Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tiểu luận Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý báo chí ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.2 KB, 18 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Báo chí có vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội nói chung,
văn hóa nói riêng. Các quan hệ xã hội về báo chí rất đa dạng, phong phú và phức
tạp. Nó đan xen giữa văn hóa - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo của
tư duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu
thông và tiêu dùng hàng hóa. Hoạt động báo chí là kênh thông tin quan trọng để
tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần ổn định chính
trị, phát triển văn hóa và kinh tế, nâng cao dân trí, đời sống tinh thần của nhân
dân Do đó, tăng cường quản lý nhà nước (QLNN) về báo chí là vấn đề quan
trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Trong luật pháp cũng như các
chủ trương, sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý báo chí ngày càng khoa học, phù hợp với
sự phát triển của báo chí. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X về
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí, Đảng ta đã chỉ rõ: “… Báo chí phải nắm
vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời có hiệu quả đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, bám sát nhiệm công tác tư tưởng, tích
cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu của công cuộc đổi mới; đổi mới tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước
đối với báo chí…”.
Sự đổi mới và phát triển của báo chí luôn gắn liền với sự nghiệp đổi mới
của đất nước.
Nghiên cứu hoạt động báo chí và thực trạng phát triển báo chí, công tác
quản lý nhà nước về báo chí. Nghiên cứu thực trạng, cơ chế, chính sách, luật
pháp quản lý nhà nước về báo chí; đánh giá những điểm mạnh, hạn chế của cơ
chế, chính sách, luật pháp quản lý nhà nước về báo chí đối với các cơ quan báo
chí và cơ quan quản lý nhà nước về báo chí trong thời gian qua; tìm ra những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động báo chí ở nước ta
hiện nay.
1
NỘI DUNG
Chương1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức


tạp, làm tốt công tác chỉ đạo, quản lý của nhà nước đối với báo chí chính là tạo
lập cơ sở, điều kiện cho báo chí phát triển theo xu hướng tích cực, bảo đảm tính
khoa học về số lượng, hình thức chat lượng, nội dung, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, nhằm thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Theo điều 9, Nghị định số 51/NĐ/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 của Chính
Phủ quy định chi tiết thi hành Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số diều của
Luật báo chí quy định: “ Bộ văn hóa – Thông tin chịu trách nhiệm trước Chính Phủ
thực hiện quản lý nhà nước về báo chí, có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Lập và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp báo
chí (bao gồm báo in, báo điện tử, thông tấn, phát thanh, truyền hình) ; kế hoạch
đầu tư, ngân sách, quy hoach, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí. Tổ
chức, quản lý công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh
vực thông tin đại chúng;
- Soạn thảo dự án luật, văn bản dưới luật, chính sách, chế độ về báo chí,
hướng dẫn thi hành các chủ trương, chính sách về báo chí, chính sách đầu tư, tài
trợ cho báo chí, chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cơ quan báo chí và nhà báo;
- Cấp và thu hồi giấy phép hoạt động báo chí theo quy định tại Điều 19
Luật báo chí; cấp giấy phép xuất bản đặc san, số phụ, phụ trương, chương trình
đặc biệt, chương trình phụ theo quy định tại Điều 21 Luật báo chí;
- Cấp và kiểm tra việc sử dụng thẻ nhà báo, thu hồi thẻ nhà báo;
- Kiểm tra báo lưu chiểu, quản lý kho lưu chiểu báo chí quốc gia;
- Khen thưởng các tổ chức, cá nhân, cơ quan báo chí và nhà báo có thành
tích. Thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp kiểm tra việc phối hợp kiểm tra thực hiện
Luật báo chí và xử lý các quy định về báo chí;
- Tổ chức thông tin cho báo chí theo các quy định của Luật báo chí;
- Quản lý các hoạt động của báo chí và nhà báo trong cả nước, phối hợp
với các cơ quan hữu quan quản lý hoạt động của Báo chí Việt Nam liên quan đến
nước ngoài và hoạt động báo chí của người nước ngoài, tổ chức nước ngoài tại
Việt Nam; kết các điều ước quốc tế trong lĩnh vực báo chí; phối hợp với các Bộ,

các cơ quan ngang Bộ quản lý báo chí theo lĩnh vực theo sự phân công của
Chính phủ.
Cục báo chí là các cơ quan giúp Bộ Văn hóa -Thông tin thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về báo chí trong cả nước”
2
Ngày 25/12/2007, Chính phủ ban hành Nghị định 187/2007/NĐ – CP quy
định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ thông tin và
Truyền thông, trong đó quy định rõ: “ Bộ thông tin và Truyền thông là cơ quan của
Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước về báo chí, xuất bản …”. Để
huyên trách hơn, bên cạnh Cục báo chí (chuyên quản lý báo chí in), Bộ thông tin và
Truyền thông đã thành lập thêm 2 cơ quan quản lý báo chí mới (Cục quản lý thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về báo chí theo hướng chuyên sâu và Cục quản lý
phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử và cục Thông tin đối ngoại).
Nhìn tổng thể trong thời gian qua, công tác quản lý báo chí đã cơ bản
thực hiện tốt các lĩnh vực công tác chủ yếu, đó là: tích cực triển khai, rà soát,
xây dựng mới và sửa đổi, bổ sung nhiều quy phạm pháp luật về báo chí, bước
đầu đáp ứng tốt hơn những nhu cầu mới của công tác quản lý của nhà nước về
lĩnh vực đặc biệt phức tạp và nhạy cảm này; tích cực triển khai việc xây dựng
chiến lược phát triển, quy hoạch hệ thống đối với tất cả các loại hình báo chí.
Bên cạnh việc quản lý thông tin và cung cấp thông tincho báo chí với sự phối
hợp của Ban tuyên giáo Trung ương, Bộ thông tin và truyền thông đã tổ chức
đều đặn và có chất lượng các cuộc giao ban định kỳ hàng tuần, kịp thời chỉ đạo
và định hướng thông tin trên báo chí, đặc biệt là về các sự kiện lớn, quan trọng
đặc biệt nhạy cảm và đột xuất.
Bộ đã chú trọng, quan tâm thực hiện tốt việc định hướng các cơ q uan
báo chí trong việc phát hiện, cổ vũ, nhân rộng điển hình tiên tiến trong phong
trào thi đua yêu nước, tích cực hưởng ứng cuộc vận động “ Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Không chỉ Bộ thông tin và Truyền thông
thường xuyên cung cấp thông tin và chỉ đạo báo chí thông tin theo định hướng
về chương trình, mục tiêu lớn của Chính Phủ, tạo sự đồng thuận trong xã hội,

