự phát
triển của khu vực này cả trong phát triển lực lượng sản xuất, và trong xây
dựng quan hệ sản xuất mới. Các chính sách giao đất cho nông dân sản xuất
cùng với tự do hoá thương mại và đầu tư mạnh về xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng, ứng dụng công nghệ sinh học, bảo vệ môi trường, xoá đói, giảm
nghèo …, đã được quan tâm. Song sự đầu tư đó vẫn chưa tạo được bước đột
phá cho lĩnh vực này khi mức đầu tư của Nhà nước về nông thôn mới chiếm
14% tổng đầu tư và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này
không đáng kể (3% tổng đầu tư FDI cả nước). Đầu tư vào nông nghiệp, nông
dân, nông thôn, thường tỷ suất về tính sinh lời và hiệu quả không cao nếu
xét từ góc độ lợi nhuận thuần túy, nhưng nếu xét tổng thể về hiệu quả kinh tế
– xã hội thì lại không hề thấp chút nào. Nhà nước cũng cần đẩy mạnh đầu tư

cho khoa học – công nghệ (hiện chiếm 0,13% GDP nông nghiệp, trong khi
các nước tương tự là 4%).
Ngoài ra, trong điều kiện Việt Nam là thành viên chính thức của
WTO, chính sách của Nhà nước đối với khu vực nông nghiệp, nông dân và
nông thôn cũng cần được đổi mới theo hướng khai thác các định chế của
WTO để hỗ trợ, ưu đãi cho lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Việc
Việt Nam gia nhập WTO đã đem lại cho nền kinh tế những cơ hội phát triển
mới trong đó có nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, quá trình tiến
đến đài vinh quang, bao giờ cũng có những có những “hy sinh”, mất mát
12
nhất định. Những quy định của WTO cho thấy nông nghiệp, nông thôn,
nông dân là lĩnh vực chịu sự hy sinh nhiều nhất trước những tác động từ bên
ngoài khi chúng ta thực hiện các cam kết với WTO. Do đó, cần có chính
sách hỗ trợ nông nghiệp, nông dân, nông thôn, chính sách đó một mặt phải
bảo đảm phù hợp với các định chế của WTO, phù hợp với điều kiện nền
kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, mặt khác khai thác triệt để những
quy định của WTO đối với những nền kinh tế đang trong quá trình chuyển
đổi để có thể tối đa hoá sự hỗ trợ đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông dân,
nông thôn.
Định chế của WTO quy định xoá bỏ mọi trợ cấp cho các sản phẩm
nông nghiệp xuất khẩu, nhưng đối với các nước đang phát triển cho phép hỗ
trợ ở mức tối thiểu để phát triển nông nghiệp (khoảng 10% GDP của nông
nghiệp) như thủy lợi, hệ thống tưới tiêu, cải tạo đất đai, nghiên cứu áp dụng
khoa học – công nghệ… Khai thác những nội dung có lợi trong định chế của
WTO để tăng đầu tư cho khu vực này cần được coi là một hướng ưu tiên,
một cơ hội cần “chớp” lấy trong giải quyết các vấn đề của thực tiễn.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ chuyên gia làm nòng cốt và huy động
lực lượng của toàn xã hội tham gia giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông
dân và nông thôn.
Để làm chuyển biến khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, vấn

đề tiên quyết là phải có chủ trương chính sách đúng. Chúng ta đã có Nghị
quyết mới do Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá X).
Tuy nhiên, sau khi có chủ trương chính sách đúng, nhân tố quyết định lại là
con người. Do đó cần đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức được đội ngũ cán bộ và
các chuyên gia – những người, những bộ phận, những lực lượng có trọng
trách chính trong việc “chèo lái” con thuyền “tam nông”. Bộ phận nòng cốt
này bao gồm các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học, đội ngũ cán bộ
13
khuyến nông…làm công tác chỉ đạo ở Trung ương và trực tiếp làm việc ở
nông thôn, và trong lĩnh vực nông nghiệp (bao gồm cả đội ngũ cán bộ của
các cơ quan Đảng, Nhà nước ở Trung ương và các địa phương).
Trách nhiệm được đề cập ở đây được hiểu là những việc làm thiết
thực và có hiệu quả chứ không phải là một phạm trù đạo đức. Sau đội ngũ
cán bộ, phải tạo bước chuyển biến mới trong đào tạo nghề cho người nông
dân. Bản chất của vấn đề đang được bàn luận ở đây là ở chỗ đất nước vừa
phải đào tạo được đội ngũ những “chuyên gia” giỏi về chuyên môn thực sự
để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, vừa phải toàn dụng
lực lượng lao động ở nông thôn. Tiếp đến là phải phát động cho được trách
nhiệm của toàn xã hội, toàn xã hội phải tham gia giải quyết vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn.
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống nông
dân không phải chỉ là trách nhiệm, việc làm riêng của Đảng, Chính phủ hay
của giai cấp nông dân, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Tập trung
nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, mọi cấp mọi ngành, mọi thành phần kinh tế,
mọi thể nhân và pháp nhân; nỗ lực của tất cả các doanh nghiệp không phân
biệt thành phần kinh tế, quy mô ngành nghề kinh doanh, nếu có liên quan
đến ngành nông nghiệp, người nông dân và khu vực nông thôn thì đều phải
có trách nhiệm chung tay với Nhà nước, chung sức với người nông dân để
giải quyết. Không thể để những chuyện buồn của nông dân ở cả ba miền
Bắc, Trung, Nam về chuyện hạt lúa được mùa nhưng rớt giá, con cá nuôi đã

