Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Đánh giá gánh nặng tử vong do tai nạn thương tích thông qua số năm sống tiềm tàng bị mất đi do chết sớm tại tỉnh Điện Biên trong giai đoạn 2005 - 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.45 KB, 60 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu tử vong (TV) đã được bắt đầu từ rất lâu, hàng năm trong
Niên giám thống kê Y tế do Bộ Y tế ban hành đều có các số liệu TV, chủ yếu
là số liệu TV tại Bệnh viện [8].
Nghiên cứu mô hình bệnh tật và TV nói chung và TV do tai nạn thương
tích (TNTT) nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá hoạt động y tế
cũng như tình hình phát triển kinh tế, xã hội và môi trường của khu vực, phục
vụ phòng ngừa bệnh tật và giảm tỷ lệ TV, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân
dân. Hiện nay, tỷ lệ TV do TNTT ngày càng gia tăng, một trong những
nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật và là vấn đề Y tế công cộng
mang tính toàn cầu, cần được cả thế giới quan tâm. Theo Tổ chức Y tế thế
giới (TCYTTG), hàng năm có khoảng trên 5 triệu người TV do TNTT, tương
đương với khoảng 98 trường hợp TV do TNTT/100.000 dân. Ngoài ra, còn
một số lượng lớn hơn các trường hợp TNTT bị di chứng hoặc tàn tật suốt đời,
TV do TNTT chiếm 10% số năm sống bị mất đã được điều chỉnh do tàn tật
của con người [41]. Theo báo cáo của TCYTTG có chủ đề “Gánh nặng toàn
cầu về bệnh tật” dự báo đến năm 2020 hàng năm có khoảng 8 triệu người TV
do TNTT [6] và TNTT là một trong ba nguyên nhân gây TV nhiều nhất trên
thế giới và TV do TNTT chiếm 20% số năm sống bị mất đã được điều chỉnh
do tàn tật của con người. TV do TNTT nhìn chung cao hơn ở các nước có thu
nhập thấp và trung bình như Việt Nam.
Trong các TNTT thì tai nạn giao thông (TNGT) là nguyên nhân hàng
đầu của gánh nặng TNTT ở mọi khu vực [41].
Ở Việt Nam, TNTT là nguyên nhân gây TV hàng đầu với trên 30 người
TV và 70 người tàn phế sau TNTT xảy ra hàng ngày và gia tăng nhanh theo
1
các năm [56]. Theo Tổng cục Thống kê, cứ 10 trường hợp TV do các nguyên
nhân, có 1 trường hợp TV do TNTT [11].
Đánh giá gánh nặng TV qua số năm sống tiềm tàng bị mất đi vì chết
sớm (YPLL) do TNTT là chỉ số cho phép đánh giá gánh nặng TV của một
cộng đồng. Đây là phương tiện hữu ích trong việc so sánh tình trạng sức khỏe


chung giữa các cộng đồng khác nhau và hỗ trợ một cách đắc lực quá trình lựa
chọn ưu tiên và đang được áp dụng khá phổ biến trên thế giới và khu vực
Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam [13].
Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều chương trình
can thiệp phòng chống TNTT đã và đang được triển khai ở nhiều địa phương
trong cả nước, nhưng tại Điện Biên có rất ít nghiên cứu về TV do TNTT, đặc
biệt chưa có nghiên cứu nào đánh giá gánh nặng TV do TNTT. Từ tình hình
trên, luận văn này được tiến hành nhằm các Mục tiêu sau:
1. Mô tả tình hình tử vong do tai nạn thương tích tại tỉnh Điện Biên
trong giai đoạn 2005 - 2008.
2. Đánh giá gánh nặng tử vong do tai nạn thương tích thông qua số
năm sống tiềm tàng bị mất đi do chết sớm tại tỉnh Điện Biên
trong giai đoạn 2005 - 2008.
Từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa TV do TNTT theo một số
nguyên nhân TNTT thường gặp tại địa phương.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Một số khái niệm:
1.1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu tử vong:
Việc nghiên cứu TV có lẽ xuất phát từ rất lâu, bắt nguồn từ việc đăng ký
quản lý hộ khẩu, hộ tịch. Theo các tài liệu nước ngoài, ở châu Âu người ta đã
nghiên cứu TV từ những năm cuối của thế kỷ 19. Khi đó người ta thấy tỷ lệ
TV rất khác nhau giữa các quốc gia, các vùng và có liên quan rất lớn đến chủ
trương, chính sách, luật pháp của xã hội. Điều này được chứng minh qua một
số bệnh tật và TV được giảm hẳn ở nước Anh khi có những chương trình sức
khỏe cộng đồng, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội cho bà mẹ trẻ em, luật cho
người nghèo, hệ thống chăm sóc sức khỏe cho trẻ em [37].