ủng hộ và đồng hành cùng Chính phủ trong các kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội, mà bên cạnh đó các Bộ, Ngành, địa phương cũng đã kịp thời cung cấp thông
tin và chỉ đạo báo chí tham gia tích cực.
Thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng về báo chí, xuất bản
thành chính sách, pháp luật của nhà nước.
Báo chí, xuất bản là lĩnh vực có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác
tư tưởng, lý luận. Nghị quyết Trung ương 5 khoá X đã nêu rõ công tác tư tưởng,
lý luận và báo chí là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ
hoạt động của Đảng. Chính vì vậy, tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất
bản trong bối cảnh đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, với những
nhiệm vụ cách mạng mới, là yêu cầu hết sức cấp thiết.
Trong thời gian qua công tác báo chí, xuất bản đã đạt được những thành
tích đáng ghi nhận, góp phần vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, ổn định chính
trị xã hội, xứng đáng là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hoá
3
của Đảng. Tuy nhiên, cũng nghiêm khắc nhận thấy rằng những khuyết điểm, yếu
kém trong hoạt động báo chí, xuất bản đang đặt ra cho chúng ta những vấn đề
mới cần tập trung giải quyết nhằm bảo đảm cho công tác thông tin đóng góp
hơn nữa vào công cuộc xây dựng đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Hội nghị
Trung ương 5 khoá X đã ra nghị quyết về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí
trước yêu cầu mới; Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều chỉ thị, quyết
định, thông báo, thông tri, kế hoạch nhằm chỉ đạo tăng cường công tác quản lý
báo chí, xuất bản, với các nguyên tắc: tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước với công tác báo chí, xuất bản; phát triển đi đôi
với quản lý tốt; nâng cao vai trò của cấp uỷ đảng, cơ quan tham mưu của Đảng,
các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chủ quản
trong việc lãnh đạo, chỉ đạo quản lý báo chí, xuất bản; xử lý nghiêm minh các
sai phạm; rà soát, sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật về báo chí,

xuất bản, bảo đảm không có báo chí tư nhân, làm tốt công tác tư tưởng và giữ
vững trận địa tư tưởng trong bối cảnh tình hình bên ngoài và trong nước có
những diễn biến mới, phức tạp.
Nghị quyết và những văn bản chỉ đạo của Đảng đã góp phần quan trọng
trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về báo
chí, xuất bản. Có thể nêu một số văn bản quan trọng gần đây như:
Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 22-7-2005 của Ban Bí thư về phát triển và
quản lý báo điện tử ở nước ta hiện nay; Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày
11-10-2006 của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản
lý báo chí; Thông báo kết luận số 68-TB/TW ngày 30-3-2007 của Bộ Chính trị
về tiếp tục thực hiện Thông báo số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị
về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí; Quyết định số 75-
QĐ/TW ngày 21-8-2007 của Ban Bí thư về việc ban hành Quy chế bổ nhiệm,
miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí; Quyết định
số 155-QĐ/TW ngày 23-4-2008 của Ban Bí thư về việc ban hành Quy định về sự
phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và
Truyền thông, Đảng đoàn Hội Nhà báo Việt Nam và các cơ quan Đảng, Nhà
nước trong công tác chỉ đạo, quản lý báo chí; Quyết định số 157-QĐ/TW ngày
29-4-2008 của Ban Bí thư về việc ban hành Quy định về chỉ đạo, định hướng
chính trị, tư tưởng, nhất là đối với các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm
trong nội dung thông tin của báo chí; Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 31-7-2008 của
Ban Bí thư về tăng cường công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí;
Quyết định số 202-QĐ/TW ngày 11-12-2008 của Ban Bí thư về việc ban hành
4
Quy chế phối hợp và gắn kết công tác tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, báo chí.
Trong lĩnh vực xuất bản, cùng với Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 17-10-1997
của Bộ Chính trị, Thông tri số 01/TT-TW ngày 25-12-2001, Ban Bí thư Trung
ương Đảng khoá IX đã ra Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 25-8-2004 về nâng cao
chất lượng toàn diện hoạt động xuất bản.

Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo của Đảng về báo chí, xuất bản được
đúc kết từ thực trạng phát triển của báo chí, xuất bản và thực tiễn công tác chỉ
đạo, định hướng báo chí, xuất bản trong tình hình mới, nên đã chỉ rõ những vấn
đề còn tồn tại trong công tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, đồng thời
định hướng phát triển với tầm nhìn bao quát, góp phần nâng cao nhận thức cho
các cấp uỷ đảng về lĩnh vực tư tưởng quan trọng này.
Trong lĩnh vực báo chí, các văn bản của Đảng thời gian gần đây đã chỉ rõ
nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan quản lý nhà nước về báo chí là việc rà soát quy
hoạch, sắp xếp lại hệ thống các cơ quan báo chí thuộc tất cả các loại hình, bảo
đảm tổ chức và hoạt động đúng với Luật Báo chí; tổng kết, nghiên cứu, đề xuất
nội dung sửa đổi Luật Báo chí theo hướng giữ vững bản chất của báo chí cách
mạng và tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí và
người làm báo trước Đảng, Nhà nước và nhân dân
Trong lĩnh vực xuất bản, các văn bản của Đảng đã chỉ rõ hoạt động xuất
bản phải coi trọng việc phục vụ nhiệm vụ chính trị, tư tưởng, đáp ứng nhu cầu
đọc của nhân dân, đồng thời phải thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, xây dựng
ngành xuất bản thành một ngành kinh tế - công nghiệp phát triển toàn diện, vững
chắc; xây dựng những chính sách và cơ chế phù hợp để xuất bản hoạt động có
hiệu quả trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện công tác thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng về báo
chí, xuất bản thành chính sách, pháp luật của Nhà nước
Thứ nhất, các cơ quan làm công tác xây dựng pháp luật đã quán triệt sâu
sắc tinh thần chỉ đạo của Đảng, thể chế hoá trong tất cả các văn bản quy phạm
pháp luật về báo chí, xuất bản nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý;
không có báo chí tư nhân; phát triển đi đôi với quản lý tốt
Thứ hai, hầu hết các khuyết điểm, yếu kém trong hoạt động và công tác
báo chí, xuất bản mà văn bản chỉ đạo của Đảng đã nêu rõ đều được thể chế hoá
trong các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xuất bản, thành các chế tài,
quy định hết sức cụ thể, rõ ràng nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém,
tạo điều kiện cho báo chí, xuất bản phát triển. Ví dụ như việc xây dựng quy chế

