TIỂU LUẬN:
Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động
vốn tại chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Vĩnh
Bảo- Hải Phòng
LỜI NÓI ĐẦU
Mục tiêu mà đảng và nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là phải hoàn thành
nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa việt nam từ một nước nông nghiệp
trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.
Để thục hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất quan trọng,
vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào qui mô
và hiệu quả vốn đầu tư. vì vậy để đáp ứng nhu cầu phát triển và cạnh tranh các doanh
nghiệp việt nam cũng đòi hỏi phải được mở rộng, phát triển với quy mô ngày càng lớn,
đổi mới dây truyền công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, vươn lên cạnh
tranh với hàng hoá, dịch vụ của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. bởi vậy
nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng. một địa chỉ quen thuộc và tiện ích
nhất mà người cần vốn nghĩ đến đó là các ngân hàng thương mại.
Vốn cho đầu tư phát triển có thể được tạo thành từ nhiều nguồn, tuy nhiên trong điều
kiện thị trường tài chính nước ta đang trong giai đoạn bước đầu hình thành và phát triển
thì huy động vốn qua kênh ngân hàng vẫn là phổ biến và hiệu quả nhất. ngân hàng
thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh tiền tệ, hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại vừa với danh nghĩa là một tổ chức hạch toán kinh tế -
kinh doanh, vừa với vai trò trung gian tài chính. với vai trò trung gian tài chính, ngân
hàng thương mại tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân
phối chúng cho các nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác của các
doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế theo các nguyên tắc tín dụng.
Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng của nền kinh tế cũng tương đương với việc huy
động vốn của các ngân hàng thương mại phải được tăng cường, mở rộng cho phù hợp.
mặt khác việc tăng cường huy động và sử dụng vốn hợp lý cũng giúp cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng được an toàn, hiệu quả hơn.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng tăng và đòi
hỏi phải được đáp ứng nhanh chóng kịp thời. do vậy, trong thời gian tới để phát huy hơn
nữa vai trò của mình và đáp ứng cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như cho chính
bản thân hệ thống ngân hàng, việc huy động vốn cho kinh doanh trong tương lai chắc
chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với các ngân hàng thương mại và ngõn hàng nụng
nghiệp và phỏt triển nụng thụn vĩnh bảo- hải phũng cũng không là ngoại lệ. vấn đề tìm ra
những giải pháp để hoàn thiện công tác huy động vốn là rất thiết thực và cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở trường, cùng
với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm hiểu tình hình thực tế tại
ngõn hàng nụng nghiệp và phỏt triển nụng thụn vĩnh bảo- hải phũng vừa qua, em đã
mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Vĩnh Bảo- Hải Phòng”.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.vốn và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
1.1.1.Khái niệm về vốn của Ngân hàng Thương mại
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập hoặc
huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại là một bộ phận thu nhập quốc
dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở
hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau, nhưng chính
những mục đích đó là một phần quan trọng trong việc quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt
động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của Ngân hàng Thương mại.
1.1.2.Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng Thương mại
*Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có
vốn bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu quyết định đến khả năng kinh doanh của ngân
hàng. Riêng đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để Ngân hàng Thương mại tổ chức mọi hoạt
động kinh doanh của mình. Vốn càng lớn thì ngân hàng càng mạnh, điều đó chứng tỏ
việc xử lý khả năng thanh khoản của ngân hàng là lớn mạnh hay yếu kém. Nếu khách
hàng rút vốn mà ngân hàng đủ tiền trả thì ngân hàng đủ khả năng thanh khoản, nếu khách
hàng rút vốn mà ngân hàng không đủ vốn để trả thì ngân hàng không đủ khả năng thanh
khoản. Khi tổ chức kinh tế đến đòi tiền (như thuế) mà ngân hàng không đủ khả năng trả
thì ngân hàng rơi vào trạng thái rủi ro thanh khoản hay đứng ở một góc độ khác khi ngân
hàng không đáp ứng đủ nhu cầu tiền mặt của các hoạt động xung quanh thì được coi là
rủi ro thanh khoản dù đó là bất kỳ ai, bất kỳ tổ chức nào.
Vốn lớn quyết định ngân hàng có dự trữ sơ cấp lớn. Điều này cho thấy là ngân
hàng chống lại được việc rút tiền đột ngột của khách hàng. Dự trữ sơ cấp của ngân hàng
chủ yếu là tiền mặt tại quỹ, tiền gửi các tổ chức kinh tế, các NHTM khác. Vốn càng lớn
thì khả năng đầu tư vào thứ cấp càng cao. Vốn càng lớn thì ngân hàng càng dễ đi vay các
ngân hàng khác và cho các ngân hàng khác vay. Vốn càng lớn thì sự hỗ trợ của cơ quan
quản lý vĩ mô càng cao và rất khó có khả năng thanh khoản. Chính vì vậy, ngân hàng có
thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh
tranh có hiệu quả nhằm giữ chữ tín và nâng cao vị trí của ngân hàng trên thị trường.
*Vốn nhiều quyết định mở rộng phát triển khả năng sinh lời cao
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ và
thị trường chứng khoán. Chúng ta có thể thấy được vai trò quan trọng của vốn đối với
hoạt động của ngân hàng, vốn của ngân hàng càng lớn thì quyết định khả năng mở rộng
và phát triển chi nhánh càng cao đồng thời quyết định khả năng sinh lời của ngân hàng.
Nếu ngân hàng có nhiều vốn thì sẽ mở rộng cho vay và dễ tiếp cận với khách hàng lớn
nhưng không được vượt quá 15% giá trị vốn tự có của ngân hàng. Vốn lớn thì khả năng
được đầu tư của ngân hàng càng nhiều nhưng không được vượt quá 40% giá trị vốn tự có
của ngân hàng (Căn cứ Quyết định 457/2005 của NHNN Việt Nam).
Chính vì thế, có thể nói: vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân
hàng. Do đó, vốn nhiều hay ít quyết định rất lớn đến ngân hàng, đòi hỏi ngân hàng luôn
luôn quan tâm tới việc đáp ứng đủ nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, phải giữ cho
nguồn vốn tăng tương đối và ổn định, vững mạnh.
*Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên
thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động
đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín đó phải
được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng của ngân
hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng
lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với
vốn của ngân hàng nói chung và với vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm
năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng,
tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao
thanh thế trên thị trường.
*Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với "nguyên liệu" chính là tiền
gửi của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút vốn đồng
thời khả năng lớn về vốn là điều kiện thuận lợi với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ
tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô khối lượng tín dụng, một phần lớn
là do quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại của ngân hàng. Ngân
hàng phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của ngân hàng trên
mọi lĩnh vực. Ngân hàng chủ động về thời gian, thời hạn cho vay thậm chí quyết định
đến mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó cho thấy ngân hàng thu hút được
càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng càng tăng lên nhanh chóng và
ngân hàng có nhiều thuận lợi trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện bổ sung thêm vốn
tự có của ngân hàng.
Vốn càng lớn thì khả năng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng càng tốt, vốn
lớn thì đào tạo con người hiện đại và công nghệ hiện đại. Nếu ngân hàng mà lớn thì dễ
giữ nhân viên như: đầu vào tốt, đào tạo lại, chia lương thưởng tốt hơn, khả năng thăng
tiến cao hơn. Đồng thời phần mềm thanh toán là rất cao vì công nghệ tiên tiến hơn. Điều
đó chứng tỏ ngân hàng lớn thì có lợi về cạnh tranh và tuyển dụng con người.
Tóm lại, vai trò của vốn đối với hoạt động ngân hàng là rất quan trọng. Do vậy,
trong quá trình hoạt động của mình ngân hàng luôn trú trọng việc đảm bảo sự tăng trưởng
một cách ổn định các nguồn vốn của ngân hàng kể cả vốn huy động và vốn tự có.
1.1.3.Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
*Tạo vốn trên cơ sở mở rộng tiền gửi của khách hàng
Nguồn vốn này được huy động từ số tiền nhàn rỗi của các cá nhân, doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế. Do những thành phần này họ có thu nhập cao, muốn tiết kiệm để
đầu tư cho tương lai, phòng ngừa rủi ro. Nguồn vốn này được huy động dưới các hình
thức sau:
+Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng
nhưng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và ngân hàng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Mục đích chính của khách hàng gửi không kỳ hạn là đảm bảo an toàn về tài sản và
thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng và do vậy nó thường được gọi là tài khoản
tiền gửi thanh toán.
+Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng
nhưng có thỏa thuận trước về thời gian rút tiền và theo nguyên tắc không được rút trước
hạn. Mục đích loại dịch vụ này là khách hàng gửi chủ yếu để hưởng lãi và ngân hàng có
thể kế hoạch việc sử dụng nguồn vốn này vì tính có thời hạn của nguồn vốn. Mức lãi
suất cụ thể phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền và sự thỏa thuận giữa ngân hàng và khách
hàng trên cơ sở xem xét đến mức độ an toàn của ngân hàng cũng như quan hệ cung- cầu
về vốn tại thời điểm đó. Tuy nhiên, để tạo nên tính lỏng cho loại tiền gửi có kỳ hạn và do
đó mà hấp dẫn khách hàng, ngân hàng có thể cho phép khách hàng rút tiền trước hạn với
những khoản phạt đáng kể.
*Tạo vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá
Ngày nay, trong hoạt động của Ngân hàng Thương mại, cạnh tranh là một yếu tố
không thể thiếu được, cạnh tranh giữa các NHTM diễn ra trong tất cả các lĩnh vực từ huy
động vốn đến cho vay. Trong lĩnh vực huy động vốn, các Ngân hàng Thương mại luôn
phải tìm mọi biện pháp để có thể tạo lập đủ nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng
vốn của mình. Các Ngân hàng Thương mại không chỉ sử dụng các công cụ truyền thống
để huy động vốn mà còn đưa ra những công cụ mới có hiệu quả hơn để huy động vốn
một cách dễ dàng đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Đây chính là lý do cho việc ra đời của
kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng. Thực chất về mặt nguyên lý hai loại này giống như loại
tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng nhưng khác nhau là kỳ phiếu phải chiết khấu lại cho
ngân hàng còn tiền gửi có quyền sở hữu bằng tiền mặt nhưng kỳ phiếu có tính thanh
khoản cao hơn. Đây là loại hình huy động do Ngân hàng Thương mại hoàn toàn chủ
động. Tuy nhiên, lãi suất của hình thức này thường cao hơn so với các hình thức huy
động truyền thống.
*Nguồn vốn huy động từ vốn vay
Vốn đi vay nhằm để giải quyết tình trạng thiếu vốn của ngân hàng. Vốn vay bao
gồm từ hai nguồn: Vay Ngân hàng Trung Ương và vay Ngân hàng Thương mại khác.
+Vay từ NHTW
Bất kỳ Ngân hàng Thương mại nào khi được Ngân hàng Trung Ương cho phép
thành lập hoạt động đều được hưởng quyền vay tiền tại Ngân hàng Trung Ương trong
trường hợp bổ sung nhu cầu vốn khả dụng. Khi Ngân hàng Thương mại thiếu hụt vốn
trong thanh toán thì Ngân hàng Trung Ương cho vay để tạm thời bù đắp khoản thiếu hụt
trong thanh toán và khoản vay trong 24h. Ngân hàng Trung Ương cấp tín dụng cho Ngân
hàng Thương mại chủ yếu dưới hai hình thức: tái cấp vốn mà chủ yếu dưới hình thức tái
chiết khấu các chứng từ có giá; cho vay thế chấp hay ứng trước. Với vai trò là người cho
vay cuối cùng cũng như điều hành chính sách tiền tệ Ngân hàng Trung Ương luôn cho
các ngân hàng thương mại vay khi cần để điều tiết kinh tế vĩ mô, tùy thuộc vào đặc điểm
của nền kinh tế. Nhưng NHTW thường chỉ cho phép Ngân hàng Thương mại vay khi
thực sự lâm vào tình trạng khó khăn.