quá lứa, cây mía, quả dứa, quả vải thiều vào mùa thu hoạch, nhưng bán
không có người mua, cứ tái diễn mãi. Hơn lúc nào hết, đây là lúc phải huy
động sự liên kết chặt chẽ giữa các “nhà” để thúc đẩy khu vực nông thôn,
nông nghiệp bứt lên, vượt qua khó khăn thách thức, tạo bước phát triển
mang tính đột phá. Đó mới chính là phát huy sức mạnh của cả khối đại đoàn
14
kết dân tộc trong việc tìm kiếm những giải pháp khả thi để giải quyết vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thôn một cách thiết thực.
GS. TS. Tô Duy Hợp, Viện Xã hội học đã đưa ra 10 vấn đề xã hội bức
xúc, nan giải trong quá trình đổi mới nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt
Nam trong 20 năm qua và quan điểm định hướng các giải pháp hoá giải
những vấn đề này.
Vấn đề trên được đưa ra tại Hội thảo "Công nghiệp hoá nông thôn và
phát triển nông thôn Việt Nam - Đài Loan", do Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam và Viện Nghiên cứu Trung ương Đài Loan tổ chức tại Hà Nội ngày
hôm nay 17/12.
Theo GS. Tô Duy Hợp, 10 vấn đề xã hội nan giải là : Khoảng cách
giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội; tình trạng thiếu việc làm, di dân tự
phát, xung đột xã hội gia tăng; dân trí và quan trí thấp; dịch vụ y tế, chăm
sóc sức khoẻ yếu kém; đời sống văn hoá có nhiều biểu hiện tiêu cực, xuống
cấp; năng lực quản lý xã hội, kết cấu hạ tầng thấp kém; môi trường bị ô
nhiễm và suy thoái đến mức báo động.
Mức độ giảm nghèo chung của Việt Nam diễn tiến liên tục, tuy nhiên,
xu hướng phân hoá giàu nghèo gia tăng trong nội bộ khu vực nông thôn, đặc
biệt là giữa nông thôn với đô thị do tình trạng luẩn quẩn của sự đói nghèo.
Nông dân mất đất canh tác cùng với thiếu việc làm có thu nhập cao tại khu
vực nông thôn, nông nghiệp đã làm trầm trọng thêm sự chênh lệch giàu
nghèo giữa các nhóm xã hội. Tình trạng đa số người vừa thoát nghèo vẫn ở
xung quanh cận nghèo tạo ra tính thiếu bền vững của công cuộc xoá đói,
giảm nghèo.

