Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÂN PHỐI THU NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.08 KB, 86 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng 1:
Lý luận về vai trò của nhà nớc
trong phân phối thu nhập
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về phân phối
Từ trớc đến nay vấn đề phân phối giữ vai trò quan trọng trong lý luận kinh tế.
Từ các nhà kinh tế học cổ điển Anh nh A. Smith tới C. Mác đều nghiên cứu sâu
sắc vấn đề phân phối, thậm chí. D.Ricardo cho rằng nhiệm vụ chủ yếu của kinh
tế chính trị học là tìm ra quy luật chi phối sự phân phối. Tầm quan trọng của
vấn đề phân phối không chỉ ở chỗ nó nói lên quan hệ về lợi ích kinh tế trong
nền kinh tế, mà còn phản ánh những nguyên tố quyết định ẩn dấu đằng sau các
quan hệ lợi ích đó, giúp ta hiểu đợc quá trình vận động kinh tế; đặc biệt là quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối và vai trò của nhà nớc đối với
phân phối.
1.1.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối
Lý luận phân phối trong chủ nghĩa xã hội và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội đợc bắt nguồn từ học thuyết kinh tế của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
- Lênin.
C. Mác và Ph. Ăng ghen lúc đơng thời đã nghiên cứu một cách có hệ thống chế
độ phân phối của phơng thức sản xuất TBCN. Các ông đã vạch rõ bản chất của
phơng thức phân phối này và cho rằng chế độ phân phố TBCN là bất công; nó
dựa trên cơ sở quan hệ bóc lột của giai cấp t sản và địa chủ đối với giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Vì trong thế kỷ XIX, CNXH vẫn cha ra đời nên
nhiệm vụ lý luận thực tế nhất, bức thiết nhất không phải là chú trọng trình bày
và thiết kế chế độ và nguyên tắc phân phối thu nhập trong CNXH, mà là vạch
trần bản chất và phê phán phơng thức phân phối TBCN, đồng thời còn phê phán
và đấu tranh với mọi sự xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội đối với CNXH. Tuy
nhiên, trong quá trình đó, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã nêu lên đợc quan điểm và
nguyên tắc cơ bản về phân phối trong xã hội tơng lai. So với lý luận của tất cả
các nhà kinh tế trớc đó, thì lý luận phân phối của C. Mác và Ph. Ăng ghen đã
1


Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thật sự đặt nền tảng và là khởi nguyên cho lý luận phân phối thu nhập trong
CNXH.
Kế thừa và tiếp nối t tởng của C. Mác và Ph. Ăng ghen, trong lãnh đạo xây dựng
CNXH ở Nga, Lênin đã làm rõ hơn và cụ thể hoá các quan điểm và nguyên tắc
phân phối trong CNXH. Theo Lênin, để xây dựng thành công CNXH hiện thực,
thì nhiệm vụ có ý nghĩa trọng đại hơn cả là xây dựng kinh tế. Trong nhiệm vụ
đó, nếu nhà nớc không tiến hành kiểm kê, kiểm soát toàn diện đối với sản xuất
và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền của những ngời lao động, nền tự do
của họ sẽ không thể nào duy trì đợc và nhất định họ sẽ phải sống trở lại dới ách
thống trị của CNTB [11, tr 244] "không có chế độ kế toán và kiểm soát trong sự
sản xuất và phân phối sản phẩm, thì những mầm mống của XNXH sẽ bị tiêu
diệt..." [11, tr 225]. Từ ý nghĩa của vấn đề nêu trên, Lênin đã xây dựng hệ thống
lý luận về phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Dới đây là những vấn đề chủ yếu trong lý luận phân phối của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
a. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí của phân phối
* Vị trí của phân phối trong tái sản xuất xã hội
Quá trình tái sản xuất bao gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu
dùng của cải vật chất. Phân phối là một trong 4 khâu đó, nó là một mắt xích
trung gian trong quá trình tái sản xuất. Trong quá trình tái sản xuất, sản xuất
bao giờ cũng giữ vai trò quyết đinh. Quy mô, cơ cấu và trình độ phát triển của
sản xuất quy định quy mô và cơ cấu của phân phối. Phân phối không thể vợt
quá trình độ hiện có của lực lợng sản xuất xã hội. Ngợc lại, nếu phân phối phù
hợp với sự phát triển của sản xuất, có lợi cho việc động viên tính tích cực của
ngời lao động sản xuất, thì sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, còn nếu không phù
hợp thì nó sẽ cản trở sự phát triển của sản xuất.
Phân phối và trao đổi có quan hệ mật thiết với nhau. Trao đổi là sự tiếp
tục của phân phối. Trong kinh tế thị trờng, phân phối đợc thực hiện dới hình
thức giá trị (tiền tệ). Ngời nhận đợc thu nhập tiền tệ đó sẽ biến thành thu nhập

2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thực tế bằng việc mua hàng hoá và dịch vụ trên thị trờng. Với một thu nhập
danh nghĩa nhất định sẽ chuyển thành khối lợng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ
lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào giá cả thị trờng. Đó cũng chính là quá trình phân
phối.
Phân phối còn quan hệ mật thiết với tiêu dùng. Việc tăng hoặc giảm sản
phẩm phân phối đều có tác động trực tiếp đến mức độ tiêu dùng. Ngợc lại, cơ
cấu, phơng thức và trình độ của tiêu dùng có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm
sự tăng trởng của phân phối.
Nh vậy, phân phối là một khâu độc lập tơng đối trong quá trình tái sản
xuất, nó luôn có tác động qua lại một cách biện chứng với các khâu khác của
quá trình tái sản xuất xã hội. Trong mọi phơng thức sản xuất đều diễn ra sự
phân phối sản phẩm xã hội, tức là nó là một phạm trù kinh tế chung cho mọi xã
hội.
* Vị trí của phân phối trong quan hệ sản xuất xã hội
Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và do quan hệ sở hữu về t liệu
sản xuất quyết định. C.Mác đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao
hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất " quan hệ phân phối về thực chất cũng
đồng nhất với quan hệ sản xuất nhất định, nó cấu thành mặt sau của quan hệ sản
xuất ấy [5, Tr 634]. Theo Ph. Ăng ghen thì " Trên những nét chủ yếu của nó,
phân phối luôn luôn là kết quả tất nhiên của những quan hệ sản xuất và trao đổi
trong một xã hội nhất định" [9, Tr 261].
Vì vậy, mỗi phơng thức sản xuất nhất định có quy luật phân phối tơng
ứng với nó. Quan hệ sản xuất nh thế nào, thì quan hệ phân phối cũng nh thế ấy.
Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất và quan hệ
trao đổi hoạt động cho nhau. Khi lực lợng sản xuất biến đổi và do đó quan hệ
sản xuất biến đổi, khi quan hệ phân phối cũng biến đổi. C. Mác viết " Mỗi một
hình thái phân phối đều biến đổi cũng một lúc với phơng thức sản xuất nhất
định tơng ứng với hình thái phân phối ấy và đã đẻ ra hình thái phân phối ấy" [8,