+Vay từ NHTM khác
Mục đích quan trọng của loại vay này là nhằm đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng
trong thời gian ngắn. Trong thực tế, các Ngân hàng Thương mại không có sự cân đối giữa
nguồn vốn và sử dụng vốn. Vì vậy, khi thiếu hụt Ngân hàng Thương mại đi vay của Ngân
hàng Thương mại khác thông qua thị trường liên ngân hàng. Chi phí của khoản vay này
thường cao nhưng thời gian vay ngắn. Vì vậy hiệu quả mang lại từ việc sử dụng nguồn
vốn này thường liên quan nhiều đến quản trị rủi ro thanh khoản của NHTM.
1.2 Khái niệm huy động vốn
1.2.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng
khác đang phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bất kỳ biến động nào dù nhỏ
hay lớn đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động
huy động vốn nói riêng. Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động huy động vốn không chỉ đánh
giá chính xác đúng đắn hoạt động huy động vốn nói riêng mà còn phản ánh khả năng
thích nghi và khẳng định sự phát triển trên thị trường của ngân hàng.
Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so sánh giữa kết
quả và chi phí thì cần phải so sánh dưới dạng thương số, hoặc kết quả/ chi phí hoặc chi
phí/ kết quả. Mỗi cách so sánh đó đều cung cấp các thông tin có ý nghĩa khác nhau. Đặc
biệt không thể tính kết quả bằng cách lấy kết quả - chi phí vì như vậy chỉ cho ra một chỉ
tiêu kết quả chứ không phải chỉ tiêu kết quả.
Khái niệm hiệu quả như trên cho thấy rằng chỉ khi nào đạt được kết quả cao nhất
trong điều kiện chi phí thấp nhất mới được coi là có hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế, việc
xác định kết quả nào là cao nhất với chi phí thấp nhất là rất khó.
Như vậy, hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu
cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Đó chính là sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ, nhu cầu sử
dụng vốn với chi phí hợp lý.
1.2.2 Tiêu chí phản ánh hiệu quả huy động vốn
Ngân hàng huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau. Mỗi cách thức huy
động vốn đem lại cho ngân hàng thương mại một nguồn vốn có tính chất khác nhau, với
chi phí khác nhau. Để đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của một ngân hàng
thương mại ta cần dựa vào các chỉ tiêu cụ thể. Mỗi chỉ tiêu nêu lên một mặt của hoạt
động huy động vốn của ngân hàng thương mại. Sau đây là một số chỉ tiêu:
1.2.2.1 Quy mô vốn huy động / chi phí vốn huy động
Vốn của ngân hàng thương mại được chia làm hai loại: Vốn chủ sở hữu và Nợ.
Vốn chủ sở hữu chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng có
thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng và đặc biệt là
được dùng để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng.
Nợ chiếm phần lớn trong nguồn vốn của ngân hàng thương mại, nó là nguồn vốn
hoạt động chính đối với mỗi ngân hàng. Cho nên hầu hết các khoản nợ của ngân hàng
thương mại đều liên quan đến chi phí huy động vốn.
Chi phí huy động vốn của ngân hàng bao gồm chi phí trả lãi và chi phí phi trả lãi.
Trong tổng số chi phí vốn huy động thì chi phí trả lãi là chủ yếu. Ngoài ra còn có các chi
phí khác như: Chi phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí quản lý, dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh
toán, chi phí cho hoạt động marketing, quảng cáo để thu hút khách hàng gửi tiền, chi phí
để mở các quỹ tiết kiệm, chi phí mua máy móc thiết bị, và các chi phí khác liên quan
đến hoạt động huy động vốn.
Chi phí trả lãi mà ngân hàng trả cho khách hàng là chi phí trả lãi dựa trên lãi suất
danh nghĩa, lãi suất ngân hàng công bố cho khách hàng. Chi phí này phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như kỳ hạn, loại tiền gửi, mục tiêu gửi tiền của khách hàng, chiến lược kinh
doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ, tiện ích kèm theo, Tuy nhiện, lãi suất thực tế
của từng nguồn vốn huy động đối với ngân hàng là cao hơn bởi vì ngoài chi phí trả lãi,
ngân hàng còn phải bỏ ra nhiều loại chi phí khác nữa, chi phí phi trả lãi. Vì vậy chỉ tiêu
chi phí huy động vốn/ tổng vốn huy động được chia nhỏ ra lam hai chỉ tiêu khác. Đó là:
- Chi phí trả lãi/ tổng vốn huy động cho thấy để huy động được một đồng vốn thì
ngân hàng cần phải trả bao nhiêu tiền dựa trên lãi suất công bố cho khách hàng.
- Chi phí phi trả lãi/ tổng vốn huy động cho thấy một đồng vốn huy động được
ngân hàng bỏ ra chi phí là bao nhiêu cho việc quản lý, cất giữ, bảo quản,
Tóm lại chi phí huy động vốn/ tổng vốn huy động được dùng để đánh giá xem một
đồng vốn ngân hàng huy động được cần phải bỏ ra bao nhiêu chi phí.
Như vậy, khi xem xét hiệu quả huy động vốn, chi phí cho một đồng vốn phải hợp
lý, đảm bảo các khoản thu nhập có thể bù đắp được chi phí này và có lợi nhuận cho ngân
hàng. Chỉ tiêu này càng thấp thì huy động vốn càng có hiệu quả. Tuy nhiên cũng phải
thấy rằng để giảm chi phí huy động vốn thì cần phải giảm lãi suất huy động và có các chi
phí quản lý, bảo quản, dự trữ vốn huy động một cách tối ưu nhất. Việc đưa ra một lãi suất
huy động hợp lý là rất quan trọng, lãi suất không quá cao - đảm bảo lợi ích ngân hàng,
cũng không quá thấp – thu hút được khách hàng gửi tiền. Đồng thời giảm các chi phí phi
trả lãi cũng sẽ làm cho hiệu quả của hoạt động huy động vốn của ngân hàng hiệu quả
hơn.