1.1.2 TNTT và các khái niệm liên quan:
- Tuổi thọ trung bình hay Kỳ vọng sống (KVS) khi sinh là số năm trung

bình có thể sống của một cá thể trong một cộng đồng dân cư nào đó ước tính
từ khi mới sinh ra. Tuổi thọ là một con số được tính trên cơ sở những cuộc
điều tra về dân số, về TV ở một cộng đồng xác định [7].
- TNTT: là thương tổn thực thể trên cơ thể người do tác động của năng
lượng (cơ học, nhiệt, điện, hóa học/ phóng xạ) với mức độ, tốc độ khác nhau
quá sức chịu đựng của cơ thể người. Ngoài ra, chấn thương còn là thiếu hụt
các yếu tố cần thiết cho sự sống (thiếu oxy trong đuối nước, nghẹt/ giảm nhiệt
trong đông lạnh). TNTT gây tổn hại sức khỏe người bị tai nạn và làm người
này phải nghỉ việc hoặc nghỉ học, cần phải chăm sóc y tế, làm hạn chế sinh
hoạt bình thường ít nhất một ngày hoặc làm chết người [34].
3
- TV do TNTT là TNTT làm cho người bị nạn TV vì thương tích trong
vòng 1 tháng kể từ ngày bị tai nạn [23].
- TNTT là danh từ chung để chỉ: TNGT, TNLĐ, Ngã, Đuối nước, Bỏng,
Ngộ độc, Hành hung, bạo lực, Điện giật.
• TNGT bao gồm tất cả các tai nạn do người đi bộ không liên quan
đến phương tiện giao thông đi trên đường giao thông, người đang
tham gia giao thông đụng vào người đi bộ, đi xe đạp, đi xe máy,
đụng vào xe súc vật kéo, xe công nông, xe ô tô, xe bus, xe tải, tàu
hỏa hoặc đổ tàu, xe không do va chạm.
• Tai nạn lao động (TNLĐ): là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ
phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây TV, xảy
ra trong quá trình lao động, gắn liền với thực hiện công việc,
nhiệm vụ lao động (Theo Bộ luật lao động 23/ 6/ 1994).
• Ngã: là những trường hợp chấn thương do bị ngã, rơi từ trên cao
xuống (ngã cao) hoặc ngã trên cùng một mặt bằng. Ngã là nguyên
nhân thường gây nên những chấn thương nghiêm trọng khiến
cho nạn nhân buộc phải nằm viện. Ngã thường gây ra các
thương tật vĩnh viễn và dẫn đến rất nhiều chấn thương nhỏ khác.
Phần lớn các vụ gãy xương, chấn thương sọ não, tủy sống đều

do ngã gây ra [23].
• Đuối nước: Là những trường hợp TV do bị ngạt khi bị chìm sâu
dưới nước. Chết đuối nước được phân thành 2 loại: Chết đuối
nước và chết đuối khô [23].
• Bỏng: là tổn thương một hoặc nhiều lớp tế bào da khi tiếp xúc với
lửa, chất lỏng nóng, chất rắn nóng. Các tổn thương da do sự phát
xạ của tia cực tím hoặc phóng xạ, điện, chất hóa học cũng như tổn
4
thương phổi do khói cũng được coi là những trường hợp bỏng
như: bỏng do lửa cháy, nước sôi, nước vôi tôi…[23].
• Ngộ độc: là những trường hợp hít phải, ăn vào, ngấm vào, tiêm
vào cơ thể các loại độc tố dẫn đến TV hoặc dẫn đến sự chăm sóc
Y tế: ngộ độc thuốc chuột, rượu và các loại hóa chất khác [23].
• Hành hung, bạo lực là những TNTT do 1 người có chủ ý gây ra
cho người khác hoặc do một người có chủ ý gây ra cho mình: cố ý
gây TNTT do xung đột trong gia đình, tự tử, cưỡng bức tình dục,
côn đồ gây gổ [23].