Tr 373]. Và chỉ rõ " phơng thức tham gia nhất định vào sản xuất quy định hình
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thái đặc thù của phân phối, quy định hình thái theo đó ngời ta tham dự vào phân
phối" [ 7, Tr 870]. Phân phối là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của quan hệ
sở hữu và quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất.
Phân phối đợc hiểu theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Phân phối theo
nghĩa rộng là phân phối tổng sản phẩm xã hội, nó bao gồm phân phối các yếu
tố sản xuất và phân phối t liệu tiêu dùng. Phân phối yếu tố sản xuất bao gồm t
liệu sản xuất, nó có trớc sản xuất, đồng thời tiếp tục phát sinh trong quá trình
sản xuất. Trớc khi sản xuất, cần phải phân phối các yếu tố sản xuất cho các
ngành và các doanh nghiệp khác nhau để sản xuất các sản phẩm khác nhau.
Không có sự phân phối các yếu tố sản xuất, thì sản xuất không thể diễn ra đợc.
Tính chất phân phối các yếu tố sản xuất quyết định tính chất phân phối t liệu
tiêu dùng. C. Mác đã chỉ rõ "Bất kỳ một sự phân phối nào về t liệu tiêu dùng
cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính những điều kiện sản xuất " [2, Tr
36 - 37]. "Phơng thức phân phối t bản chủ nghĩa dựa trên tình hình là những
điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm trong tay những kẻ không lao động dới
hình thức sở hữu t bản và sở hữu ruộng đất, còn quần chúng thì chỉ là kẻ sở hữu
những điều kiện ngời của sản xuất, tức là sức lao động. Nếu yếu tố sản xuất đợc
phân phối nh thế thì việc phân phối hiện nay về t liệu tiêu dùng tự nó cũng từ
đó nó mà ra. Nếu những điều kiện vật chất của sản xuất là sở hữu tập thể của
bản thân ngời lao động thì cũng sẽ có một sự phân phối những t liệu tiêu dùng
khác với sự phân phối hiện nay [2, Tr 37].
b. Sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội của C. Mác
Trong tác phẩm " Phê phán cơng lĩnh Gô - ta", khi phê phán quan điểm
của Lát - xan về " thu nhập không bị cắt xén của lao động", C. Mác đã nêu lên
sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội. Sơ đồ phân phối ở tầm vĩ mô: Trong
tổng sản phẩm xã hội đó, phải khấu đi:
Một là: phần để thay thế những t liệu sản xuất đã tiêu dùng

Hai là: một phần phụ thêm để mở rộng sản xuất
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ba là: một quỹ dự trữ hoặc quỹ bảo hiểm để đề phòng những tai nạn,
những sự rối loạn do các hiện tợng tự nhiên gây ra vv.....
Những khoản khấu trừ nh thế vào "thu nhập không bị cắt xén của lao
động" là một tất yếu kinh tế và khấu trừ nhiều hay ít là tuỳ theo những t liệu và
những lực lợng sản xuất hiện có, một phần là nhờ lối tính xác suất. Còn lại phần
kia của tổng sản phẩm thì dành làm vật phẩm tiêu dùng.
Trớc khi phân phối cho cá nhân, lại còn phải khấu trừ:
Một là, những chi phí quản lý chung, không trực tiếp thuộc về sản xuất...
Hai là, những khoản dùng để cùng chung nhau thoả mãn những nhu cầu,
nh trờng học, cơ quan y tế vv.....
Ba là, quỹ cần thiết để nuôi dỡng những ngời không có khả năng lao
động, vv....., tóm lại là những cái thuộc về việc mà ngày nay, ngời ta gọi là cứu
tế xã hội của nhà nớc.
Cuối cùng, bây giờ mới tới cái phần những vật phẩm tiêu dùng đem chia
cho cá nhân những ngời sản xuất của tập thể. [2, Tr 31 - 32].
Nh vậy, C. Mác đã vạch ra hai bớc phân phối: bớc thứ nhấ là phân chia
tổng sản phẩm xã hội làm sáu khoản phải khấu trừ và toàn bộ t liệu tiêu dùng;
bớc thứ hai là phân phối t liệu tiêu dùng cho những ngời lao động theo nguyên
tắc phân phối theo lao động (sẽ đợc trình bày dới đây).
Một số ngời nghiên cứu cho rằng C. Mác đã không nói rõ các tỷ lệ phân
chia đó. Ông chỉ nói sơ lợc, không nêu cụ thể biện pháp khấu trừ các khoản
trên. Thiết nghĩ rằng những tỷ lệ đó là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi n-
ớc ở những giai đoạn phát triển nhất định, do đó không nên đòi hỏi C. Mác
phải giải quyết tất cả những vấn đề cụ thể cho chúng ta.
Sơ đồ phân phối nêu trên của C. Mác là sơ đồ phân phối vĩ mô, vạch rõ
khái quát việc phân phối tổng sản phẩm xã hội. Nó vừa đảm bảo tái sản xuất mở
rộng vừa đảm bảo thoả mãn nhu cầu chung của xã hội và của các cá nhân, cũng

nh sự tiến bộ xã hội.
c. Lý luận phân phối theo lao động của C. Mác
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khi nghiên cứu nguyên tắc phân phối của CNTB, C. Mác dã chỉ ra rằng
giá trị mới sáng tạo ra đợc phân chia cho các giai cấp dựa vào sự đóng góp các
yếu tố sản xuất: một bộ phận đợc phối cho ngời sở hữu sức lao động theo giá trị
sức lao động, bộ phận khác phân phối cho ngời sở hữu t liệu sản xuất . Do đó
giá trị mới đợc phân thành tiền công, lợi nhuận, lợi tức và đợc tô. Tiền công là
thu nhập của ngời lao động và là hình thức thực hiện của giá trị sức lao động, lợi
nhuận là thu nhập của nhà t bản và là hình thức thực hiện của quyền sở hữu t
liệu sản xuất, còn địa tô là thu nhập của địa chủ và là hình thức thực hiện của
quyền chiếm hữu ruộng đất. Sự phân phối này đợc che đậy bởi nguyên tắc " trao
đổi ngang giá" nên hình nh mọi giao dịch trên thị trờng đều công bằng. Đó là
nguyên tắc phân phối dựa trên quan hệ sở hữu các yếu tố tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh.
Về tiền công, C. Mác đã phát hiện ra nguyên tắc có tính phổ biến trong
CNTB là tiền công ở mức tối thiểu C. Mác đã vạch ra rằng " tiền công là giá cả
của một thứ hàng hoá nhất định - của sức lao động cho nên tiền công cũng đợc
quy định bởi những quy luật quyết định giá cả của tất cả các hàng hoá khác....
bởi quan hệ của cung với cầu, của cầu với cung [1, Tr 736 - 737]. Tiền công là
một quan hệ kinh tế diễn ra tại khu vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo C. Mác "chi phí sản xuất của sức lao động đơn giản quy lại thành chi phí
sinh hoạt của ngời công nhân và chi phí để tiếp tục duy trì nòi giống của anh ta.
Giá cả của những chi phí sinh hoạt và chi phí để tiếp tục duy trì nòi giống đó là
tiền công. Tiền công đợc quy định nh vậy là tiền công tối thiểu" [1, Tr 744]
Là những ngời sáng lập CNXH khoa học, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã
sáng tạo ra nguyên tắc phân phối theo lao động. Hai ông đã sáng tạo và phát
triển những mầm mống t tởng về phân phối theo lao động của CNXH không t-
ởng và sáng tạo ra lý luận phân phối theo lao động của CNXH khoa học.

Trong bộ " T bản",. C. Mác đã bắt đầu khẳng định phơng thức phân phối
mới: lấy lao động làm thớc đo để phân phối, C. Mác chỉ rõ trong thể liên hiệp
của những ngời lao động tự do, " phần t liệu sinh hoạt chia cho mỗi ngời sản
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuất do thời gian lao động của ngời đó quyết định. Trong điều kiện ấy, thời gian
đóng vai trò hai mặt. Việc phân phối thời gian theo một kế hoạch xã hội sẽ quy
định tỷ lệ đúng đắn giữa các chức năng lao động khác nhau và nhu cầu khác
nhau. Mặt khác, thời gian lao động cũng đồng thời dùng để đo phần tham gia
của cá nhân ngời sản xuất vào lao động chung và do đó, cả cái phần tham dự
của anh ta vào bộ phận có thể sử dụng cho tiêu dùng cá nhân trong toàn bộ sản
phẩm " [4, Tr124 - 125].
Tác phẩm "Phê phán cơng lĩnh Gô- ta" của C. Mác đã đánh dấu sự hình
thành lý luận phân phối theo lao động. Nó là sản phẩm của cuộc luận chiến của
C. Mác với chủ nghĩa cơ hội. Trong tác phẩm này, C. Mác nêu lên quan niệm về
xã hội tơng lai và phê phán quan niệm " phân phối công bằng" của bản cơng
lĩnh: " thu nhập lao động đem lại là thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội
một cách không bị cắt xén, theo nguyên tắc ngang nhau" [2, tr 28]. Đồng thời
C. Mác đã nêu lên nguyên tắc phân phối thu nhập cá nhân trong CNXH là phân
phối theo lao động.
Lý luận phân phối theo lao động của C. Mác gồm hai bộ phận: điều kiện
tiền đề để phân phối theo lao động; nguyên tắc và phơng thức phân phối theo
lao động.
Tiền đề để thực hiện phân phối theo lao động gồm hai mặt liên quan chặt
chẽ với nhau; một là, phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối trong "
giai đoạn đầu của xã hội cộng sản", tức là trong điều kiện lịch sử mà nh C. Mác
đã giải thích " các xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng
sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một
xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội t bản chủ nghĩa, do đó là
một xã hội, về phơng diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang dấu vết của

xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra" [2, Tr 33]. Trong điều kiện nh vậy, ngời ta vẫn
còn có lợi ích riêng, cha coi lao động là nhu cầu bậc nhất của con ngời. Hai là,
phân phối theo lao động đợc thực hiện trong điều kiện kinh tế dựa trên chế độ
công hữu, tức là "trong một xã hội đợc tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tập thể, dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản xuất thì những ngời sản xuất
không trao đổi sản phẩm của mình, ở đây, lao động chi phí vào việc sản xuất ra
các sản phẩm cũng không biểu hiện thành ra giá trị của những sản phẩm ấy....,
lao động của các cá nhân tồn tại - không phải bằng một con đờng vòng nh trớc
nữa mà là trực tiếp - với tính cách là một bộ phận cấu thành của tổng lao động"
[2, Tr33]. Nói cách khác, ở đây không có sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Dựa trên những điều kiện tiêu đề đó, C. Mác đã vạch ra những nguyên
tắc và phơng thức phân phối theo lao động. Theo C. Mác, chủ thể phân phối là
những ngời lao động, đối tợng phân phối là t liệu tiêu dùng, tức là tổng sản
phẩm xã hội sau khi đã trừ đi 6 khoản (đã nêu trong sơ đồ phân phối tổng sản
phẩm xã hội) căn cứ để phân phối là thời gian lao động, phơng thức thực hiện
phân phối theo lao động là phiếu lao động. "cùng một lợng lao động mà anh ta
đã cung cấp cho xã hội dới một hình thức này thì anh ta lại nhận trở lại của xã
hội dới một hình thức khác [2, Tr 34]. Nh vậy thời gian lao động là thớc đo
khách quan của phân phối, thực hiện trao đổi lao động ngang nhau, sự khác biệt
về lao động, do đó sự khác biệt về thu nhập sẽ tồn tại. "Quyền của ngời sản xuất
tỷ lệ với lao động mà ngời ấy đã cung cấp" [2, Tr 34]. Chỉ đến giai đoạn cộng
sản chủ nghĩa mới có thể thực hiện " làm theo năng lực, hởng theo nhu cầu".
Giá trị của lý luận phân phối theo lao động của C. Mác.
Thứ nhất, trớc sau nhu một, C. Mác coi trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất và chế độ sở hữu do trình độ phát triển của lực lợng sản xuất đó quyết
định là nhân tố quyết định quan hệ phân phối. Theo C. Mác, chủ nghĩa xã hội là
nấc thang cao hơn chủ nghĩa t bản có lực lợng sản xuất phát triển, chế độ công
hữu đợc thiết lập, thì sự phân phối t liệu tiêu dùng cho cá nhân tất yếu phải đợc

phân phối theo lao động.
Thứ hai, dới độ công hữu, mọi ngời đều có quyền bình đẳng đối với t liệu
sản xuất. Quyền bình đẳng đó chỉ có thể chuyển hoá thành quyền lợi lao động
bình đẳng, lao động trở thành phơng tiện mu sinh cơ bản nhất, trở thành tiền đề
quan trọng để thu đợc lợi ích kinh tế. Nh vậy, C. Mác đã xác lập cơ sở của mối
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
liên hệ nội tại giữa lao động và thu nhập, lao động trở thành điều kiện tất yếu để
nhận đợc thu nhập.
Thứ ba, lý luận phân phối theo lao động của C. Mác thừa nhận tồn tại sự
khác biệt về thu nhập và phủ nhận phân phối bình quân. Nhng sự khác biệt này
chính là sự công bằng trong phân phối, mà không phải là chủ nghĩa bình quân.
C. Mác đã xác định nguyên tắc phân phối trong CNXH, đó là phân phối
theo lao động. Nhng phơng thức phân phối đó đợc thiết kế trên cơ sở giả định
kinh tế hàng hoá đã tiêu vong. Do đó, kinh tế sản phẩm là điều kiện kinh tế xã
hội để thực hiện phân phối theo lao động. Nhà nớc trực tiếp tổ chức sản xuất và
phân phối sản phẩm vì thế việc áp dụng vào thực tiễn cần giải quyết một số vấn
đề thao tác cụ thể.
Nguyên tắc phân phối theo lao động đợc V. I Lênin phát triển trong quá
trình xây dựng CNXH ở Nga. VI Lênin đã nêu ra một cách rõ ràng khái niệm
phân phối theo lao động: Một là, "ngời không lao động thì không đợc ăn", hai
là, " dựa vào lợng lao động ngang nhau lĩnh số sản phẩm ngang nhau." Ông đã
xuất phát từ thực tế, cho rằng CNXH vừa mới thoát thai từ xã hội cũ mà ra, sự
biến đổi về chất của lao động không thể hoàn thành trong ngày thứ hai sau khi
xây dựng chế độ mới. "....Nếu không rơi vào không tởng thì không thể nghĩ
rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa t bản, thì ngời ta sẽ tức khắc có thể làm việc cho
xã hội mà không cần phải có tiêu chuẩn pháp quyền nào cả, hơn nữa, việc
xoá bỏ CNTB không thể đem lại ngay đợc những tiền đề kinh tế cho một sự
thay đổi nh vậy [12, Tr 116]. Do đó, V.I Lênin đã đề ra phải thực hiện chế độ
lao động nghĩa vụ, thông qua đó mới thực hiện đợc phân phối theo lao động. Vì

thế " ai không làm thì không ăn", đó là điều kiện thực tiễn của CNXH. Phải tổ
chức một cách thực tiễn nh thế đó [13, Tr 244]. Để phân phối đợc hợp lý, cần
phải tính toán và đôn đốc một cách chính xác tỉ mỉ nhất, có tinh thần trách
nhiệm nhất trong phạm vi toàn dân, tức là thực hiện chế độ giám sát và đôn đốc
của công nhân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Xuất phát từ thực tiễn, V.I Lênin đã đa ra chính sách kinh tế mới thay thế
cho chính sách cộng sản thời chiến. Ông chủ trơng nhiều thành phần kinh tế
cùng tồn tại và thừa nhận CNXH không thể xoá bỏ đợc kinh tế hàng hoá. Quan
hệ hàng hoá - tiền tệ là tiền đề của phân phối theo lao động. V.I Lênin đã nhấn
mạnh sự cần thiết phải thực hiện hạch toán kinh tế; ông cho rằng " sự quan tâm
thiết thân của cá nhân có tác dụng nâng cao sản xuất; trớc hết chúng ta cần phải
đẩy mạnh sản xuất cho bằng đợc [14, Tr 189]. V.I Lênin chỉ ra rằng trong
CNXH, việc phân phối sản phẩm tiêu dùng của ngời lao động không thể đợc
thực hiện theo chế độ phân phối bình quân. Tiền lơng và tiền thởng phải liên hệ
mật thiết với nhau, đồng thời đợc quyết định ở mức độ hoàn thành kế hoạch sản
xuất. Ông phê bình nghiêm khắc việc biến thởng hiện vật thành lối bình quân
phụ thêm vào lơng và đề suất quỹ thởng cần đợc tiến hành phân phối hợp lý,
nên dùng để thởng cho những ngời làm kinh tế có biểu hiện của tinh thần dũng
cảm, chăm chỉ, có trách nhiệm, tài giỏi và hết lòng trung thành. Nh vậy, V.I
Lêin đã gắn trực tiếp thu nhập lao động với thành quả lao động và năng suất lao
động.
1.1.2. Một số lý thuyết về phân phối trong kinh tế học hiện đại
Từ giữa thế kỷ XX lại đây, ở các nớc TBCN đã xuất hiện các lý thuyết
kinh tế học của các trờng phái khác nhau. Dới đây là một số lý thuyết phân phối
của các nhà kinh tế học hiện đại.
a) Lý thuyết của trờng phái Kinh tế thị trỡng xã hội ở cộng hoà liên
bang Đức
Tác giả tiêu biểu của trờng phái này là A. Muller Armack. Theo ông, việc