xác định nguồn tin trên báo chí để khắc phục tình trạng đăng thông tin không rõ
nguồn gốc, thông tin liên quan đời tư công dân; hay Thông tư hướng dẫn việc
thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên thường trú ở trong nước
5
của cơ quan báo chí nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng trong hoạt động tác
nghiệp của cơ quan báo chí, phóng viên tại địa phương, đồng thời nâng cao vai
trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý báo chí tại địa phương, chấn chỉnh những
bất cập, lộn xộn của hoạt động đặt văn phòng đại diện và cử phóng viên thường
trú như đã từng xảy ra trước khi ban hành Thông tư
Công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển sự nghiệp báo chí được thực hiện nghiêm túc, đúng định hướng và sự
chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính
trị tại các Thông báo số 162-TB/TW, số 41-TB/TW và số 68-TB/TW về một số
biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 388/QĐ-TTg ngày 13-5-2005 và Chỉ thị số 37/2006/CT-TTg ngày 29-
11-2006 của Thủ tướng Chính phủ thực hiện kết luận của Bộ Chính trị. Chỉ thị
số 37 của Thủ tướng Chính phủ một lần nữa khẳng định: “Kiên quyết không để
tư nhân hoá báo chí dưới mọi hình thức và không để bất cứ tổ chức hoặc cá nhân
nào lợi dụng, chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất
nước”.
Với tinh thần đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng và triển
khai Chương trình hành động thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị và Quyết định,
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Bộ đã và đang tiếp tục tiến hành rà
soát chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí, xác định những ấn phẩm chồng
chéo về tôn chỉ, mục đích, chức năng nhiệm vụ, không phù hợp quy hoạch đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đã trình Thủ tướng Chính phủ quyết định
phê duyệt đề án quy hoạch báo chí in đến năm 2020; xây dựng Kế hoạch phát
triển hệ thống phát thanh - truyền hình địa phương đến năm 2020
Công tác xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí được Bộ Thông tin và Truyền

thông quan tâm chỉ đạo thực hiện nên đã đạt được một số kết quả nhất định.
Về báo chí, quán triệt chỉ đạo của Đảng, Ban soạn thảo xây dựng Luật
Báo chí sửa đổi do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì đã hoàn thành dự thảo
lần thứ 12 trình Chính phủ, nội dung quán triệt nguyên tắc: sửa Luật Báo chí là
nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; không có báo
chí tư nhân; tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí phát triển nhanh, vững chắc theo
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phục vụ sự
phát triển của đất nước; khắc phục những mặt hạn chế, thiếu sót của hoạt động
báo chí; đề cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ của các cơ quan báo chí, nhà báo;
trách nhiệm của toàn xã hội đối với hoạt động báo chí trong giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
6
Cùng với việc sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí hiện hành, quán triệt sự chỉ
đạo của Đảng, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã đồng thời tiến hành xây
dựng mới hoặc rà soát nhằm sửa đổi, bổ sung hàng loạt văn bản pháp lý để điều
chỉnh kịp thời những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn, trong đó có những
vấn đề đặc biệt nhạy cảm và phức tạp như việc quản lý blog, quản lý nguồn tin
trên báo chí, quản lý các văn phòng đại diện và phóng viên thường trú hoạt động
tại các địa phương và nhiều vấn đề cấp bách khác. Trong thời gian qua, Bộ
Thông tin và Truyền thông đã lần lượt ban hành, xây dựng văn bản trình Chính
phủ ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như: Quyết định số
77/2007/QĐ-TTg ngày 28-5-2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế
phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí. Quyết định số 22/2009/QĐ-TTg
ngày 16-2-2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch Truyền
dẫn phát sóng phát thanh, truyền hình đến năm 2020. Thông tư số 07/2007/TT-
BVHTT ngày 20-3-2007 hướng dẫn cấp, đổi và thu hồi thẻ nhà báo; Quyết định
số 49/2008/QĐ-BTTTT ngày 26/9/2008 ban hành Quy chế phát ngôn và cung
cấp thông tin cho báo chí của Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ đã chủ trì phối

hợp với các cơ quan có liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị định số
97/2008/NĐ-CP ngày 28-8-2008 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet
và thông tin điện tử trên Internet.
Hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đang xây dựng và sẽ ban hành trong
thời gian tới một số văn bản như: Thông tư hướng dẫn việc cấp giấy phép hoạt động
báo chí; thu hồi, tịch thu ấn phẩm báo chí; đình bản tạm thời và thu hồi giấy phép
hoạt động báo chí; Thông tư hướng dẫn việc quản lý chất lượng tín hiệu đầu cuối
truyền hình cáp tương tự; Thông tư liên bộ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và tổ chức bộ máy hệ thống phát thanh, truyền hình từ tỉnh đến cơ sở; Thông tư
hướng dẫn Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về quản lý thông tin trên In-tơ-net
Về xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tích cực trong việc tham
mưu, đề xuất với Chính phủ và một số bộ, ngành có liên quan từng bước xây
dựng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, như trong vòng gần 5 năm, 2
lần tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản năm 1993 (năm
2004 và năm 2008) và xây dựng hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Xuất bản để triển khai thực hiện đồng bộ khi Luật có hiệu lực thi hành.
Việc sửa đổi Luật Xuất bản đã bảo đảm thể chế hoá một cách khoa học
và toàn diện các quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động xuất bản,
đồng thời bảo đảm sự phát triển ổn định của hoạt động xuất bản cả trước mắt và
lâu dài; đặc biệt tạo sự tự chủ, năng động, sáng tạo cho các đơn vị trong hoạt
động xuất bản. Nội dung sửa đổi, bổ sung đã kế thừa những quy định còn phù
hợp trong Luật Xuất bản năm 1993, bổ sung những vấn đề mới do thực tiễn và
yêu cầu phát triển của hoạt động xuất bản đặt ra; cụ thể hoá những quy định còn
7
chung chung, mang tính nguyên tắc hoặc quá đơn giản; bỏ những quy định đã lạc
hậu hoặc thiếu tính khả thi.
Trong quá trình thực thi, Luật Xuất bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động xuất bản phát triển đúng định hướng chính trị của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác quản lý xuất bản và chất lượng xuất bản
phẩm, khắc phục những quy định không còn phù hợp hoặc thiếu khả thi do sự