• Điện giật: là những chấn thương do tiếp xúc trực tiếp với nguồn
điện dẫn đến chấn thương hoặc TV. Điện giật trong các gia đình
do sử dụng không an toàn, nơi công cộng trong mưa bão, trong
đánh cá bằng điện, bị điện giật ở nơi lao động [23].
1.1.3 Phân loại bệnh tật theo Bảng phân loại quốc tế bệnh tật chỉnh sửa
lần thứ 10 (ICD- 10) [5]:
- TNTT (Chấn thương, ngộ độc và nguyên nhân bên ngoài) (V01- Y98):
+ TNGT (V01- V99)
+ TNLĐ (W20- W49)
+ Súc vật, động vật cắn, đốt, húc (W50- W64)
+ Ngã (W01- W19)
+ Đuối nước (W65- W84)
+ Bỏng (W85- W99, X40- X49)

+ Ngộ độc (X25- X29, X40- X49)
+ Tự tử (X60- X84)
+ Bạo lực, xung đột (X85- Y09)
+ Điện giật (W85- W99)
+ Khác các nhóm trên.
5
- Bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng (A00- B99)
- Khối u, ung thư (C00- D48)
- Bệnh máu và cơ quan tạo máu (D50- D89)
- Bệnh nội tiết, dinh dưỡng và chuyển hóa (E00- E90)
- Bệnh hệ thần kinh (G00- G99)
- Bệnh hệ tuần hoàn (I00- I99)
- Bệnh hệ hô hấp (J00- J99)
- Bệnh hệ tiêu hóa (K00- K93)
- Bệnh hệ sinh dục, tiết niệu (N00- N99)
- Thai nghén, sinh đẻ và hậu sản (O00- O99)
- Bệnh lý xuất phát trong thời kỳ chu sinh (P00- P96)
- Dị tật bẩm sinh (Q00- Q99)
- Khác: Bệnh tâm thần, hành vi; Bệnh mắt và phần phụ; Bệnh tai xương
chũm; Bệnh da và mô dưới da; bệnh hệ cơ xương khớp và mô liên kết; Dấu
hiệu, triệu chứng không phân loại ở phần khác (F00- F99; H00- H59; H60-
H95; L00- L99; M00- M99; R00- R99; S00- T98; Z00- Z99) [5].
1.2 Tình hình TV do TNTT:
1.2.1 Tình hình TV do TNTT trên thế giới và trong khu vực:
Nghiên cứu TV có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá tình hình bệnh
tật, tuổi thọ của một dân tộc, khu vực cũng như toàn cầu. Với thông tin số liệu
thống kê có thể dự báo được xu thế tuổi thọ tăng hay giảm ở mức độ nào đó
và chiến lược đầu tư nào đem lại hiệu quả hơn [13].
Hiện nay, TNTT là vấn đề sức khỏe công cộng nghiêm trọng ở khắp mọi
nơi trên thế giới với số TV ước tính ngày càng tăng, là một trong những thách

thức hàng đầu của sức khỏe ngày nay [41]. Năm 1998, trên toàn cầu có
khoảng 5,8 triệu người TV do TNTT, chiếm 16% của tất cả các nguyên nhân
TV [6]. Tám trong tổng số 15 nguyên nhân hàng đầu của TV ở người 15- 29
6
tuổi có liên quan đến thương tích và bạo lực. Nhiều người có thể sống sót
nhưng mang di chứng tàn tật suốt đời, nhiều gia đình và cộng đồng đang đối
mặt với những gánh nặng do thương tích và bạo lực gây nên [14].
Mức độ TNTT và TV do TNTT rất khác nhau giữa các quốc gia và khu
vực. Ở châu Âu, tỷ lệ chết do TNTT chiếm khoảng 8,3% so với tất cả các loại
TV khác. Khu vực Tây Thái Bình Dương, có khoảng 1,2 triệu người TV do
TNTT/ năm, tương đương với khoảng 3.300 người TV do TNTT/ngày. Khu
vực Đông Nam Á, có khoảng 1,4 triệu người TV do TNTT/ năm [41].
Trung Quốc: Theo thống kê Quốc gia năm 1999, TNTT là nguyên nhân
gây TV hàng đầu ở độ tuổi 1- 44 với khoảng 750.000 người TV do TNTT/
năm [59]. TV do TNTT ở độ tuổi 0- 39, vùng nông thôn 30,4/100.000 dân;
vùng thành thị 21,3/100.000 dân [16].