phân phối kết quả sản xuất cho cá nhân phải tơng xứng với phần đóng góp của
mỗi ngời. Sau đó, thông qua các chính sách xã hội phù hợp mà giúp đỡ cho
những ngời có thu nhập thấp. Phân phối phải đợc thực hiện trên cơ sở công bằng
theo cả chiều ngang và công bằng theo chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang
là phân phối phải đảm bảo sự công bằng cho những ngời ngang nhau về đóng
góp lao động, đóng góp vốn. Công bằng theo chiều dọc là tái phân phối từ
những ngời có thu nhập cao sang những ngời có thu nhập thấp hoặc không có
thu nhập [33, tr.408].
Theo họ, công bằng trong phân phối phải đợc thể hiện ở chỗ, một mặt
thực hiện tiền lơng tối thiểu và bảo đảm lơng phân biệt thông qua sự thoả thuận
tự do; mặt khác, thực hiện cân bằng thu nhập, xoá bỏ những khác biệt vô lý
trong thu nhập thông qua các biện pháp đánh thuế, mở rộng hình thức công
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhân có cổ phần trong doanh nghiệp, áp dụng chính sách tăng việc làm, hỗ trợ
cho các nhóm ngời có thu nhập thấp bằng các biện pháp nh u đãi thuế đối với
các nhà kinh doanh, trả lơng bổ sung cho công nhân căn cứ vào mức thu nhập
thấp, trợ cấp nhà ở, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội. Các quan niệm về phân
phối và yêu cầu thực hiện các chính sách nh trên của trờng phái này nhằm tạo
sự ổn định xã hội - một trong hai mục tiêu chính mà họ đặt ra.
b) Lý thuyết phân phối thu nhập của trờng phái Chính hiện đại
Trờng phái chính hiện đại nghiên cứu vấn đề phân pgối thu nhập trên cơ
sở quan điểm cơ chế thị trờng có sự can thiệp của nhà nớc. Ngời đứng đầu trờng
phái này là P. Samuelson, nhà kinh tế học ngời Mỹ.
Theo ông, phân phối thu nhập là một phạm trù kinh tế đề cập đến vấn đề
hàng hoá đợc sản xuất cho ai, định giá các yếu tố sản xuất qua cung-cầu nh thế
nào để quyết định mức thu nhập của mọi ngời? [31, tr. 63]. Những quyết định
lớn về phân phối thu nhập "đợc làm ra tại thị trờng". Hoạt động của thị trờng có
thể dẫn nền kinh tế đến sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đạt đợc sản lợng tối
đa, nhng nó không nhất thiết phân phối sản lợng đó có thể chấp nhận đợc. Bởi

vậy, nhà nớc cần phải can thiệp vào phân phối thu nhập thông qua các chính
sách phân phối lại [31, tr. 61].
Trên quan điểm đó, họ nêu nguyên tắc phân phối trong cơ chế thị trờng
có sự can thiệp của nhà nớc.
- Nguyên tắc phân phối thu nhập trong cơ chế thị trờng:
Theo họ, phân phối thu nhập đợc quyết định bởi các quan hệ cung và cầu
trên thị trờng. "Chìa khoá" để hiểu nguyên tắc phân phối này là lý thuyết "hàm
sản xuất". P. Samuelson cho rằng, "Hàng hoá đớc sản xuất ra cho ai đợc xác
định bởi mối quan hệ cung-cầu ở thị trờng yếu tố sản xuất. Những thị trờng này
xác định mức lơng, tiền thuê đất, lãi suất và lợi nhuận, những thứ này đi vào thu
nhập của mọi ngời. Nh vậy, phân phối thu nhập trong nhân dân đợc xác định
bởi số lợng các nhân tố có đợc (giờ công, mẫu đất, vv...) và giá của các nhân tố
đó (mức lơng, tiền thuê đất...)'' [31, tr.54].
Họ dựa vào lý thuyết sản phẩm tăng thêm trên hạn mức (sản phẩm doanh
thu cận biên) để giải thích sự biến đổi của các loại thu nhập. Theo lý thuyết này,
sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của lao động là sản lợng có thêm khi ta bổ
sung thêm 1 đơn vị lao động và giữ nguyên các yếu tố đầu vào khác. Sản phẩm
tăng thêm trên hạn mức của đất đai là sự thay đổi tổng sản phẩm có đợc nhờ bổ
sung thêm 1 đơn vị đất đai, trong khi các nhân tố khác không đổi, vv... Qui luật
vận động của sản phẩm tăng thêm trên hạn mức là ngày càng giảm. Phân phối
thu nhập do đợc giải quyết trên cơ sở sản phẩm tăng thêm trên hạn mức, nên
cũng vận động theo qui luật thu nhập giảm dần.
Tơng tự nh vậy, nếu giữ nguyên số lao động mà chỉ biến đổi một yếu tố
đầu vào khác, chẳng hạn là đất đai, thì số sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của
mỗi đơn vị diện tích đất kế tiếp sẽ giảm xuống, làm cho tiền thuê đất giảm
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuống... Từ quan điểm đó, các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại cho rằng tại
mức xác định giao điểm của mỗi lợng cầu với mức cung của một yếu tố sản
xuất, sẽ có:

Tiền công bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của lao động.
Tiền thuê đất bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của đất đai.
Lãi suất bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của t bản
Và tiếp nh vậy cho bất kì yếu tố sản xuất nào.
+ Tiền công và tiền lơng:
Theo các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại, thị trờng lao động cũng
giống nh các thị trờng khác. Tiền công cân bằng có tính cạnh tranh đợc xác
định tại giao điểm của mức cung và mức cầu về lao động (điểm E trên đồ thị 1).
Nếu mức tiền công thấp hơn E thì sẽ xảy ra thiếu lao động và chủ doanh nghiệp
sẽ phải tăng tiền công tới mức E để khôi phục lại sự cân bằng.
Trên đồ thị, S
l
là cung về lao động; D
l
là cầu về lao động, E là điểm cân
bằng giữa cung và cầu lao động trên thị trờng, tại đây xác định số lợng lao động
cần sử dụng và mức tiền công cân bằng (tiền công thị trờng).
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đồ thị 1: Mức tiền công tơng đối trên thị trờng lao động
Tiền công (W)
E