Hiện nay, thiếu hụt nhất ở khu vực này là tri thức và thông tin khoa
học hiện đại được chuyển giao một cách có hệ thống. Thách thức to lớn của
15
khu vực tam nông là sức ép trong chi tiêu cho giáo dục, áp lực của tình trạng
gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi trường đến mức báo động.
Làng nghề và các khu công nghiệp nông thôn gây ô nhiễm đất, nước
và không khí rất nặng; làm suy thoái tài nguyên môi trường do khai thác tự
phát, không theo quan điểm phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Khu vực đô
thị - công nghiệp là nguồn gây ô nhiễm và suy thoái môi trường nặng nề hơn
và cư dân ven đô lại là những người trực tiếp chịu hậu quả.
Chẳng hạn, nước thải độc hại của Nhà máy pin Văn Điển (Hà Nội) đã
làm ô nhiễm nước và đồng ruộng của nhiều xã, huyện thuộc tỉnh Hà Nam,
đặc biệt là huyện Kim Bảng. Đã mấy chục năm mà nhà nước và doanh
nghiệp đều không đền bù cho người dân, không có giải pháp kỹ thuật khắc
phục, để mặc cho cộng đồng xã, thôn tự xoay xở
Bàn về quan điểm định hướng các giải pháp hoá giải những vấn đề xã
hội bức xúc trong quá trình đổi mới tam nông Việt Nam, TS. Hợp cho rằng
cần phải xây dựng hệ quan điểm các giải pháp chung và riêng.
Khu vực tam nông vốn nghèo, lạc hậu, dễ bị tổn thương và loại trừ ra
khỏi dòng chủ lưu của phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng đô thị hoá, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn cầu hoá.
Bằng nội lực, người dân nông thôn chỉ đủ đảm bảo mưu sinh. Muốn
phát triển bền vững, người dân nông thôn cần rất nhiều sự hỗ trợ từ bên
ngoài. Cụ thể, khu vực tam nông cần khung khổ pháp lý của nhà nước và
những cam kết quốc tế; đào tạo, nâng cao năng lực toàn diện; quy hoạch và
tổ chức thực hiện các chương trình, dự án phát triển; chú trọng nâng cao
năng lực đánh giá, điều chỉnh hoặc thay đổi các dự án và chương trình này.
Quan điểm hỗ trợ tam nông cần được hiểu và thao tác theo lý thuyết tương
tác, tương hỗ, tức là phát triển theo mô hình hợp tác giữa tam nông với các
khu vực khác của xã hội.

16
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
a. Tổng quát
Trong những năm qua, báo Nông nghiệp Việt Nam đã tích cực tuyên
truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
tới nhân dân; phản ánh chân thực, sinh động cuộc sống lao động, sản xuất
của nhân dân, mang tiếng nói của nhân dân đến với Đảng, là cầu nối giữa
Đảng với nhân dân.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, báo hướng tới
việc cung cấp thông tin, kiến thức khoa học kỹ thuật, phản ánh cuộc sống lao
động sản xuất và đời sống, tâm tư, nguyện vọng, vướng mắc, bức xúc của
nhân dân…
Qua đó, giúp cấp ủy, chính quyền các cấp nắm bắt, điều chỉnh các
chính sách, có biện pháp đẩy mạnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
của tỉnh, địa phương, cơ sở.
Tuy vậy, nhìn một cách tổng thể công tác tuyên truyền nói chung,
tuyên truyền trên báo Nông nghiệp Việt Nam nói riêng về lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn và nông dân vẫn còn hạn chế; ít bài viết đi sâu phản ánh
thực tiễn, nhất là những bài phản ánh mặt tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực này
và cũng chưa kịp thời phản ánh những vấn đề nóng bỏng, bức thiết đặt ra
trong thực tiễn của lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân…
Báo Nông Nghiệp Việt Nam đã nâng cao chất lượng và viết nhiều tác
phẩm thuộc đề tài nông thôn, nông nghiệp và nông dân mang hơi thở cuộc
sống; khai thác, phản ánh các điển hình tiên tiến, sáng kiến kinh nghiệm và
kể cả những hệ luỵ trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Hội
thảo lần này đã giúp cho Trung ương nghiên cứu, tổ chức các cuộc thi viết
về đề tài nông nghiệp nông thôn và nông dân và các hình thức tuyên truyền
trên báo
17
b. Nội dung