Philippines: TV do TNTT tăng 7 lần trong vòng 42 năm từ 1960 đến
2002; TNTT là nguyên nhân thứ 2 gây TV ở nhóm tuổi 0- 14, Số TV do
TNTT/100.000 dân là 40 (năm 1976) [28]. Tương tự ở Singapore: Số TV do
TNTT/100.000 dân là 43 (năm 1984) [65].
Ở Thái Lan: Số TV do TNTT/100.000 dân là 61 (năm 1978) [66], 68
(năm 1981) [67].
Khảo sát TV tại thành phố Malaybalay, Bukidnon, Philippines năm
2004- 2006 cho kết quả: TNTT là nguyên nhân thứ hai gây TV cho mọi nhóm
tuổi [23].
Nghiên cứu ở Ấn Độ về các trường hợp TV từ 1993- 2002 cho thấy tỷ lệ
TV do TNTT chiếm 11% tổng số TV, là nguyên nhân gây TV thứ 3 (nam
13%, nữ 9%). Tỷ lệ TV do TNTT ở nhóm tuổi 5- 14 là 32%, nhóm tuổi 15-
45 là 35% [20]. Nghiên cứu ở nước này năm 1994- 2007, tỷ lệ TV do TNTT ở
nam 68%, cao gấp 2,1 lần ở nữ (32%) [32].

7
Ở Bangladesh, năm 2005, tỷ lệ TV do TNTT tăng theo lứa tuổi của trẻ
em với 2% ở trẻ sơ sinh, 29% TV trong độ tuổi 1- 4, 48% trường hợp TV
trong độ tuổi 5- 9, 52% trường hợp TV từ 10- 14, 64% trường hợp TV từ 15-
17. Đuối nước là nguyên nhân TV lớn duy nhất ở trẻ trên 1 tuổi. TNGT, bỏng,
ngã, ngạt, chấn thương có chủ định là những cấu phần quan trọng trong chấn
thương của trẻ [1]. Và vẫn là vấn đề lớn ở Bangladesh với khoảng 19% số ca
TV ở trẻ 1- 4 tuổi [29], Tỷ lệ TV do TNTT năm 2007 là 6,01% [22].
Nghiên cứu ở Mỹ 1986- 1996 cho kết quả TNTT là nguyên nhân TV đầu
tiên ở trẻ > 1 tuổi và thanh thiếu niên với tỷ lệ 67,9% [47]. Ngoài ra, TNTT
còn là một trong bảy nguyên nhân hàng đầu gây TV ở người lớn tại nước này,
chủ yếu là ngã, TNGT và bỏng [63].
Trong các nguyên nhân gây TV do TNTT thì TV do TNGT là cao nhất.
Trên toàn cầu, trung bình hàng năm TNGT đường bộ đã giết chết gần 1,2
triệu người [9]. Năm 2004, TV do TNGT chiếm 2,1% TV toàn cầu [25]. Ước
tính đến năm 2030 TNGT đường bộ là nguyên nhân thứ 8 trong các nguyên
nhân gây TV [11].
TNGT có sự khác nhau ở từng quốc gia. Ở Trung Quốc, ước tính hàng
năm có khoảng 100.000 trường hợp TV do TNGT [68]. trong khoảng thời
gian 42 năm từ 1951 đến 1999, số người bị TV do TNGT tăng lên gấp 4 lần
[69]. Tỷ lệ TV do TNGT tăng nhanh từ năm 1987 đến năm 2001 tăng từ 7,5%
lên 19% [53]. Một nghiên cứu khác cho thấy TV do TNGT từ 2,1/100.000
(năm 1975) tăng lên 3,65/100.000 dân (năm 2005) [26]. Ngoài ra, ở Trung
Quốc, TNGT là nguyên nhân quan trọng làm tỷ lệ TV ở nông thôn cao hơn
thành thị [16];
Ở Philippines, nghiên cứu các trường hợp TV từ 2004- 2006 cho biết,
TNGT là nguyên nhân chính gây TV do TNTT ở nước này, chiếm tỷ lệ 39,3%
8
[23]; TV do TNGT tăng từ 1,12/100.000 dân (năm 1961) lên 3,65/100.000
dân (năm 2002) [28].

Ở Ấn Độ, nghiên cứu TV từ 1994- 2007, TV do TNGT là cao nhất với
tỷ lệ 52% [32].