Lao động (L)
Các nhà kinh tế học trờng phái chính hiện đại quan tâm đến tiền công
thực tế, tức là đến những thứ mua đợc với số tiền công đó, chứ không phải chỉ
quan tâm đến số tiền (mà chúng ta gọi là tiền công danh nghĩa). Theo họ, tiền
công thực tế (W
r
) thể hiện chỉ số mức lơng thực tế tính bằng tiền (W

n
) chia cho
chỉ số về mức giá chung (P) nh chỉ số về giá hàng tiêu dùng CPI.
W
r
= W
n
/ P
Theo họ, mức tiền công thực tế khác nhau giữa các vùng, hoặc ở các thời
kì khác nhau, trớc hết là do hoạt động của mức cung-cầu về lao động, tiếp đến
là do sự biến đổi của các yếu tố đầu vào khác cùng hoạt động nh t bản (vốn), tài
nguyên và trình độ kĩ thuật. Mức tiền công của các lao động khác nhau do chất
lợng đầu vào lao động nh trình độ tay nghề, đào tạo, học vấn và giáo dục quy
định.
Chẳng hạn, nếu hạn chế mức cung bất cứ lao động nào so với sự gia tăng
các yếu tố sản xuất khác thì nhất định mức tiền công sẽ tăng lên. Còn với các
điều kiện khác nh nhau, việc tăng cung về lao động sẽ nảy sinh xu hớng giảm
tiền công.
Giữa nhũng ngời lao động khác nhau cũng có mức tiền công khác nhau.
Chẳng hạn, ngời làm nghề lau cửa sổ nhà cao tầng cần dợc trả tiền công cao
hơn ngời làm nghề gác cổng vì ngời ta không thích nguy hiểm khi trèo lên các
nhà trọc trời. Nghĩa là sự chênh lệch tiền công giữa các nhóm là cần thiết để lôi
13
S1
D1
Wo
Lo
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kéo lao động vào các nghề "kém hấp dẫn" hoặc "không thích thú". Họ gọi đó là
"sự chênh lệch có tính chất bù trừ". Sự khác nhau về chất lợng lao động là một

yếu tố làm cho mức tiền công khác nhau giữa những lao động. Nếu một ngời
đầu t nhiều thời gian và tiền của vào việc học tập để có một nghề chuyên sâu thì
anh ta sẽ làm việc có năng suất và hiệu quả cao hơn. Do đó, sẽ thu đợc mức tiền
công nhiều hơn so với một ngời không có sự "hi sinh" nh vậy. Trong các nghề
khác nhau, mặc dù không có cạnh tranh, nhng do mức cung và cầu về lao động
không giống nhau, ngời lao động không thể dễ dàng chuyển từ nghề này sang
nghề khác (vì rất khó khăn, rất tốn kém về thời gian và tiền của cho việc đào
tạo), nên mức tiền công cũng rất khác nhau. Ngoài ra, một số ngời có thiên h-
ớng đặc biệt (danh thủ bóng đá, nghệ sĩ tài ba, bác học...) cũng có mức thu nhập
rất cao. Tuy nhiên, theo họ, sự chênh lệch về mức tiền công giữa những ngời và
các nhóm lao động không phải là hoàn toàn cố định. Trong quá trình vận động
của cuộc sống, con ngời có xu hớng chuyển sang các ngành nghề, công việc đ-
ợc trả tiền công cao và bỏ những nghề tiền công thấp hơn, làm cho mức tiền
công có xu hớng tụ hội lại.
+ Tiền thuê đất và các tài nguyên khác:
Tiền thuê đất và các tài nguyên khác là khoản thu nhập mà ngời chủ của
nó phân phối đợc từ sản phẩm xã hội thông qua việc cung ứng đất đai và các tài
nguyên khác vào sản xuất kinh doanh với t cách là yếu tố đầu vào. Khác với các
yếu tố đầu vào khác, mức cung về đất đai và các tài nguyên khác đợc cố định
bởi tự nhiên và không thể tăng lên để đáp ứng với giá đất cao hơn, hay giảm đi
để đáp ứng với giá đất thấp hơn.
Mức tiền thuê đất và các tài nguyên khác đợc xác định trên thị trờng cạnh
tranh, do quan hệ cung - cầu về đất đai và các tài nguyên khác quy định. Nếu
tiền thuê đất tăng lên cao hơn giá cân bằng thì lợng đất đai mà các doanh
nghiệp có nhu cầu sẽ ít hơn lợng đất đai cần có để cung cấp. Điều này sẽ làm
cho một số chủ đất không thể nào cho thuê đợc khu đất của mình. Họ buộc phải
giảm giá thuê đất xuống. Ngợc lại, tiền thuê đất cũng không ở lâu dới điểm cân
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bằng. Do cạnh tranh về thuê đất giữa các chủ doanh nghiệp mà tiền thuê đất

tăng lên.
Tiền thuê đất và các tài nguyên khác là một chi phí sản xuất. Do đó, giá
cả của đất đợc quyết định bởi giá cả sản phẩm thu đợc trên khu đất đó. Tức là
giá cả hàng hoá quyết định giá thuê đất chứ không phải giá thuê đất quyết định
giá cả hàng hoá.
+ Lợi tức và lãi suất:
Lợi tức và lãi suất là thu nhập của những ngời cung cấp yếu tố đầu vào
của sản xuất bao gồm vốn và tài sản tài chính.
Mức lợi tức là thu nhập ròng mà ngời chủ sở hữu nhận đợc về việc cho
thuê nguồn vốn của mình. Đó là một con số thuần tuý - phần trăm hàng năm
hoặc tính theo đơn vị thời gian. Chẳng hạn, một ngời có một xe tải trị giá 20000
đôla. Sau khi trả hết chi phí (tiền bảo quản, bảo hiểm...), số còn lại mà ngời đó
thu đợc là 2000 đôla trong một năm. Khoản tiền thu đợc đó chính là thu nhập
ròng hay mức lợi tức của vốn thu đợc trong năm đó.
Đối với những ngời có tài sản tài chính, việc chuyển tiền cho ngời đầu t
bằng cách cho vay hoặc đi mua trái phiếu và chứng khoán, gửi tiền vào quỹ tiết
kiệm, quỹ hu trí... để cuối cùng chuyển đến những doanh nghiệp và những ngời
thực sự đầu t, sẽ thu đợc lãi suất. Lãi suất là giá của một ngân hàng, hoặc một
ngời đi vay khác phải trả cho ngời cho vay để đợc sử dụng tiền trong một thời
gian. Tiền lãi có nhiều hình thức: lãi suất dài hạn và ngắn hạn, tuỳ theo thời
gian cho vay; lãi suất cố định và lãi suất thay đổi, lãi suất trái phiếu bảo đảm
cao và lãi suất "chứng khoán mong manh" của các công ty sắp đổ vỡ...
Mức lợi tức và lãi suất cũng đợc xác lập bởi cạnh tranh và tình hình cung-
cầu về vốn và tài sản tài chính trên thị trờng.
+ Lợi nhuận:
Theo các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại, lợi nhuận là sự chênh
lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp (hay là của một nền kinh tế) với
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tổng số chi phí (tiền công, tiền lơng, tiền thuê đất, nhà cửa, nguyên vật liệu, lãi