1.2.2.2Chênh lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi của ngân hàng
Mối liên hệ nguồn vốn và tài sản là mối liên liên hệ giữa huy động vốn và sử dụng
vốn. Đó là hai mặt của quá trình hoạt động của ngân hàng. Tuy nhên, để đánh giá hiệu
quả huy động vốn của ngân hàng, tức là khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu về sử
dụng vốn hay khả năng sinh lời từ dồng vốn huy động được thì các ngân hàng cũng
thường sử dụng chỉ tiêu chêch lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi của ngân hàng để đánh giá
mối liên hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn cũng như hiệu quả hoạt động huy động vốn.
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Chênh lệch thu chi lãi
=
Thu lãi – Chi lãi
Chi phí trả lãi Chi phí trả lãi
Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí ngân hàng bỏ ra để huy động vốn sẽ thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ đồng vốn đó. Chỉ tiêu này càng cao thì cho thấy ngân
hàng đã sử dụng rất hiệu quả đồng vốn huy động của mình trong việc tối thiểu hóa chi
phí huy động cho đồng vốn đó. Chỉ tiêu này cao do chênh lệch thu chi lãi trước thu, chi
khác cao và chi phí trả lãi nhỏ. Chỉ tiêu chênh lệch thu, chi lãi/ chi phí trả lãi cao cũng có
thể do chí phí tăng và thu nhập trước thu nhập khác và chi khác giảm, tuy nhiên tốc độ
tăng của chi phí chậm hơn tốc độ giảm của thu nhập đó.
1.2.2.3 Quy mô vốn huy động / chi phí tiền lương
Trước tiên, để đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thông qua chỉ tiêu
này, cần phải đánh giá chỉ tiêu quy mô vốn huy động của 1cán bộ huy động vốn.
Chỉ tiêu này được tính bằng tổng số vốn mà ngân hàng huy động được trong một
thời kỳ từ khách hàng cá nhân chia cho tổng số lao động trong hoạt động huy động vốn
của ngân hàng trong thời kỳ đó.
Quy mô vốn huy động
=
Tổng số vốn huy động
1 cán bộ huy động vốn Tổng số lao động huy động vốn
Chỉ tiêu này cho thấy trong một thời kỳ nhất định, một lao động của ngân hàng
huy động được bao nhiêu vốn, hay nói cách khác chỉ tiêu này cho biết năng suất huy
động vốn của lao động hoạt động huy động vốn trong ngân hàng.
Chỉ tiêu này tăng cho thấy năng suất huy động vốn của ngân hàng tăng lên khi
nguồn vốn huy động tăng nhanh hơn số lao động hoạt động huy động vốn làm cho chỉ
tiêu này tăng lên. Tuy nhiên cũng phải xem xét tới sự giảm của nguồn vốn huy động và
số lượng lao động hoạt động huy động vốn của ngân hàng qua các năm. Bởi chỉ tiêu này
vẫn tăng nếu sự giảm xuống của nguồn vốn huy động được chậm hơn so với sự giảm
xuống của lao động hoạt động huy động vốn.
Chỉ tiêu nguồn vốn huy động trên một lao động hoạt động huy động vốn tăng qua
các năm cho thấy hiệu quả trong việc huy động vốn của ngân hàng. Tuy nhiên chỉ tiêu
này cũng chỉ cho thấy một cách định lượng về khả năng huy động vốn của lao động hoạt
động huy động vốn của ngân hàng. Chúng không nêu lên được cơ cấu nguồn vốn huy
động cũng như các chi phí phải bỏ ra để huy động vốn, sự phù hợp của nguồn vốn huy
động với mục tiêu sử dụng vốn
Đối với chỉ tiêu quy mô vốn huy động / chi phí tiền lương phải trả cho tổng
cán bộ huy động vốn cho thấy một đồng chi phí phải trả cho một cán bộ huy động vốn
sẽ thu được bao nhiêu đồng vốn huy động.
Quy mô vốn huy động
=
Tổng số vốn huy động
Chi phí tiền lương Tổng tiền lương trả cho cán bộ huy động vốn
Chỉ tiêu này càng cao thì càng thể hiện rõ hiệu quả trong huy động vốn của ngân
hàng. Bởi chỉ tiêu này cao khi chi phí thấp và quy mô vốn huy động cao hoặc là chi phí
huy động tăng nhưng tốc độ tăng lại không nhanh bằng quy mô vốn huy động.Tuy nhiên,
cũng phải xét tới sự giảm sút của 2 yếu tố cấu thành nên chỉ tiêu này. Bởi nếu quy mô
vốn giảm nhưng vẫn nhanh hơn tốc độ giảm của chi phí sẽ làm cho chỉ tiêu này vẫn phản
ánh được hiệu quả huy động vốn của ngân hàng. Như vậy, chỉ tiêu sẽ cho thấy hiệu quả
huy động vốn của ngân hàng về mặt lượng một cách cụ thể.
1.2.2.4 Sự ổn định vốn huy động của các hình thức huy động vốn
Một hình thức huy động vốn được đánh giá là tốt ngoài những yếu tố như đáp ứng
nhu cầu với chi phí thấp cần phải có sự ổn định, tức là không có sự thay đổi đột ngột
trong thời gian sử dụng nguồn vốn đó của ngân hàng.
Thông thường các nguồn vốn huy động đều có thể dự tính được trước thời gian sử
dụng như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm,
Vốn huy động phải có sự tăng trưởng ổn định về mặt số lượng để thoả mãn nhu
cầu tín dụng cũng như nhu cầu của các hoạt động khác. Mặt khác vốn huy động đó cung
cần phải có sự ổn định về thời gian. Chẳng hạn như nếu ngân hàng huy động được một
nguồn vốn lớn đáp ứng được yêu cầu tín dụng nhưng lại không đánh giá được khả năng
ổn định của nguồn vốn đó sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, tạo cho ngân
hàng những rủi ro khó lường trước được. Ngược lại, nếu ngân hàng chỉ huy động được
nguồn vốn nhỏ nhưng ổn định về thời gian sẽ làm cho việc đầu tư của ngân hàng từ
nguồn vốn đó đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua mức độ tăng giảm vốn huy động. Nếu vốn huy
động tăng đều qua các năm, có tốc độ gia tăng ổn định, đều đặn thì vốn đó được coi là có
hiệu quả trong việc huy động.