Số báo 182. Thời gian : 13/9/10
Bài, tin
Bình Định: heo chết không kịp chôn
Nội dung: hàng loạt trang trại nuôi heo ở huyện Tây Sơn ( Bình Định) đồng
loạt bị dịch bệnh tấn công. Heo chết dồn dập, trang trại chỉ còn những dãy
chuồng trống hoác . Nhiều triệu phú heo bỗng chốc trắng tay.
Trà Vinh: tiêu huỷ 3 tấn heo bệnh.
Nội dung: các cơ quan chuyên môn của tỉnh trà vinh và các địa phương
huyện Cầu kè đã tiêu huỷ 60 con heo bị bệnh tai xanh.
Bình Thuận: dịch tai xanh huỵện tây phong
Nội dung: ông Châu Ngọc Tấn chi cục trưởng cục thú y tỉnh cho biết thôn ba
xã huỵện tây phong đã có heo dương tính với virut tai xanh.
Vĩnh Long: hộ bị thiệt hại do dịch tai xanh được vay vốn
Nội dung: Ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh Vĩnh Long yêu cầu cơ quan
chuyên môn thống kê cho khách hàng vay vốn.
Hà Tĩnh: bùng phát dịch lở mồm long móng
Nội dung : Mặc dù mới xuất hiện 5 ngày nhưng trên địa bàn xã Kim Sơn 1
đã có 61 trâu bò bị mắc bệnh.
Số báo 184. Thời gian: 15/9/2010
Bài, tin
Gió bầu đâu dễ kết bạn
Nội dung: sự kiện một số người dân ở khu vực Tây Nguyên Nam Trung Bộ
mới đây may mắn kiếm được vài ký kỳ nam trong rừng và bán thu bạc tỷ đã
khiến phong trào tìm trầm và tạo trầm thêm sôi sục.
Kế hoạch “chống lut” cho người trồng sắn
18
Nội dung: mặc dù cơn bão số ba không trực tiếp đổ bộ vào Quảng Bình
nhưng mưa to dài ngày đã ảnh hưởng tới 2000 ha sắn.
Giành nhau kiểm soát chứng nhận VSATTP
Nội dung: Bằng chứng là một đoàn liên ngành phối hợp với UBND các

Huyện thị tỉnh Tiền Giang tổ chức kiểm tra 49 cơ sở sản xuất kinh doanh
thuỷ sản thì hầu hết đều không thực hiện Biển kiểm soát chất lượng.
Phạt nặng hành vi bơm tạp chất vào sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu
Nội dụng :Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá Nguyễn Ngọc Hồi vừa ký
quyết định xử phạt hành vi gian lận thương mại bơm tạp chất vào sản phẩm
thuỷ sản xuất khẩu.
Bình Định: mưa lú đột ngột, 2 người chết
Nội dung: Liên tiếp trong nhiều ngày qua, tại huyện miền núi An Lào xuất
hiện nhiều cơn mưa vào lúc chiều tối gây lũ đột ngột trên các triền sông,
suối.
Số 186. Thời gian: 17/9/2010
Bài, tin
Sớm công bố chính sách vụ đông 2010.
Nội dung: nhằm sớm có chính sách thúc đẩy vụ đông năm 2010 hôm qua
16/9 tại Phú Thọ, bộ NNBTNT đã tổ chức hội nghị sơ kết sản xuất vụ mùa,
triển khai kế hoạch vụ đông năm 2010 ở các tỉnh trung du miền núi phía bắc.
Triển khai dự án vỗ béo bò thịt năm 2010:
Từ nguồn kinh phí của trọng tâm KNKN Quốc gia năm 2010. Trọng tâm
KNKN tỉnh Bắc Giang phối hợp với tranh KN huyện Tân Yên triển khai
trương trình vỗ béo bò thịt tại 3 Xã Cao Thượng.
Cần thơ : trồng cà chua công nghệ cao
19
Tổ chức simay of inrestern LLC mỹ vừa tài trợ 27600 USD cho TP Cần thơ
để thực hiện dự án thử nghiệm hơn trồng giống cà chua áp dụng công nghệ
cao.
Nuôi gà an toàn sinh học
Nội dung; Trong khuôn khổ chương trình khuyến nông các xã đặc biệt khó
khăn, tỉnh Bình Định đã đầu tư 100% kinh phí xây dựng 4 mô hình nuôi gà
an toàn sinh học…
Vĩnh Long: giống cây ăn quả tiêu thụ mạnh