suất, thuế hàng hoá và các thứ khác).
Có nhiều nhân tố quyết định lợi nhuận: 1)Thu nhập của chủ doanh nghiệp
về lao động của chính họ hoặc vốn đầu t của chính họ, tức là cácyếu tố sản xuất
mà họ tự cung cấp; 2) Lợi nhuận là khoản tiền thởng cho chủ doanh nghiệp do việc
chịu mạo hiểm, rủi ro trớc nhiều nguy cơ kinh doanh hoặc do sáng tạo, đổi mới sản
phẩm; 3) Độc quyền: thông qua hạn chế mức cung và quy định giá cả, ngời độc
quyền có đợc một khoản tiền lời gọi là thu nhập độc quyền. Đó là thu nhập dôi ra
của một ngời có sức mạnh trên thị trờng.
Nh vậy, tiền công, tiền lơng, tiền thuê đất, tiền lãi và lợi nhuận là các
khoản thu nhập của các giai cấp, tầng lớp trong nền sản xuất t bản chủ nghĩa.
Các thu nhập này đều có nguồn gốc từ thu nhập quốc dân. Cơ chế (nguyên tắc)
phân phối thu nhập đợc thực hiện thông qua thị trờng dới tác động của các quy
luật cạnh tranh, cung- cầu...
Tuy nhiên, trong khi đề cao vai trò của thị trờng đối với phân phối thu
nhập quốc dân, các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại còn chỉ ra những thất
bại của thị trờng. Theo họ, cơ chế thị trờng có khả năng giải quyết các vấn đề
cái gì và nh thế nào - những vấn đề phân bổ tài nguyên giữa các ngành và việc
lựa chọn kĩ thuật tốt nhất để sản xuất ra những hàng hoá cụ thể. Nhng thị trờng
không có khả năng đặc biệt để tìm ra giải pháp tốt nhất đối với vấn đề cho ai.
Một nền kinh tế hiệu quả nhất trên thế giới, vẫn có thể tạo ra sự bất bình đẳng
lớn về phân phối thu nhập [31, Tr 259]. Đó là biểu hiện sự thất bại và sự phân
phối tuỳ tiện của thị trờng [31, Tr 396].
- Sự can thiệp của nhà nớc vào phân phối thu nhập:
Các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại quan tâm đến sự bất bình đẳng
về phân phối thu nhập. Theo họ, nguồn gốc của sự bất bình đẳng này là do sự
khác nhau về năng lực lao động, nghề nghiệp, trình độ chuyên môn kĩ thuật,
tính chuyên cần chịu khó, và nhất là nguồn tài sản do thừa kế, sáng chế, kinh
doanh mà mỗi ngời có đợc. Do thị trờng là một cơ chế điều tiết không biết đến
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phạm trù đạo đức và nhân đạo, nên nếu cứ để mặc sự khác nhau giữa mọi ngời
về lao động và tài sản do cơ chế này tự điều tiết thì không thể tránh khỏi sự bất
bình đẳng lớn về thu nhập. Bởi vậy, cần phải có sự can thiệp của nhà nớc vào
phân phối thu nhập.
Mục đích của sự can thiệp này nhằm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng về
thu nhập. Muốn vậy, nhà nớc phải thiết lập các chơng trình tác động đến việc
phân phối thu nhập. Thông qua phân phối lại, nhà nớc có thể dành một phần thu
nhập để đảm bảo mức sống tối thiểu về y tế, dinh dỡng và thu nhập nhằm nâng
cao mức sống của ngời nghèo. Nhà nớc phải tiến hành phân phối lại bằng cách
phân bổ gánh nặng thuế khoá giữa những nhóm thu nhập hay giai cấp khác
nhau.
Công cụ để nhà nớc thực hiện phân phối lại thu nhập là thuế luỹ tiến và
hỗ trợ thu nhập. Thuế luỹ tiến là mức thuế đánh vào ngời giàu có tỉ lệ thu nhập
lớn hơn ngời nghèo. Loại thuế này có tính chất phân phối lại thu nhập, chuyển
khả năng tiêu dùng của ngời giàu sang ngời nghèo.
Hệ thống hỗ trợ thu nhập bao gồm giúp đỡ phúc lợi, trợ cấp y tế, bảo
hiểm xã hội, giúp đỡ năng lợng, tem phiếu lơng thực, thuế thu nhập âm (thực
chất là một giải pháp hỗ trợ thu nhập cho ngời nghèo bằng tiền mặt). Hệ thống
này nhằm giúp ngời già, ngời tàn tật, ngời phải nuôi con, bảo hiểm thất nghiệp
cho những ngời không có việc làm. Mục tiêu của hệ thống hỗ trợ thu nhập này
tạo ra một mạng lới an toàn bảo vệ những ngời không may khỏi bị huỷ hoại về
kinh tế.
Song, các nhà kinh tế trờng phái chính hiện đại cho rằng việc phân phối
lại có thể làm giảm khoảng cách bất bình đẳng trong xã hội, nhng cũng phải trả
giá cho tình trạng không hiệu quả. Nếu chính phủ áp dụng mức thuế luỹ tiến
cao thì cố gắng của ngời đóng thuế giảm xuống, làm giảm tổng thu nhập quốc
dân thực tế. Từ đó, họ nêu quan điểm về mối quan hệ giữa công bằng và hiệu
quả. Nếu giảm bớt tình trạng bất bình đẳng là một điều tốt về đạo lí thì nó cũng
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

đợc ngời ta trả một giá nào đó làm tổn hại một mục tiêu kinh tế khác là hiệu
quả.
Sự phân phối lại " tối u theo Pareto" và nguyên lý " Hàm phúc lợi xã
hội" của Bergson và Samuelson
Theo nguyên lý phân phối tối u Pareto, nếu sự thay đổi của một chính
sách phân phối nào đó dẫn đến hoàn cảnh sống của một số ngời trở nên tốt hơn,
đồng thời không làm cho hoàn cảnh sống của một số ngời khác trở nên xấu đi,
thì sự thay đổi này gọi là phân phối "tối u Pareto". Kết luận cuối cùng mà
Pareto muốn rút ra là muốn làm tăng thu nhập của tầng lớp nghèo khổ, thì biện
pháp duy nhất là nâng cao thu nhập quốc dân, việc phân phối lại là vô ích. Theo
nhiều nhà kinh tế quan điểm đó quá chặt chẽ đối với vấn đề công bằng về phân
phối, vả lại, miễn là có thể làm tăng thu nhập quốc dân mà không làm giảm bớt
phần của ngời nghèo trong thu nhập quốc dân cũng đợc coi là "tối u Pareto".
Trớc Sanuelson, Pigou - ngời sáng lập ra hệ thống kinh tế học phúc lợi -
trong tác phẩm "Kinh tế học phúc lợi" đã trình bầy vấn đề làm thế nào để tăng
phúc lợi xã hội. Theo Pigou, tổng thu nhập quốc dân càng lớn thì phúc lợi càng
lớn, bất cứ một sự vật nào, nếu có thể làm tăng thu nhập quốc dân mà không
làm tổn hại đến số lợng thu nhập tuyệt đối của ngời nghèo, hoặc tăng thêm số l-
ợng thu nhập tuyệt đối của ngời nghèo mà không ảnh hởng đến thu nhập quốc
dân đều sẽ làm tăng phúc lợi kinh tế". Lý luận của Pigou không vạch rõ đợc
quan hệ nội tại giữa hiệu quả và công bằng trong phân phối.
Bergson và Samuelson đã nêu lên " Hàm số phúc lợi xã hội ". Họ cho
rằng hiệu quả kinh tế là điều " cần", còn phân phối hợp lý là điều kiện " đủ" của
lợi ích tối đa. Chỉ có đồng thời đa các nhân tố về phân phối và các nhân tố chi
phối khác vào trong một hàm phúc lợi xã hội và chỉ khi giá trị của hàm này lớn
nhất thì mới đạt đợc tối u thế hoá phúc lợi xã hội. Công thức hàm phúc lợi xã
hội của họ là W = F (Z1, Z2,.......Zn) trong đó W biểu thị phúc lợi xã hội, F biểu
thị hàm số, Z1, Z2,.......Zn. Là các nhân tố ảnh hởng đến phúc lợi xã hội nh lợng
hàng mà cá nhân tiêu dùng, số lợng các loại lao động, số lợng vốn đợc đa
18