phát triển nhanh chóng của thực tiễn; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của
các đơn vị xuất bản, các cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý nhà nước và của cá
nhân đối với hoạt động xuất bản, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới
của Đảng.
Mặc dù vậy việc thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng trong công
tác xây dựng pháp luật về báo chí, xuất bản có những thời điểm còn chậm, thiếu
sự chủ động.
Tình hình đó có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết là do việc xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xuất bản chưa bảo đảm tiến độ chương
trình đề ra dẫn đến công tác thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng thành
pháp luật của Nhà nước bị chậm lại về thời gian.
Việc thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng thành các quy định của
pháp luật do Nhà nước ban hành là một nguyên tắc quan trọng trong quy trình
xây dựng pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do vậy, đòi hỏi những người làm
công tác xây dựng pháp luật, chính sách phải nắm chắc đường lối, quan điểm của
Đảng một cách có hệ thống. Thực tế cho thấy một số cán bộ làm công tác xây
dựng pháp luật còn chưa nắm chắc sự chỉ đạo của Đảng liên quan lĩnh vực
chuyên môn nên tỏ ra lúng túng khi triển khai công tác này, đây chính là một
trong những nguyên nhân khiến công tác thể chế hoá chưa mang tính chủ động.
Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thể chế hoá đường lối, quan điểm
của Đảng về báo chí xuất bản trong xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1 - Trước hết, phải nói đến vai trò của đội ngũ những người làm công tác
xây dựng pháp luật, chính sách. Họ phải là những người quán triệt sâu sắc nhất
đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam qua
từng giai đoạn, và đặc biệt là đối với lĩnh vực tư tưởng, lý luận nói chung, báo
chí, xuất bản nói riêng. Cần thiết có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ lý luận, chính trị, bảo đảm cho những cán bộ làm công tác lập pháp
được trang bị đầy đủ, cập nhật thông tin để làm tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao.
2 - Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan tham gia xây dựng
pháp luật, Quốc hội với cơ quan tham mưu của Đảng để các loại văn bản quy

phạm pháp luật về báo chí, xuất bản được ban hành bảo đảm tiến độ thời gian,
không để xảy ra tình trạng văn bản chỉ đạo của Đảng ban hành ra nhưng lại
không được thể chế hoá trong các quy định của pháp luật hoặc không ban hành
8
văn bản quy phạm pháp luật nên những nguyên tắc, chỉ đạo trong văn bản của
Đảng không đến được với thực tiễn của đời sống xã hội.
3 - Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho bộ phận tham mưu, xây
dựng các văn bản của Đảng liên quan lĩnh vực có tính chuyên ngành như báo
chí, xuất bản. Bộ phận này có tinh thông nghiệp vụ, bám sát thực tiễn hoạt động
và công tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản thì mới làm tốt nhiệm vụ tham
mưu cho Đảng, góp phần nâng cao hiệu quả văn bản chỉ đạo của Đảng, để từ đó
chất lượng và hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phù hợp
và điều chỉnh kịp thời thực tiễn phát triển của hoạt động báo chí, xuất bản trong
xu thế hội nhập sâu rộng với thế giới./.
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Trong những ngày đầu năm mới 2007 và chuẩn bị đón Xuân Ðinh Hợi,
trên vùng đất Quảng Ninh thơ mộng, giàu truyền thống văn hóa, cách mạng và
đang đổi mới mạnh mẽ, chúng ta cùng nhau thực hiện một công việc quan trọng
và mang nhiều ý nghĩa: Sơ kết, đánh giá hai năm thực hiện Thông báo kết luận
162-TB/T.Ư của Bộ Chính trị Khóa IX về tăng cường lãnh đạo, quản lý báo chí.
Lời đầu tiên, cho phép tôi thay mặt Ban Bí thư, Ban Tư tưởng - Văn hóa
T.Ư và các cơ quan chủ trì tổ chức hội nghị, xin gửi tới tất cả các đồng chí lời
chúc mừng tốt đẹp nhất: Năm mới - sức khỏe, hạnh phúc và thành công !
Như chúng ta đều biết: Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Ðảng
và Nhà nước ta luôn coi trọng vị trí, vai trò, tác dụng to lớn của báo chí đối với
xã hội; đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về lãnh đạo và quản
lý báo chí. Cách đây hai năm, ngày 1-12-2004, Bộ Chính trị (Khóa IX), ra Thông
báo kết luận số 162-TB/T.Ư Về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí

trong tình hình hiện nay. Gần đây, ngày 11-10-2006, Bộ Chính trị (khóa X), tiếp
tục ban hành Thông báo kết luận số 41-TB/T.Ư Về một số biện pháp tăng cường
lãnh đạo, quản lý báo chí.
Hội nghị chúng ta tổ chức hôm nay là để triển khai thực hiện một trong 5
nhiệm vụ lớn mà Thông báo kết luận 41-TB/T.Ư nêu ra: "Ban Tư tưởng - Văn
hóa T.Ư chủ trì, phối hợp với Ban Cán sự đảng Bộ Văn hóa - Thông tin, các cấp
ủy, ban cán sự, đảng đoàn, cơ quan chủ quản và các cơ quan báo chí tiến hành sơ
kết, đánh giá nghiêm túc hai năm thực hiện Thông báo kết luận số 162-TB/T.Ư
của Bộ Chính trị.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, trong thời gian qua,
Ban Tư tưởng - Văn hóa T.Ư, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội Nhà báo Việt Nam
9
và một số cơ quan của Ðảng và Chính phủ đã tổ chức Hội nghị quán triệt nội
dung Thông báo kết luận số 41-TB/T.Ư và hướng dẫn sơ kết hai năm thực hiện
Thông báo kết luận số 162-TB/T.Ư.
Ngay sau hội nghị đó, đồng chí Thường trực Ban Bí thư cùng lãnh đạo
các cơ quan chức năng cũng đã có buổi làm việc với lãnh đạo một số bộ, ngành,
đoàn thể, địa phương là chủ quản của một số cơ quan báo chí. Ban Tư tưởng -
Văn hóa T.Ư và Bộ Văn hóa - Thông tin cũng đã tham dự sơ kết, đánh giá hai
năm thực hiện Thông báo kết luận 162 tại một số bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa
phương và cơ quan báo chí.
Tuy nhiên cũng cần thẳng thắn nói rằng, vẫn còn không ít cơ quan chủ
quản và cơ quan báo chí, có thể do suy nghĩ đơn giản cho rằng, những vấn đề
cần chỉ đạo, định hướng, nhắc nhở đã được tiến hành hằng tuần, hằng tháng, cho
nên việc sơ kết chưa được tiến hành nghiêm túc.
Quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta về tăng
cường quản lý báo chí trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí sẽ tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về báo chí;
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh các cơ quan báo chí
và nhà báo có sai phạm; biểu dương kịp thời các cơ quan báo chí, nhà báo hoàn

thành tốt nhiệm vụ, góp phần tạo phong trào hành động cách mạng trong đời
sống xã hội.
Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, nhân dân ta đã thực
hiện công cuộc đổi mới hơn 20 năm. Trong quãng thời gian đáng ghi nhớ ấy, đất
nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những bước chuyển cơ
bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thu được những thắng lợi
quan trọng. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định,
quốc phòng - an ninh được giữ vững. Thế và lực của nước ta trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng rõ hơn.
Công cuộc đổi mới của chúng ta thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Trong thành tích chung ấy, có phần đóng góp xứng đáng của đội ngũ báo chí.
Với khẩu hiệu "Đổi mới báo chí vì sự nghiệp đổi mới đất nước", báo chí nước ta
những năm vừa qua tiếp tục phát triển mạnh mẽ về số lượng, loại hình, ấn phẩm,
công nghệ, phạm vi tác động đến công chúng.
Tính đến nay, cả nước có 687 cơ quan báo chí với khoảng hơn 800 ấn
phẩm, gồm có 172 báo (trung ương: 71; địa phương: 101); 448 tạp chí (trung
ương: 352; địa phương: 96); 67 đài phát thanh, truyền hình (trung ương: 02; địa
phương: 65); 5 báo điện tử, 105 trang tin điện tử của các cơ quan báo chí; hàng
nghìn trang tin điện tử của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
10
Ở tất cả các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội đều có cơ quan báo chí.
Các bộ có số lượng lớn là Bộ Quốc phòng (trên 20 cơ quan báo chí), Bộ Công an
(gần 20 cơ quan báo chí), Bộ Y tế (15 cơ quan báo chí). Tổ chức chính trị - xã
hội có nhiều cơ quan báo chí, nhất là Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh với 10 cơ quan báo chí. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
đều có ít nhất từ 2 đến 3 cơ quan báo chí, gồm báo của đảng bộ địa phương, đài
phát thanh - truyền hình, tạp chí của hội văn nghệ. Các địa phương có nhiều cơ
quan báo chí nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,

Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Đồng Nai
Xét về tổ chức chiều dọc, chúng ta có hệ thống báo chí từ trung ương đến
địa phương; về tổ chức chiều ngang, chúng ta có báo, tạp chí của các bộ, ngành,
các lĩnh vực như hệ thống báo chính trị - xã hội; hệ thống báo kinh tế; hệ thống
báo giáo dục, y tế, văn học - nghệ thuật Báo, tạp chí của đủ các lứa tuổi từ
thiếu niên, nhi đồng đến người cao tuổi.
Với bốn loại hình báo chí (báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử), báo chí
nước ta đã trở thành hệ thống thông tin đa loại hình, đa phương tiện, làm tốt chức
năng, nhiệm vụ tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đến với nhân dân, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân đến với Đảng, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hoặc xã
hội - nghề nghiệp.
Hơn một vạn nhà báo có mặt ở các vùng miền của đất nước đi sát mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội để phản ánh kịp thời, sinh động phong trào hành
động cách mạng của các tầng lớp nhân dân; cổ vũ công cuộc đổi mới, phát hiện,
nêu gương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt việc tốt; đấu
tranh phòng, chống nạn tham nhũng, quan liêu, lãng phí; chống thông tin, quan
điểm sai trái của các thế lực phản động, thù địch; làm chiếc cầu hữu nghị gắn kết
Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Nghiêm túc nhìn lại những yếu kém trong hoạt động và quản lý báo chí
Bên cạnh các thành tựu và ưu điểm cơ bản vừa nêu, hoạt động báo chí
nói chung, công tác quản lý báo chí nói riêng ở nước ta đang bộc lộ những hạn
chế, yếu kém cần phải nhanh chóng khắc phục sớm.
Thứ nhất, Vẫn còn hiện tượng cơ quan báo chí và nhà báo thông tin sai
sự thật, thể hiện chủ yếu ở mảng bài viết về các vụ án. Nhiều trường hợp đưa
thông tin sai sự thật nhưng khi bị phát hiện, bị khiếu nại không được cải chính
hoặc cải chính không nghiêm túc. Nhiều doanh nghiệp, tổ chức nhà nước, tập
thể, cá nhân phải điêu đứng, khó khăn khi bị thông tin sai, thậm chí bị vu cáo.
Không ít bài báo vi phạm pháp luật, xâm phạm bí mật đời tư cá nhân, xúc phạm
nghiêm trọng uy tín, danh dự nhân phẩm của công dân. Tình trạng thông tin