Nội dung: Vĩnh Long là một trong những trung tâm chuyên sản xuất giống
cây ăn trái với quy mô lớn và uy tín ở DBSCL. Năm nay, nhờ mở rộng thị
trường ra các tỉnh miền Đông Nam bộ, Tây nguyên ra miền Trung nên tiêu
thụ tăng cao.
c. Hình thức
Các bài viết ngắn gọn, xúc tích dưới dạng tin, bài phản ánh, bài phỏng
vấn, phóng sự, điều tra, bình luận, chuyên luận, xã luận, ghi nhanh…
Các tác phẩm còn sử dụng các số liệu dẫn chứng, những văn bản cụ
thể, sơ đồ, chỉ số, biểu đồ, ảnh,… và các tư liệu khác làm tăng thêm sự sinh
động cho bài viết.
3. Những bài học rút ra
Lý thuyết hợp tác 4 nhà (nhà nông, nhà nước, nhà doanh nghiệp và
nhà khoa học) theo nguyên tắc các bên cùng có lợi có thể và cần phải bổ
sung thêm nhà công tác xã hội để trở thành lý thuyết 5 nhà cho chiến lược
phát triển bền vững tam nông
Nhà nước cần có chính sách phát triển nông thôn toàn diện, không chỉ
tập trung vào nông nghiệp. Việc phát triển nông thôn là công việc của hầu
20
hết các bộ chứ không phải chỉ riêng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn.
Cần tổng kết các sáng kiến mới đang xuất hiện ở nông thôn như việc
phát triển các cụm nông nghiệp và công nghiệp, việc hình thành các doanh
nghiệp nhỏ ở nông thôn, việc phát triển du lịch nông thôn, việc áp dụng công
tác khuyến nông kinh tế xã hội và tư vấn quản lý nông trại, việc đào tạo
nông dân, không những để sớm có những "nhà nông" chuyên nghiệp có trình
độ sản xuất, kinh doanh tiên tiến, mà còn gắn bó lâu bền với nông thôn.
21
KẾT LUẬN
Nghị quyết T.Ư 7 "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" được ban
hành vào lúc nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đứng trước nhiều

thời cơ thuận lợi, nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức
cả ở trong nước và từ kinh tế thế giới dội vào. Vấn đề đặt ra là phải nắm bắt
thời cơ, vượt qua thách thức với những giải pháp linh hoạt, sáng tạo, hợp lý
và đồng bộ. Chúng ta đã đi qua nửa chặng đường của nhiệm kỳ khóa X của
Ðảng. Với việc ban hành ba Nghị quyết, trong đó có Nghị quyết "Về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn", Hội nghị lần thứ 7 BCH T.Ư đã hoàn thành
việc cụ thể hóa những nội dung quan trọng, chủ yếu trong Văn kiện Ðại hội
X của Ðảng. Nghị quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" cùng với
các Nghị quyết khác của các Hội nghị T.Ư 3, 4, 5, 6, 7 nằm trong một chỉnh
thể thống nhất, có quan hệ mật thiết với nhau, do đó cần nghiên cứu, quán
triệt sâu sắc, tạo sự nhất trí cao về nhận thức và đồng bộ về biện pháp thực
hiện thì mới hoàn thành thắng lợi các mục tiêu đã đề ra, góp phần tích cực
vào việc hoàn thành toàn diện Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng.
Hiện nay, chúng ta đã có Hội Khoa học phát triển nông thôn để huy
động lực lượng quần chúng giúp nhà nước và doanh nghiệp thực hiện công
việc này. Chúng ta đang được các tổ chức quốc tế và trên 399 tổ chức phi
chính phủ hỗ trợ việc phát triển nông thôn, nhưng chúng ta không biết họ
đang làm gì để hợp tác một cách chặt chẽ. Hội Khoa học Phát triển nông
thôn đang cố gắng xây dựng cơ sở khoa học cho việc phát triển nông thôn và
xây dựng một trung tâm cung cấp dịch vụ phát triển nông thôn hoạt động
theo nguyên tắc của một doanh nghiệp mang tính xã hội, giống như một mô
hình kiểu mới chưa có ở nước ta nhưng rất phổ biến ở các nước
Nhà nước phải hỗ trợ việc tăng cường năng lực cho các cộng đồng nông
thôn để nông dân có thể tham gia vào việc phát triển nông thôn. Xây dựng
các thể chế nông thôn dựa vào cộng đồng: hợp tác xã và các tổ chức nghề
nghiệp của nông dân.

22
SÁCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đề cương bài giảng Các chuyên đề Báo chí, Tác giả Nguyễn Đình Hòa,

2009.
2. Báo Nông Nghiệp Việt Nam.
3. “Từ điển Tiếng Việt” năm 2008, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hoàng Phê chủ
biên.
4. Từ điển Wikipedia tiếng Việt
5. Nhà Báo Hiện Đại, tác giả: The Missouri Group, Nhiều Người Dịch,
Donna M. Genett, Ph.D., Nguyên Chương, Dale Carnegie, Nxb Trẻ, 2005.
5. Cơ sở lý luận báo chí, Nhà xuất bản văn hóa Thông tin, năm 1999, Tạ
Ngọc Tấn chủ biên).
6. Nghề Báo, nhà xuất bản Kim Đồng, năm 2005, do Nguyễn Thắng Vu chủ
biên.)
7. Các trang Web: Vietnam Journalism, xaluan.com, nghebao.com,
songtre.vn, vietbao.vn
23

×