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vào,...Chúng có những tổ hợp khác nhau, nhng khi giá trị của W đạt tối đa thì
phúc lợi xã hội sẽ tối đa. Sự tự do lựa chọn của cá nhân là điều kiện quan trọng
trong quyết định tối đa hoá phúc lợi của cá nhân. Vì thế để làm cho phúc lợi xã
hội đạt tối đa, thì chính phủ phải đảm bảo cho sự tự do lựa chọn của cá nhân
mà không nên hạn chế nó.
Nh vậy, kinh tế học trờng phái chính hiện đại đã nêu quan niệm phân
phối thu nhập trong nền kinh tế thị trờng, đã thấy mục đích của sản suất là để
tiêu dùng, phân phối thu nhập là cách thức để phân bổ kết quả sản xuất cho tiêu
dùng của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Họ đã chỉ ra nguồn để phân phối là
sản lợng do nền kinh tế sáng tạo ra, đợc tiền tệ hoá thành thu nhập quốc dân và
phụ thuộc vào thực tế sản xuất của mỗi nớc ở mỗi thời điểm. Thị trờng là cơ chế
phân bổ công bằng và có hiệu quả nhất thu nhập quốc dân. Nguyên tắc của
phân phối thu nhập là dựa trên sự đóng góp của các yếu tố đầu vào của sản xuất
và năng lực kinh doanh của chủ doanh nghiệp thông qua cơ chế thị trờng. Họ đã
gợi ý một nguyên tắc phân phối thu nhập có hiệu quả phải dựa trên cơ chế tự
điều tiết của thị trờng. Đồng thời chỉ ra tính cấp thiết phải có sự can thiệp của
nhà nớc vào phân phối để giảm bớt tình trạng bất bình đẳng về thu nhập trong
xã hội, trợ giúp ngời nghèo. Lí luận phân phối của trờng phái chính hiện đại đã
là một bớc tiến so với lý luận phân phối của các nhà kinh tế thuộc trờng phái tr-
ớc đó. Họ đã đặt quan hệ phân phối công bằng với hiệu quả, đã chú ý đến tính
hợp lí của thu nhập xã hội trên nguyên tắc kiên trì u tiên có hiệu quả.
Có thể nói từ lý thuyết kinh tế học phúc lợi của Pigou đến sự phân phối
tối u Pareto và nguyên lý " Hàm số phúc lợi xã hội " của Bergson và
Samunelson là một bớc tiến dài hớng đến "tính hợp lý" của công bằng và hiệu
quả trong phân phối thu nhập của xã hội TBCN. Tuy vậy, cho đến nay giữa hai
mục tiêu công bằng và hiệu quả trong phân phối thu nhập của xã hội TBCN vẫn
tồn tại những mâu thuẫn vốn có, cho dù các nhà kinh tế học đã tìm cách làm thế
nào để định đợc một sự phân phối tối u trên lý luận.
1.1.3. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phân phối thu nhập

19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
a) Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh:
Sau khi đợc giải phóng (năm 1954), miền Bắc nớc ta bớc vào khôi phục
và phát triển kinh tế. Công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế không chỉ nhằm
tạo cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH ở miền Bắc, mà còn nhằm tạo cơ sở để
đấu tranh thống nhất nớc nhà. Để lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công
cuộc cách mạng này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều bài nói và viết rất quan
trọng, trong đó Ngời rất quan tâm đến vấn đề phân phối thu nhập.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói (tháng 6/1955), chủ
tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng
và Chính phủ đa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính
sách của ta dù có hay đến mấy cũng không thực hiện đợc.
Tham ô, lãng phí là có tội, mà tham ô lãng phí gạo cứu đói tội lại càng
lớn hơn; không khác gì gián điệp hại đồng bào đó. Thế là có tội với Đảng và
Chính phủ, đối với nhân dân và đối với nớc bạn. Đó là tội thật to. Các cấp uỷ
Đảng cùng với cán bộ tìm cho ra gốc rễ tham ô, lãng phí và xử trí đúng mức"
[16, tr. 572].
Xây dựng CNXH từ một nớc nghèo, nông nghiệp lạc hậu, đó là một đặc
điểm "to nhất" của ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức rằng đảm bảo ăn no cho
nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng nhất. Nó bắt nguồn từ đòi hỏi bức thiết
của ngời dân. Bởi thế, Ngời nhắc nhở phải đẩy mạnh sản xuất. Ngời nói: "Đời
sống ví nh con thuyền. Sản xuất ví nh nớc. Mực nớc lên cao, thì con thuyền
càng nổi lên cao" [17, tr.141]. Cho nên, "các cấp bộ Đảng cần phải thấy hết khả
năng của địa phơng, nhận rõ trách nhiệm đối với đời sống nhân dân... để cố
gắng hơn nữa trong phát triển kinh tế" [19, tr.451].
Phát triển sản xuất là điều kiện để nâng cao đời sống nhân dân. Phải ra
sức sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nhng, phải phân phối cho công bằng hợp
lý. Trong bài phát biểu tại Hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác xã
nông nghiệp toàn miền Bắc (tháng 11/1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở:

muốn "sản xuất đợc nhiều, phải chú ý phân phối cho công bằng, cán bộ phải chí
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
công vô t, thậm chí có khi cán bộ vì lợi ích chung mà phải chịu thiệt thòi một
phần nào. Chớ nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để cho ngời khác" [18,
tr.537]. T tởng phân phối phải công bằng đợc Chủ tịch Hồ Chi Minh rất quan
tâm và luôn nhắc nhở cán bộ đảng viên, những ngời có chức có quyền phải
chăm lo thực hiện.
Ngời viết: "Hết sức chăm lo đời sống nhân dân. Phải ra sức sản xuất và
thực hành tiết kiệm, lại phải phân phối cho công bằng hợp lý, từng bớc cải thiện
việc ăn, mặc, ở, học, phục vụ sức khoẻ và giải trí của nhân dân. Đặc biệt chú
trọng các vùng bị chiến tranh tàn phá, các cháu mồ côi, các cụ già yếu và gia
đình các liệt sỹ, thơng binh, bộ đội, thanh niên xung phong" [21, tr.482]. ở đây,
t tởng phân phối công bằng hợp lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh đợc gắn liền với
yêu cầu phải làm tốt chính sách bảo đảm xã hội.
Đứng trên t tởng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình những việc làm sai
trái của các cấp chính quyền và của cá nhân một số cán bộ đảng viên. Trong bài
nói chuyện với các đồng chí lãnh đạo Tổng công đoàn Việt Nam (tháng
7/1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: "Quần chúng rất thông cảm với hoàn
cảnh thiếu hàng, quần chúng chỉ phàn nàn việc phân phối không công bằng.
Vẫn còn một số cán bộ lạm dụng chức quyền, quan liêu, xa rời quần chúng,
thiếu trách nhiệm trớc quần chúng... làm cho đời sống quần chúng thêm khó
khăn" [21, tr.567]. Ngời đề nghị phải làm tốt công tác lu thông phân phối. "Có
khi vật t, hàng hoá thiếu, mà phân phối không đúng, thì gây ra căng thẳng
không cần thiết. Trong công tác lu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải
luôn luôn nhớ:
- Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng;
- Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên" [21, 185].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nguyên tắc phân phối trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nớc ta. Trong th gửi Đại hội hợp tác xã và đội sản xuất nông

21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp tiên tiến vùng đồng bằng miền Bắc (tháng 1/1964), Ngời đề nghị phải
"làm đúng nguyên tắc phân phối theo lao động" [20, tr.197].
Ngời giải thích: "Phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì
đợc phân phối nhiều, lao động ít thì đợc phân phối ít. Lao động khó thì đợc
phân phối nhiều, lao động dễ thì đợc phân phối ít. Không nên có tình trạng ngời
giỏi, ngời kém, việc khó, việc dễ, cũng công điểm nh nhau. Đó là chủ nghĩa
bình quân. Phải tránh chủ nghĩa bình quân" [19, tr.410].
Bằng những bài nói và viết xuất phát từ nhu cầu thực tiễn (chứ không
phải là những tác phẩm có tính thuần tuý lý luận), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để
lại cho chúng ta những quan điểm, t tởng cơ bản về phân phối thu nhập trong
thời kỳ quá độ lên CNXH. Những quan điểm và t tởng đó mang đậm tính nhân
văn. Nó đựợc phát ra từ một con ngời mà suốt cuộc đời tận tuỵ với hào bão cao
cả làm sao cho mọi ngời ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng đợc học hành, tiến
bộ.
b) Quan điểm của Đảng ta về phân phối thu nhập:
Từ khi đất nớc bớc vào thời kỳ quá độ lên CNXH đến nay, Đảng ta luôn
nhận thức rằng phân phối thu nhập là một nội dung quan trọng trong chính sách
kinh tế-xã hội của đất nớc, liên quan trực tiếp đến cuộc sống của hàng chục
triệu con ngời, đến động lực phát triển kinh tế, đến ổn định chính trị-xã hội và
nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nớc.
Trên cơ sở đổi mới t duy kinh tế nhằm trở lại với những t tởng đích thực
của chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định phân phối
thu nhập trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN phải trên cơ sở sự đóng
góp thực tế của mỗi ngời về lao động, tài năng, vốn, tài sản...vào sản xuất kinh
doanh. Để thực hiên phân phối công bằng, cần phải:
+ Có sự bình đẳng giữa ngời góp vốn với ngời góp sức lao động trong
phân chia kết quả sản xuất;
+ Sự bình đẳng giữa những ngời góp vốn đợc phân phối kết quả sản xuất