1.2.3 Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn
Hiệu quả trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng được đánh giá bằng tỷ lệ
giữa kết quả và chi phí để thu được kết quả đó. Như vậy, ngay trong chính chỉ tiêu hiệu
quả trên đã chỉ ra rằng kết quả và chi phí huy động vừa là bộ phận cấu thành vừa là nhân
tố ảnh hưởng đến hiệu quả. Như vậy các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả và chi phí chính
là các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động huy động vốn.
1.2.3.1 Chính sách lãi suất của ngân hàng
Lãi suất được coi là giá cả của các sản phẩm dịch vụ tài chính. Ngân hàng sử dụng
hệ thống lãi suất tiền gửi như một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi và
thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn, ngân hàng cần ấn
định mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện những ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn,
gửi tiền thường xuyên. Hơn nữa hệ thống lãi suất cần linh hoạt, phù hợp với quy mô và
cơ cấu nguồn vốn.
Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần phải chú ý rất nhiều đến lãi suất tiền vay để có thể
có các hoạt động kinh doanh hợp lý, đem lại các khoản thu nhập cao nhất cho ngân hàng
để bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra và vẫn mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
1.2.3.2 Mạng lưới huy động vốn của ngân hàng
Mạng lưới hoạt động của ngân hàng và các hình thức huy động vốn càng đa dạng,
phóng phú thì kết quả huy động vốn càng nhiều về số lượng do việc thực hiện được dịch
vụ trọn gói và mở rộng dịch vụ ngân hàng. Các khoản tiền tiết kiệm của dân cư thường là
các khoản tiền nhỏ. Vì vậy, nếu việc tiếp cận với ngân hàng khó khăn sẽ tạo ra cho khách
hàng tâm lý ngại đến ngân hàng. Với một mạng lưới rộng khắp, tạo ra sự sễ dàng trong
việc tiếp cận ngân hàng của người dân thì ngân hàng sẽ dễ dàng thu hút được các khoản
tiền gửi đó một cách có hiệu quả.
1.2.3.3 Hoạt động marketing của ngân hàng
Mục tiêu cuối cùng là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng vừa đảm bảo khả
năng sinh lời, kảh năng cạnh tranh an toàn trong kinh doanh thì marketing đã trở thành
công cụ không thể thiếu được trong ngân hàng thương mại hiện nay.
Hoạt động ngân hàng có tính xã hội hoá cao, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường
kinh doanh như môi trường dân cư, môi trường kinh tế, môi trường chính trị, nên sự
thay đổi của bất kỳ yếu tố nào cũng ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động kinh doanh của
ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
Chính sách marketing có hai nhiệm vụ chính:
Nắm bắt kịp thời sự thay đổi môi trường, thị trường cũng như nhu cầu của khách
hàng đối với dịch vụ sản phẩm mà ngân hàng cung cấp.
Xây dựng chính sách, giải pháp thích hợp để thắng đối thủ cạnh tranh đạt được
mục tiêu lợi nhuận.
Việc nắm bắt kịp thời sự thay đổi của môi trường, nhu cầu sẽ giúp ngân hàng đưa
ra được những sản phẩm phù hợp, linh hoạt góp phần dáp ứng được nhu cầu của khách
hàng đồng thời thu hút được lượng vốn lớn. Cũng từ việc nghiên cứu thị trường, ngân
hàng sẽ đưa ra những sản phẩm mới.
Mặt khác chính sách khuếch trương sẽ giúp người dân hiểu rõ ràng, đầy đủ về
ngân hàng thông qua phương tiện thông tin đại chúng xây dựng một hình ảnh nhân viên
ngân hàng tận tình, chu đáo, có trình độ chuyên môn, sẽ tạo lòng tin với khách hàng.
Như vậy chính sách marketing có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng huy động
vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung
1.2.3.4 Tổ chức nhân sự
Mặc dù trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản
xuất chính nhưng con người vẫn luôn khẳng định vị trí trung tâm của mình, vừa là chủ
thể vừa là mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Con người là nhân
tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
cũng như hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Trong hoạt động huy động vốn, con người là yếu tố quan trọng trong việc tiếp xúc
khách hàng, đặt quan hệ giao dịch, Như vậy để nâng cao hiệu quả huy động vốn thì một
yêu cầu được đặt ra là ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực, được đào
tạo một cách bài bản, có chuyên môn nghiệp vụ cao, đồng thời phải nắm bắt được những
kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài những yêu cầu về nghiệp vụ thì một cán bộ
tín dụng phải có tư cách phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và tuân thủ pháp luật, các quy
định của ngân hàng.
Mặt khác, tổ chức nhân sự hợp lý tạo nên một chi phí hợp lý đối với nguồn nhân
lực như vậy, hiệu quả huy động vốn của ngân hàng sẽ tốt hơn.