thiếu trung thực, suy diễn, thổi phồng, khoét sâu vào những thiếu sót, khuyết
11
điểm của một số tổ chức, cá nhân, tô đậm mặt trái, những hiện tượng tiêu cực, tệ
nạn xã hội diễn ra đáng lo ngại. Hiện tượng này đang lặp lại tại không ít cơ
quan báo chí và đang có chiều hướng gia tăng. Đây là hệ quả của lối làm báo
chụp giật vô trách nhiệm, thậm chí xuất phát từ động cơ xấu của một số phóng
viên nhằm tạo ra những "sự cố", những vụ tai tiếng, những vụ giật gân, câu
khách. Thông tin sai sự thật còn là biểu hiện của sự cẩu thả, tắc trách, coi thường
bạn đọc, coi thường pháp luật trong quy trình biên tập, thẩm định, xét duyệt tin,
bài của những người có trách nhiệm quản lý và điều hành cơ quan báo chí.
Thứ hai, đó là sự thiếu nhạy cảm về chính trị, đưa thông tin không có lợi
cho quốc gia, gây bất lợi cho hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và
công tác đối ngoại. Vẫn còn tình trạng nhà báo thường sa đà vào "mảng tối", mặt
trái của đời sống xã hội, tạo nên bức tranh ảm đạm, bi quan về đất nước, địa
phương, cơ quan, đơn vị. Những thông tin này tạo nên hiệu ứng không tốt trong
công chúng, tạo cái nhìn thiên lệch cho người nước ngoài về Việt Nam; bị các
đối tác và đối thủ nước ngoài triệt để khai thác, lợi dụng nhằm gây sức ép với
nhà nước ta trên các bàn đàm phán đa phương và song phương về chính trị, kinh
tế, thương mại, đầu tư
Thứ ba, một số cơ quan báo chí và nhà báo sa đà vào các thông tin dung
tục, giật gân, tình dục, bạo lực, mê tín dị đoan, không phù hợp với thuần phong
mỹ tục Việt Nam nói chung và của thành phố nói riêng, làm suy giảm tính định
hướng, tính giáo dục và tính thẩm mỹ của báo. Đây là xu hướng đáng báo động
trong hoạt động báo chí. Những câu chuyện phòng the tục tĩu, tự nhiên chủ
nghĩa, những hình ảnh hở hang, khêu gợi những câu chuyện về đồng bóng, bói
toán, gọi hồn có nơi, có lúc rộ lên làm xôn xao dư luận. Thực chất, đó là một
kiểu lừa phỉnh công chúng, để bán báo, đăng tải quảng cáo.
Thứ tư, có cơ quan báo chí thực hiện chưa nghiêm túc định hướng thông
tin; thực hiện không đúng tôn chỉ, mục đích đã được quy định trong giấy phép do
Bộ Văn hóa - Thông tin cấp; chấp hành không đầy đủ, không đúng các quy định

của pháp luật về báo chí. Dạng vi phạm này có chiều hướng ngày càng gia tăng
và chủ yếu xảy ra ở các số phụ, số cuối tuần, cuối tháng, số chuyên đề. Một số
cơ quan chủ quản xin ra báo, tạp chí rồi phó mặc cho cơ quan báo chí. Đã xảy ra
trường hợp cơ quan báo chí "bán cái", để tư nhân "núp bóng" hoặc thao túng.
Đây cũng là một trong những vấn đề "nóng" cần có sự điều chỉnh trong quá trình
quản lý hoạt động báo chí.
Thứ năm, lãnh đạo một số cơ quan báo chí không thực hiện đúng các
quy định của Luật Báo chí, không chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo và định
hướng thông tin đã được phổ biến trong các cuộc giao ban, cho đăng tải các
thông tin không có lợi, làm lộ bí mật nhà nước, gây thiệt hại đến lợi ích của đất
nước, của nhân dân. Thậm chí, đã có trường hợp cán bộ của một số cơ quan báo
12
chí có hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật. Đã có hiện
tượng liên kết không lành mạnh giữa một số phóng viên, hoặc giữa một số lãnh
đạo cơ quan báo chí nhằm đánh vào một số tổ chức, cá nhân theo kiểu "hội
đồng". Có trường hợp báo chí đăng tải điều tra, kiểm tra, thanh tra chưa có kết
luận chính thức, gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận, gây mất đoàn kết nội
bộ của các tổ chức, cơ quan. Trong số đó, cũng có những người vì tư lợi đã biến
ngòi bút của mình trở thành công cụ cho phe, nhóm trong những cuộc tranh
giành, đấu đá với mục đích trục lợi. Điều này cho thấy trách nhiệm xã hội và đạo
đức nghề nghiệp của một bộ phận nhà báo bị suy giảm đến mức đáng lo ngại.
Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ BÁO CHÍ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
- Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội X của Đảng và các quan điểm chỉ
đạo của Đảng, Nhà nước ta về tăng cường công tác quản lý báo chí (thể hiện
qua: Chỉ thị 22/CT-TW của Bộ Chính trị khóa VIII; Thông báo số 162-TB/TW
của Bộ Chính trị khóa IX; Thông báo số 41 TB/TW và Thông báo số 68-TB/TW
của Bộ Chính trị khóa X; Quyết định số 388/QĐ-CP và Chỉ thị số 37/2006/TC-
TTg của Thủ tướng Chính phủ), để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới đất nước,
giao lưu, hội nhập với bên ngoài, trong thời gian tới, cơ quan quản lý nhà nước