theo nguyên tắc ai góp nhiều đợc phân chia nhiều, ai góp ít đợc phân chia ít;
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Sự bình đẳng giữa những ngời lao động đợc phân phối kết quả sản xuất
theo nguyên tắc ai làm nhiều, làm tốt đợc hởng nhiều, ai làm ít hởng ít, ai làm
hỏng phải chịu phạt, mọi ngời có sức lao động phải lao động.
Ngoài ra, xã hội phải điều tiết thu nhập cá nhân giữa những ngời có thu
nhập cao thấp khác nhau do đóng góp sức lao động và các nguồn lực khác vào
sản xuất khác nhau, nhằm đảm bảo công bằng xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) khẳng định:
"Việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi phải sửa đổi
một cách căn bản chế độ tiền lơng theo hớng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức
lao động, khắc phục tính chất bình quân...áp dụng các hình thức trả lơng gắn
chặt với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế".
Phải thực hiện phân phối một cách công bằng "ở cả khâu phân phối hợp
lý t liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho
mọi ngời đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình" [22,
tr.113]. Với quan điểm này, phân phối công bằng trớc hết phải đợc thực hiện ở
việc phân phối hợp lý t liệu sản xuất. Các t liệu sản xuất chủ yếu của xã hội nh
tài nguyên, đất đai... thuộc quyền sở hữu của nhà nớc phải đợc phân phối, sử
dụng hợp lý trên cơ sở phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng chúng.
Trong phân phối kết quả sản xuất, phải "thực hiện nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời
phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác nhau vào kết quả sản xuất
kinh doanh và phân phối thông qua quỹ phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách
điều tiết hợp lý, bảo vệ quyền lợi của ngời lao động" [22, tr.113].
Quan điểm phân phối trên đợc bắt nguồn từ mục đích tối cao của Đảng
là dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nó thể hiện đặc tr-
ng của quan hệ phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lấy phát triển nền
kinh tế thị trờng nhiều thành phần kinh tế làm phơng tiện. Đây là quan điểm

mới về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Việc thực hiện quan
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
điểm đó sẽ tạo động lực cho việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực của xã hội vào sự nghiệp phát triển đất nớc.
1.2. Những nhân tố quy định phân phối và các
nguyên tắc phân phối trong kinh tế thị trờng định h-
ớng XHCN
1.2.1. Những nhân tố quy định phân phối thu nhập
Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội và là một mặt của
quan hệ sản xuất, nêu sự vận động của nó chịu sự ràng buộc của nhiều nhân tố.
Dới đây là một số nhân tố chủ yếu quy định phân phối thu nhập.
a. Sự phát triển của lực l ợng sản xuất
Lực lợng sản xuất là toàn bộ năng lực sản xuất của xã hội ở một thời kỳ
nhất định. Trình độ phát triển của lực lợng sản xuất nói lên trình độ con ngời
chinh phục, cải tạo tự nhiên và từ đó làm ra sản phẩm vật chất cần thiết cho sự
tồn tại và phát triển của mình. Lực lợng sản xuất ảnh hởng đến tính chất của
phân phối, phạm vi phân phối, hình thức biểu hiện của đối tợng đợc đem ra
phân phối.
Trong xã hội cộng xã nguyên thuỷ, lực lợng sản xuất hết sức thấp kém,
chỉ có dựa vào lao động tập thể mới tiến hành sản xuất đợc, lao động mang lại
hiệu quả rất thấp, không có sản phẩm d thừa để tích luỹ, vì thế, trong xã hội
công xã nguyên thuỷ, sản phẩm lao động đợc phân phối bình quân và dới
hình thức hiện vật. Nguyên tắc phân phối này là rất cần thiết vì sản phẩm làm
ra quá ít ỏi. Chỉ có thể thoả mãn nhu cầu sinh tồn bức thiết nhất. Bất cứ một sự
phân phối nào khác đều không thích hợp với trình độ của lực lợng sản xuất lúc
bấy giờ.
Khi lực lợng sản xuất đợc phát triển hơn, thì sản phẩm thặng d suất hiện,
nhng cha nhiều, đồng thời chế độ t hữu suất hiện, nên phơng thức phân phối chỉ
có thể mang tính chất áp đặt, bóc lột, bất bình đẳng. Cùng với sự phát triển của

lực lợng sản xuất và phân phối lao động xã hội, quan hệ hàng hoá - toàn bộ đợc
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mở rộng đã đa đến sự thay thế phân phối hiện vật bằng phân phối dới hình thức
giá trị (tiền tệ) là chủ yếu.
Sự ra đời và phát triển của đại công nghiệp làm cho năng suất lao động
xã hội tăng lên mạnh mẽ, nên khối lợng sản phẩm sản xuất ra rất lớn, quan hệ
phân phối mở rộng. Và cùng với quá trình phát triển của kinh tế thị trờng, phân
phối dới hình thức giá trị ngày càng trở thành phổ biến và có thể thông qua sự
đánh giá của thị trờng để xác định phần đợc phân phối.
Tính chất xã hội hoá sản xuất ngày càng cao cũng tất yếu đòi hỏi nhà nớc
phải điều tiết phân phối để thực hiện chức năng xã hội của mình.
Nh vậy, lực lợng sản xuất là nhân tố ảnh hởng đến phân phối, điều đó thể
hiện ở chỗ: một là, sự phát triển của lực lợng làm tăng khối lợng của cải vật chất
đa vào phân phối, trình độ của lực lợng sản xuất cũng cao, thì quy mô phân phối
càng lớn; hai là, sự thay đổi tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất dẫn đến
sự thay đổi hình thức phân phối, khi lực lợng sản xuất thấp nh trong các xã hội
công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến thì phân phối đợc thực hiện
dới nhiều hình thức phân phối hiện vật, khi lực lợng của sản xuất phát triển cao
thì phân phối đợc thực hiện dới hình thức giá trị (tiền tệ), ba là, sự phát triển của
lực lợng sản xuất là nhân tố quyết định sự biến đổi của các phơng thức phân
phối xã hội: phơng thức phân phối xã hội công xã nguyên thuỷ, xã hội nô lệ, xã
hội phong kiến, xã hội t bản chủ nghĩa, xã hội XHCN.
b. Chế độ sở hữu
Giữa chế độ sở hữu và phân phối có quan hệ ràng buộc lẫn nhau, tạo điều
kiện cho nhau. Nh đã trình bày ở phần trên, quan hệ sở hữu là cơ sở của quan hệ
phân phối, nó quyết định tính chất của quan hệ phân phối. Còn quan hệ phân
phối là hình thức thực hiện của quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất. Nhà t bản là
ngời sở hữu vốn và t liệu sản xuất, dựa vào đó họ chiếm đoạt giá trị thặng d.
Nếu nh gạt bỏ việc chiếm đoạt giá trị thặng d của nhà t bản, thì sự chiếm hữu t

liệu sản xuất của nhà t bản chẳng có ý nghĩa gì.
25

×