1.2.4 Nhân tố khách quan
1.2.4.1 Khách hàng
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
hệ thông tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thương chiếm tỷ trong lớn
nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Chính vì vậy, khách hàng
của ngân hàng cũng bao gồm nhiều đối tượng khác nhau. Mỗi loại khách hàng lại mang
những đặc điểm riêng có của mình. Vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu, nhu cầu của từng
loại khách hàng của mình, ngân hàng cần phải có các chính sách, chiến lược phát triển
phù hợp để có được hoạt động kinh doanh tốt nhất của mình
1.2.4.2 Môi trường kinh tế
Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập quốc dân, tốc độ chu chuyển vốn, tỷ lệ lạm phát,
tác động trực tiếp. Khi nền kinh tế trong thời kỳ hưng thịnh, có tốc độ phát triển nhanh,
thu nhập quốc dân cao, các đơn vị kinh tế, dân cư sẽ có nguồn tiền gửi dồi dào vào ngân
hàng. Ngược lại, trong điều kiện tình hình kinh tế bất ổn, nền kinh tế trì trệ, tỷ lệ thất
nghiệp cao, tỷ lệ lạm phát cao thì việc huy động vốn của ngân hàng nói chung và các hoạt
động khác của ngân hàng noi chung sẽ gặp nhiều khó khăn bởi người dân không tin
tưởng gửi tiền vào ngân hàng mà dùng tiền để mau các tài sản có tỉnh ổn định cao, còn
các doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất, lượng tiền gửi vào ngân hàng sẽ bị thu hẹp,
ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Mặt khác, trong môi trường ngày càng phát triển hiện nay, khả năng ứng dụng
công nghệ trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để ngân hàng tồn tại và phát
triển. Nhiều sản phẩm dịch vụ đã xuất hiện liên quan đến hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại như dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home banking), máy rút tiền tự
động ATM (Automatic Teller Money), thư tín dụng (L/C), hệ thống thanh toán điện tử,
đã làm cho tỷ lệ gửi tiền, thanh toán qua ngân hàng ngày càng tăng và đạt tỷ lệ cao.
1.2.4.3 Môi trường xã hội
Môi trường xã hội cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân
hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
Phân bố dân cư, thu nhập của người dân là một nguồn lực tiềm tàng có thể khai
thác nhằm mở rộng quy mô huy động vốn của ngân hàng thương mại. Vì vậy những khu
vực đông dân cư, với thu nhập cao thì sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động vốn đối với
ngân hàng.
Môi trường văn hoá như tập quán, tâm lý, thói quen sử dụng tiền mặt của dân cư
ảnh hưởng nhiều đến quyết định kinh tế về tiêu dùng và tiết kiệm của người có thu nhập,
mức độ chấp nhận rủi ro khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng hay quyết định chi tiêu số
tiền nhàn rỗi của mình vào đầu tư bất động sản, động sản, chứng khoán
1.2.4.4 Môi trường pháp lý
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt, hàng hoá
tiền tệ nên chịu tác dụng bởi nhiều chính sách, các quy định của Chính Phủ và của Ngân
hàng Nhà nước. Sự thay đổi chính sách của nhà nước, của Ngân hàng Nhà nước về tài
chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất
lượng của nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Sự ổn định về chính trị hay về chính
sách ngoại giao cũng tác động đến nguồn vốn của một ngân hàng thương mại với các
quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VĨNH BẢO- HẢI
PHÒNG
2.1.khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh nhno&ptnt vĩnh
bảo- hải phòng
2.1.1.Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển
Chi nhánh NHNo&PTNT Vĩnh Bảo- Hải Phòng được thành lập năm 1988 và trực
thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thành phố Hải Phòng. Là một chi
nhánh Ngân hàng Thương mại quốc doanh có tổ chức mạng lưới rộng lớn. Với chức năng
kinh doanh tiền tệ, tín dụng trên mặt trận nông nghiệp, nông thôn và các thành phần kinh
tế khác trên địa bàn, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã và đang giữ
vững vai trò chủ đạo của mình trên thị trường.
Từ một chi nhánh ngân hàng có nhiều khó khăn khi mới thành lập: thiếu vốn, chi
phí kinh doanh cao, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, trình độ nghiệp vụ còn non
kém Nhờ sự kiên trì khắc phục khó khăn, quyết tâm đổi mới cùng với sự giúp đỡ của
các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, sự quan tâm của Ngân hàng cấp trên,
NHNo&PTNT Vĩnh Bảo không ngừng vươn lên. Nhờ có hoạt động ngày càng hiệu quả,
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Vĩnh Bảo đã trở thành người bạn đồng
hành không thể thiếu của người nông dân.
2.1.2.Cơ cấu tổ chức
Trong quá trình hoạt động của mình, bên cạnh việc thực hiện có hiệu quả các chiến
lược kinh doanh, ngân hàng hết sức quan tâm đến công tác tổ chức cán bộ, tạo điều kiện
thu gọn bộ máy, giảm chi phí, góp phần thực hiện kế hoạch tài chính của ngân hàng.
Chi nhánh NHNo&PTNT Vĩnh Bảo- Hải Phòng có 3 phòng nghiệp vụ với 27 cán
bộ. Ba phòng nghiệp vụ bao gồm:
+Phòng kế toán- ngân quỹ
+Phòng tín dụng
+Phòng nghiệp vụ kinh doanh
Bằng sự hoạt động năng nổ nhiệt tình của tất cả các phòng ban đã cung cấp thông
tin kịp thời, chính xác cho ban Giám đốc đưa ra những quyết định sáng suốt, kịp thời để
duy trì và phát triển theo đúng chính sách của Đảng và Nhà nước.
2.1.3.Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh
Mặc dù xuất phát điểm thấp, nhưng với sự chỉ đạo đúng hướng của Ban giám đốc
và sự cố gắng không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên trong cơ quan, chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Vĩnh Bảo- Hải Phòng đã trưởng thành
và phát triển.
*Công tác huy động vốn
Huy động vốn được xem là một trong những nghiệp vụ không thể thiếu trong hoạt
động của Ngân hàng Thương mại nói chung và chi nhánh NHNo&PTNT Vĩnh Bảo- Hải
Phòng nói riêng. Với phương châm là "đi vay để cho vay" Ngân hàng coi huy động vốn
là công cụ chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của
mình. Từ đó Ngân hàng Thương mại đã đa dạng hóa các hoạt động, các hình thức, các
phương pháp huy động nhằm thu hút được lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, tập trung vào
ngân hàng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt, đầu tư cho nền kinh tế và hạn chế lạm phát bằng
cách: tổ chức mạng lưới tiết kiệm rộng khắp với các hình thức huy động vốn, vận động
khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng, luôn lắng nghe ý kiến đóng góp từ phía khách
hàng.