về báo chí sẽ tiến hành triển khai một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục rà soát và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về báo
chí. Có kế hoạch tổng kết, đánh giá việc thực hiện Luật Báo chí và các văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành để đề xuất việc sửa đổi, bổ sung phù hợp với yêu
cầu thực tiễn công tác quản lý báo chí và hoạt động báo chí.
Hai là, có hình thức biểu dương, khen thưởng kịp thời các cơ quan báo
chí và nhà báo hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện nghiêm tôn chỉ, mục đích,
thông tin đạt hiệu quả cao, có sáng kiến và thành tích trong việc định hướng, tạo
dư luận, tạo phong trào hành động cách mạng trong đời sống xã hội.
Ba là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời, kiên quyết,
nghiêm minh các cơ quan báo chí và nhà báo có sai phạm. Đối với trường hợp vi
phạm kéo dài, lặp đi lặp lại phải đình chỉ hoạt động để kiện toàn, củng cố.
Bốn là, đánh giá tình hình hoạt động của các cơ quan báo chí thường để
xảy ra sai phạm, các cơ quan báo chí có xu hướng thoát ly sự quản lý của các cơ
quan chủ quản và cơ quan chỉ đạo, quản lý nhà nước về báo chí, không để tư
nhân "núp bóng" để chi phối nội dung báo chí; đánh giá về hiệu quả của hoạt
động hợp tác báo chí với nước ngoài trong việc thực hiện dự án đào tạo lại và
nâng cao nghiệp vụ báo chí cho phóng viên, biên tập viên và cán bộ quản lý báo
chí Việt Nam.
13
Năm là, đề nghị Đảng và Nhà nước cho phép nghiên cứu thử nghiệm xây
dựng một vài mô hình tập đoàn báo chí để rút kinh nghiệm chỉ đạo.
Sáu là, tiếp tục thực hiện việc đăng phát công khai các sai phạm của cơ
quan báo chí và hình thức xử lý sai phạm của cơ quan quản lý nhà nước về báo
chí trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Bảy là, phối hợp chặt chẽ với Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo
Trung ương tiến hành xây dựng quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ
luật cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí; tạo lập được đội ngũ lãnh đạo các cơ quan
báo chí vừa có đức vừa có tài, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Trung ương và cơ quan chủ quản
báo chí trong việc sắp xếp hợp lý hệ thống báo chí; rà soát, chấn chỉnh ngay tình
trạng, cơ quan báo chí xa rời tôn chỉ, mục đích và không chấp hành nghiêm luật
pháp, nhất là Luật Báo chí; thực hiện thanh tra, kiểm tra hoạt động của cơ quan
báo chí theo đúng quy định hiện hành.
Các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội cần thực hiện
nghiêm túc Quy chế người phát ngôn, tăng cường cung cấp thông tin kịp thời
cho báo chí, vừa bảo đảm sự công khai minh bạch trong hoạt động, vừa góp phần
giúp báo chí thông tin trung thực mọi mặt của đời sống xã hội.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức
tạp, hoàn thành những nhiệm vụ nói trên cũng chính là việc tạo lập cơ sở, điều
kiện cho báo chí phát triển theo xu hướng tích cực, đảm bảo tính khoa học về số
lượng, hình thức, chất lượng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn
định nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường "pháp trị" trong quản lý báo chí. Ở đây ý nói đến việc chỉ
đạo, lãnh đạo, nắm giữ hoạt động báo chí thông qua các công cụ luật pháp. Điều
này hoàn toàn không có nghĩa giảm nhẹ sự chỉ đạo chính trị thường xuyên với
hoạt động báo chí. Các công cụ pháp lý không thể thay thế chỉ đạo chính trị,
nhưng là công cụ chủ yếu, cơ bản của lãnh đạo chính trị đối với báo chí trong bối
cảnh mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực ngôn luận. Tăng cường
công cụ này cũng là tăng cường sự lãnh đạo chính trị đối với hoạt động truyền
thông. Các quy định pháp lý đối với hoạt động báo chí càng đầy đủ, chi tiết, thì
càng có tác dụng khuyến khích hoạt động hữu ích, đồng thời ngăn ngừa các sai
phạm của hoạt động báo chí. Cả khi cần chấn chỉnh sai sót thì cũng thuận tiện và
hiệu quả hơn vì đã có các quy định pháp lý cụ thể, chi tiết để vận dụng. Hoàn
chỉnh các quy định luật pháp không những mang lại thuận lợi cho người quản lý,
mà còn thuận lợi cho bản thân hoạt động bị quản lý, bởi có sự minh bạch trong
xử lý các vấn đề của hoạt động đó. Khi đó sự chỉ đạo báo chí sẽ chủ động hơn,
14

chủ yếu là định hướng, cung cấp thông tin, phát huy năng lực sáng tạo của báo
chí. Ví dụ: nếu danh mục các bí mật nhà nước được cụ thể hóa từ sớm, và sát với
thực tế, đồng thời các quy định pháp luật về quyền được thông tin, được khai
thác thông tin, được nhận thông tin của báo chí thật rõ ràng sẽ tránh được
nhiều trường hợp phải xử lý các tình huống báo chí thông tin không có lợi.
Hiện nay Luật Báo chí và các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt
động báo chí, dù đã sửa đổi, bổ sung đáng kể, vẫn còn mang tính chung chung
của luật khung, nhất là các điều khoản quy định các việc báo chí không được
làm. Với tình hình hiện nay, rất khó thông qua luật để điều chỉnh có hiệu quả các
hoạt động của báo chí. Ví dụ: việc thông tin không chính xác về chứng khoán có
thể gây các tác hại lớn cho bộ phận này, lợi lớn cho bộ phận khác. Nhưng nếu áp
dụng các chế tài của quy định pháp luật về báo chí đối với việc thông tin không
chính xác thì chỉ là cải chính và có thể phạt tiền ở mức nào đó. Như vậy mất cân
đối giữa khả năng vi phạm và mức độ răn đe. Có nhiều trường hợp không có quy
định luật pháp nào để xử lý, kể cả quy định dưới luật. Ví dụ: việc phát triển ào ạt
các dịch vụ gia tăng trên báo chí hiện nay (nhắn tin, dự đoán, dịch vụ văn hóa,
giải trí ) làm nảy sinh nhiều lệch lạc, nhưng không dễ xử lý vì không có những
quy định tương ứng để áp dụng. Cần cố gắng sao cho các quy định pháp luật có
thể bao trùm đa số các dạng sai phạm của hoạt động báo chí. Trước mắt cần dồn
sức để hoàn chỉnh Luật Báo chí và các luật liên quan đến báo chí, chuyển từ
dạng luật khung sang luật chi tiết. Khi có những hiện tượng mới của báo chí thì
cần có các quy định dưới luật thật sát và kịp thời.
Báo chí ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, song song với
các quy định pháp luật cần xây dựng và hoàn chỉnh các quy chế lãnh đạo của các
tổ chức đảng đối với hoạt động báo chí, chi tiết hóa các quy định và kỷ luật trong
Đảng đối với các sai lầm, khuyết điểm của đảng viên làm công việc báo chí.
- Tăng cường thực lực của toàn bộ nền báo chí nói chung, đặc biệt là
thực lực của các đơn vị báo chí đầu đàn, để truyền thông nhà nước nhất định đáp
ứng đầy đủ nhu cầu thông tin, nhất định chi phối được dư luận.
Có những quy luật rất khách quan. Trong thông tin không thể có khoảng