Trong những năm vừa qua, tuy gặp nhiều khó khăn nhưng dưới sự chỉ đạo của
NHNo&PTNT Việt Nam, Ban Giám đốc chi nhánh cùng với sự nỗ lực của tập thể cán bộ
công nhân viên đã duy trì và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Các hoạt
động của ngân hàng không ngừng được mở rộng cả về quy mô, số lượng và chất lượng.
Được sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên về hình thức huy động vốn và lãi suất đã
tăng được sức cạnh tranh nên giữ được nguồn vốn ổn định. Để làm được điều đó chi
nhánh đã làm công tác tuyên truyền, quảng bá về lãi suất và hình thức huy động như:
niêm yết công khai về lãi suất, các hình thức tiền gửi Hơn nữa cán bộ làm công tác này
tận tụy, nhiệt tình và tạo được lòng tin, uy tín đối với khách hàng.
Bên cạnh những mặt được thì những mặt chưa được của chi nhánh là đã thiếu biện
pháp hữu hiệu trong huy động vốn. Do tác động và ảnh hưởng biến động của thị trường
tiền tệ, giá cả, thị trường nhà đất Hơn nữa trong một khoảng không gian hẹp nhưng lại
có nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước, Bưu điện song song hoạt động
tạo nên sự cạnh tranh gay gắt trong huy động vốn. Ngoài ra do tình trạng huy động vốn
thấp nên hạn chế khả năng mở rộng thị trường đầu tư.
*Công tác sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận chủ yếu cho
chi nhánh. Hoạt động tín dụng tăng trưởng an toàn và có hiệu quả là mục tiêu cần đạt
được của mỗi NHTM. Nó không những mang lại nguồn lợi nhuận cho Ngân hàng mà còn
tạo cho các doanh nghiệp kinh doanh có lãi, làm cho thu nhập xã hội tăng, tỷ lệ thất
nghiệp giảm.
Bên cạnh những mặt được thì tốc độ tăng trưởng của dư nợ tuy có tăng nhưng còn
phát sinh nợ quá hạn do chưa thu hết nợ sau khi doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa.
Chất lượng thẩm định cho vay tuy có được nâng lên nhưng vẫn còn nhiều điều chưa hợp
lý như: định kỳ hạn nợ cho khách hàng kéo dài, cán bộ tín dụng chưa bám sát vào chu kỳ
sản xuất và năng lực tài chính của khách hàng. Đây cũng là vấn đề khó khăn và nan giải,
tranh chấp giữa khách hàng và cán bộ tín dụng khi định kỳ hạn nợ cho khoản vay, khi mà
các doanh nghiệp còn tiềm ẩn rủi ro vì khó khăn trong sản xuất kinh doanh.
Với phương châm "Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi", phong cách giao dịch
của NHNo&PTNT Vĩnh Bảo- Hải Phòng mỗi ngày một văn minh, lịch sự hơn nên đã thu
hút được khách hàng đến giao dịch tiền gửi, tiền vay ngày càng đông hơn. Kết quả là
nguồn vốn huy động và dư nợ đều tăng trưởng qua các năm, thể hiện ở một số năm gần
nhất như sau:
BẢNG 1: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN VÀ ĐẦU TƯ TÍN DỤNG
Đơn vị:Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
1.Tổng nguồn vốn huy động 149400
205100
195956
2.Tổng dư nợ 152000
186000
202000
Trong đó: NQH 105
148
184
+Dư nợ ngắn hạn 127895
161852
177816
+Dư nợ trung, dài hạn 24000
24000
24000
3.Vốn huy động/dư nợ 98
110
97
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Vĩnh Bảo-
Hải Phòng trong ba năm 2007-2008-2009)
Qua bảng số liệu cho thấy tổng nguồn vốn huy động cũng như tổng dư nợ tăng
trưởng vững chắc qua các năm. Năm 2009 tổng nguồn vốn huy động giam 4,6% so với
năm 2008 và tăng 31,16% so với năm 2007; tổng dư nợ tăng 8,6% so với năm 2008 và
tăng 32,9% so với năm 2007. Điều này chứng tỏ chiến lược khách hàng mà chi nhánh áp
dụng là phù hợp và trình độ của cán bộ công nhân viên đã được cải thiện.
Về tình hình đầu tư tín dụng, cơ cấu nguồn vốn đầu tư ngày càng hợp lý, phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn, chất lượng tín dụng cũng được nâng lên.
Mặc dù nguồn vốn huy động đã có sự tăng trưởng thường xuyên qua các năm
nhưng tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động ngày càng chậm hơn tốc độ tăng trưởng
dư nợ, do đó bản thân chi nhánh chưa đủ nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư tại
địa phương mà vẫn phải nhờ đến sự hỗ trợ về nguồn vốn của NHNo&PTNT Việt Nam.
Năm 2007 nguồn vốn huy động tại chỗ của chi nhánh mới chỉ đáp ứng được 92%, năm
2008 đáp ứng được 95%, năm 2009 đáp ứng được 94% nhu cầu vốn đầu tư.
Năm 2009 đã khép lại đánh dấu một năm mà nền kinh tế cả nước nói chung và
thành phố Hải Phòng nói riêng có nhiều biến động trên mọi lĩnh vực.Các Ngân hàng
Thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh có sự cạnh tranh gay gắt nên mức chênh
lệch lãi suất đầu vào và đầu ra ngày càng bị thu hẹp, rõ nét nhất là trong lĩnh vực huy
động vốn. Cụ thể là chỉ số trượt giá tăng đã làm cho lãi suất huy động vốn của Ngân hàng
Thương mại luôn biến động tăng, dẫn tới khó khăn về nguồn vốn nội tệ mà đặc biệt là
trong các tháng cuối năm. Chi nhánh NHNo&PTNT Vĩnh Bảo- Hải Phòng không nằm
ngoài ảnh hưởng đó.
Thị trường tiền tệ lên xuống thất thường, đặc biệt là giá vàng biến động mạnh
trong những tháng cuối năm. Thời điểm này các Ngân hàng Thương mại phải tập trung
vốn để chi trả cho dân cư và các đơn vị kinh tế. Cho nên việc giá vàng biến động mạnh
đã ảnh hưởng nhiều đến tình hình nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại trong đó có chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Vĩnh Bảo- Hải Phòng.