chân không, mà vận hành nguyên tắc bình thông nhau. Nếu công chúng không
thỏa mãn những thông tin mà hệ thống báo chí hiện có cung cấp, người ta sẽ có
xu hướng tìm thêm thông tin ở hệ thống truyền thông khác. Vì thế nếu nhìn nhận
toàn cục thì giải pháp tốt nhất là xây dựng cho được một hệ thống báo chí nhà
nước thật mạnh. Khi đó sẽ không còn cơ sở, hoặc ít ra là giảm thiểu lý do đòi hỏi
có thêm các đơn vị báo chí truyền thông ngoài khu vực nhà nước và đoàn thể
cách mạng, tổ chức nghề nghiệp.
Có thể thấy dù có các tiến bộ to lớn của báo chí ở nước ta thời gian qua,
các đơn vị báo chí hiện nay vẫn có những thiếu hụt rất lớn. Nhiều đơn vị báo chí
15
thiếu đội ngũ nhà báo giỏi và có bản lĩnh, cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ
có khi yếu kém. Cơ chế tài chính của các đơn vị báo chí hiện không đồng nhất,
có nhiều bất hợp lý. Đa số các đơn vị báo chí yếu về tài chính, nhất là báo chí địa
phương. Hệ thống báo chí có cơ cấu chưa hẳn hợp lý, có lĩnh vực như phát thanh
- truyền hình khá cồng kềnh, phân tán.
Chúng ta luôn có một số cơ quan báo chí tầm quốc gia có vị thế chủ chốt.
Nhưng vị thế mới chỉ là một yếu tố thuận lợi, thực lực mới là quyết định. Cần xây
dựng các đơn vị này thực sự mạnh về thực lực. Trong toàn bộ hệ thống báo chí, các
đơn vị giữ vị thế đầu tàu, có vai trò là người chi phối dư luận xã hội, giữ nhịp cho
cả hệ thống. Cần phải nhìn nhận thực tế hiện nay chưa đạt được yêu cầu đó.
Cần xây dựng một số tập đoàn báo chí nhà nước mạnh. Mạnh cả về con
người, cả về kinh tế, kỹ thuật. Các tập đoàn mạnh này sẽ đáp ứng phần cơ bản
nhu cầu chính đáng về thông tin của xã hội. Tránh hoặc giảm thiểu nhu cầu có hệ
thống báo chí "khác". Hiện nay có lo ngại về việc nếu các đơn vị báo chí lớn
chuyển sang cơ chế tập đoàn, có nguy cơ bị sa vào mục đích lợi nhuận, sao lãng
nội dung. Nguy cơ này có thật, nhưng nếu có đội ngũ cán bộ lãnh đạo vững và
cơ chế quản lý chặt chẽ thì hoàn toàn có thể xử lý được mối quan hệ giữa kinh tế
báo chí và tôn chỉ của cơ quan báo chí. Nếu các đơn vị hàng đầu này không
mạnh về tài chính, nhân lực, kỹ thuật, tất yếu sẽ dẫn đến sa sút về thực lực,
không theo kịp với nhu cầu xã hội. Khi đó có nguy cơ bị mất bạn đọc, mất khán

giả, mất công chúng. Nguy cơ này lớn hơn nhiều so với nguy cơ lệch hướng vì
quá coi trọng lợi ích kinh tế.
- Hệ thống báo chí truyền thông phải sử dụng để chi phối, chi phối để sử
dụng các năng lực hoạt động truyền thông ngoài khu vực nhà nước.
Như trên đã nói, hiện nay năng lực hoạt động báo chí - truyền thông
trong xã hội đã và đang tích lũy ngày càng nhiều, đòi hỏi "đầu ra". Rất cần giải
tỏa năng lực đó thông qua việc các đơn vị truyền thông nhà nước sử dụng các
năng lực bên ngoài phục vụ cho công việc của mình. Có thể có những quan hệ
hợp tác, đặt hàng trong khâu thực hiện sản phẩm. Hiện nay, mục đích chủ yếu
của các đơn vị ngoài quốc doanh trong lĩnh vực truyền thông là lợi nhuận.
Nhưng trong hoạt động cụ thể họ vẫn có thể gây sức ép để nội dung sản phẩm
mà họ hợp tác với đơn vị nhà nước để làm sẽ phù hợp với nhu cầu lợi nhuận của
họ. Do đó cần phải có sự chọn lọc, phải có tính nguyên tắc cao khi hợp tác. Điều
này phụ thuộc vào người lãnh đạo đơn vị báo chí nhà nước.
Với các dạng truyền thông trên mạng, thái độ duy nhất đúng là can dự
vào để định hướng, lãnh đạo, nhưng không được mất chủ động trong quan hệ
hợp tác.
16
KẾT LUẬN
Trong điều kiện thực hiện cơ chế kinh tế nhiều thành phần, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thời kỳ mở cửa hội nhập thì sự lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động báo chí lại càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì, lãnh
đạo báo chí vừa đảm bảo cho sự thống nhất về tư tưởng, yêu cầu tập trung cổ vũ,
động viên, tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị của
Đảng lại vừa đảm bảo tự do tư tưởng, sáng tạo và nhạy bén của báo chí; tránh
được sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động báo chí, sự quy chụp đối với người làm
báo; sự hạn chế thông tin nhiều chiều và năng động khi phân tích đánh giá các sự
kiện của người làm báo. Sự lãnh đạo của Đảng còn giúp cho báo chí nước ta
không bị động trước sự tấn công của báo chí tư sản và các thế lực thù địch. Hay
nói cách khác, sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí là vấn đề cốt lõi

trong tình hình hiện nay ở nước ta.
Để tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí
cần phải: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí; Đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí; Đổi
mới cách thức lãnh đạo của Đảng và lề lối làm việc theo đúng chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn đã được xác định; Coi trọng, chăm lo công tác xây dựng Đảng
trong các cơ quan báo chí, đề cao trách nhiệm đảng viên của người làm báo nhất
là người giữ cương vị lãnh đạo, thường xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức
đảng, đảng viên trong các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý
báo chí; Sắp xếp và quy hoạch lại và xây dựng chiến lược hoạt động của báo chí,
hoàn thiện Luật báo chí.
17
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ BÁO CHÍ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
PHẦN KẾT LUẬN


18

×