Nhìn lại một năm kinh doanh, mặc dù đã có nhiều cố gắng hoàn thành tốt nhiệm
vụ song cũng có những nhiệm vụ chưa thực hiện tốt nên đã ảnh hưởng quan trọng tới
hoạt động kinh doanh của năm 2010. Do đó Ngân hàng cần đưa ra những biện pháp khắc
phục.
BẢNG 2: KẾT QUẢ TÀI CHÍNH
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Tổng thu 27184
34252
45213
Tổng chi 16336
20746
27177
Chênh lệch 10548
13506
18036
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT Vĩnh Bảo-
Hải Phòng trong ba năm 2007- 2008- 2009)
Thu nhập và chi phí là hai tiêu chí quan trọng nói lên hiệu quả hoạt động kinh
doanh của chi nhánh. Kết quả tài chính ngày càng khả quan với xu hướng tăng thu nhập,
tăng chi phí, tăng lợi nhuận đã góp phần nâng cao mức thu nhập, cải thiện đời sống cho
cán bộ công nhân viên.
Năm 2009 tổng thu nhập đạt 45213 triệu đồng, tăng 10961 triệu đồng tương ứmg
với 32% so với năm 2008, tăng 18029 triệu đồng tương ứng với 66,3% so với năm 2007.
Năm 2009 tổng chi phí đạt 27177 triệu đồng, tăng 31% so với năm 2008 (tức tăng
6431 triệu đồng) và tăng 66,4% so với năm 2007 (tức tăng 10841 triệu đồng).
Lợi nhuận năm 2009 đạt 18036 triệu đồng, tăng 4530 triệu đồng tương ứng với
33,5% so với năm 2008 và tăng 7488 triệu đồng tương ứng với 71% so với năm 2007.
Có được kết quả như trên là do sự nỗ lực phấn đấu của tập thể, cán bộ công nhân
viên trong chi nhánh, đặc biệt là sự chỉ đạo, lòng tâm huyết với nghề của Ban Giám Đốc,
Đảng ủy và tổ chức Công đoàn.
2.2.Thực trạng công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNN & PTNT Vĩnh
Bảo- Hải Phòng
2.2.1.Thực trạng về quy mô vốn huy động
Vốn huy động của Ngân hàng là nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các cá nhân,
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nguồn vốn của mỗi tổ chức, cá nhân thường rất nhỏ
nhưng nếu xét trong toàn bộ nền kinh tế thì tổng số vốn đó là vô cùng lớn. Chính vì vậy,
việc huy động các nguồn vốn này để đưa vào kinh doanh thông qua các NHTM không
những mang lại lợi nhuận cao cho các Ngân hàng mà còn góp phần sử dụng tối đa các
nguồn lực sẵn có trong nước.
Hiện nay các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam vốn huy động từ tiền gửi tiết
kiệm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động khoảng 60-70%. Nó là
nguồn "nguyên liệu" chính để ngân hàng kinh doanh cao hay thấp nhưng điều đó lại còn
phụ thuộc vào từng địa bàn, từng khu dân cư. Vì vậy, Ngân hàng Thương mại luôn tìm
cách đa dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau để đáp ứng
nhu cầu của khách hàng.
Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi thì NHTM còn phát hành công cụ nợ. Đây là
nguồn vốn Ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tiền tệ và thị trường
vốn nhằm đáp ứng về vốn cho vay các dự án đầu tư được duyệt. Ngân hàng đã vay của
khách hàng với mức lãi suất, ngày trả nhất định như: trái phiếu, kỳ phiếu. Loại vốn huy
động này chiếm tỷ trọng nhất định trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
2.2.2.Thực trạng về kết cấu huy động vốn
Nghiệp vụ huy động vốn tuy là một hoạt động độc lập, riêng rẽ nhưng nó lại có mối
liên hệ chặt chẽ, mật thiết với việc sử dụng vốn, mà không có vốn thì ngân hàng không
cho vay được, do đó vốn huy động càng lớn thì hoạt động tín dụng mới có cơ hội để mở
rộng. Ngược lại, hoạt động tín dụng có hiệu quả, nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện có
thêm nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, nó là tiền đề để mở rộng nguồn vốn huy
động cho ngân hàng, đồng thì làm tốt nghiệp vụ trung gian thì hai nghiệp vụ huy động
vốn và sử dụng vốn mới thực sự phát huy được hiệu quả tốt nhất. Chính vì vậy, ngân
hàng phải thực hiện chiến lược kinh doanh tổng hợp trong đó nghiệp vụ huy động vốn
phải được chú trọng kết hợp cùng với hai nghiệp vụ sử dụng vốn và nghiệp vụ trung gian,
có như vậy thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới phát huy được hiệu quả cao
nhất.
Với đặc điểm là kinh doanh tiền tệ, khác với các doanh nghiệp khác vốn tự có của
ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn huy động. Do vậy, muốn mở rộng kinh doanh nhằm
đem lại lợi nhuận thì ngân hàng phải thường xuyên có những biện pháp hữu hiệu để thu
hút được ngày càng nhiều nguồn vốn huy động. Nhận thức được vấn đề này, tập thể cán
bộ công nhân viên NHNo&PTNT Vĩnh Bảo- Hải Phòng xác định đây không phải là
nhiệm vụ của một ai mà là nhiệm vụ của tất cả mọi người trong cơ quan. Do đó, kết quả
đem lại cho chi nhánh được thể hiện ở bảng sau:
BẢNG 3: TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG VỐN HUY ĐỘNG
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu 31/12/2007 31/12/2008 31/12/2009
1.Tổng nguồn vốn huy động 149563
205100
195956
2.Số tăng (giam) tuyệt đối
55537
-9144
3.Số tăng (giam) tương đối (%)
37,13
-4,46
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT Vĩnh Bảo-
Hải Phòng năm 2007-2008- 2009)