TV do TNGT cũng có sự khác nhau về giới và tuổi. Trên toàn thế giới
TV do TNGT ở nam chiếm 26%, nữ chiếm 4% trong tổng số các nguyên nhân
gây TV [20]. Ở Mỹ, nghiên cứu giai đoạn 1981- 1985, TV do TNGT ở nam
14,88/100.000 dân, nữ 5,75/100.000 dân; nghiên cứu giai đoạn năm 1994-
1998, TV do TNGT ở nam là 9,27/100.000 dân, nữ là 3,55/100.000 dân [51].
Năm 2006, có 1335 trẻ em ≤ 14 tuổi TV do TNGT, tương đương với khoảng
4 trường hợp TV do TNGT/ ngày [48]. Ở Thụy Điển, năm 1992 TV do TNGT
chiếm 9/100.000 dân [57]. Ở Ấn Độ, TV do TNGT ở trẻ em ≤ 10 tuổi chiếm
52% [55].
Sau TNGT, tính trên toàn cầu, đuối nước là nguyên nhân thứ 2 gây
TNTT không chủ ý và đuối nước là nguyên nhân hàng đầu gây TV ở trẻ em
trên 1 tuổi trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương, trên 50% TV do đuối
nước xảy ra ở Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Trong đó, nam giới
chiếm phần lớn [21]. Ở Trung Quốc, đuối nước là nguyên nhân chính gây ra
sự khác biệt tỷ lệ TV giữa vùng nông thôn và thành thị ở nước này [46].
Ở Philippines, đuối nước là một trong những nguyên nhân chính gây TV
do TNTT ở trẻ em [28], TV do đuối nước chiếm 2,3% tổng số TV do các
nguyên nhân [23];
Ở Mỹ, năm 2005, đuối nước là nguyên nhân hàng đầu gây TV ở trẻ em ≤
14 tuổi với tỷ lệ là 25%. Trong đó, trẻ em 1- 4 tuổi chiếm 30%, nam TV do
đuối nước nhiều hơn nữ 4 lần [46]. Tương tự với kết quả nghiên cứu ở
Bangladesh [1] và ở Thái Lan, TV do đuối nước cao gấp 2 lần TV do TNGT
đường bộ, với Tỷ lệ TV do đuối nước dao động từ 7,5- 11,5/100.000 trẻ [30].
9
Ngoài các nguyên nhân TV trên còn có TV do bỏng, súc vật, côn trùng
cắn, TNLĐ, ngộ độc, tự tử, điện giật.
Trên thế giới TV do ngộ độc khác nhau giữa nam và nữ, giai đoạn 1979-
1980, TV do ngộ độc ở nam 5,41/100.000 dân, nữ 2,59/100.000 dân; giai

đoạn 1989- 1990, nam 7,4/100.000 dân, nữ 2,64/100.000 dân [51];
Tỷ lệ TV do TNLĐ giai đoạn 1980- 1985 ở nam là 7,45/100.000 dân, ở
nữ là 0,29/100.000 dân; giai đoạn 1993- 1997 ở nam là 6,26/100.000 dân, ở
nữ là 0,39/100.000 dân [51];
Ở Philippines, nghiên cứu giai đoạn 2004- 2006, TV do bỏng chiếm
3,4%, do tự tử chiếm 3%, do bị đâm chiếm 21,4%, do bị bắn là 19,9% [23];
Ở Ấn Độ, năm 1994- 2007, TV do bỏng ở trẻ em ≤ 10 tuổi chiếm 22,7%
[55], tự tử là nguyên nhân hàng đầu gây TV do TNTT, với nam chiếm 20%,
nữ chiếm 11% trong tổng số TV do TNTT [20].
Ở Trung Quốc, tự tử là nguyên nhân làm tỷ lệ TV ở tuổi 15- 39 vùng
nông thôn cao và ngạt là nguyên nhân hàng đầu gây TV [16].
Ở Mỹ, từ 1980 đến 1991, với tỷ lệ TV do điện giật đứng thứ 2
2,7/100.000 dân, chủ yếu ở nam giới, trẻ [52]; Năm 1984- 1988, điện giật là
nguyên nhân thứ năm gây TV do TNTT và là nguyên nhân thứ hai gây TV
trong các ngành công nghiệp xây dựng [60]; TV do điện giật trong tiểu bang
Washington từ 1950- 1979, tuổi trung bình TV là 33,2 năm, chủ yếu gặp TV
ở những người dưới 20 tuổi [50]; Năm 2001 tỷ lệ TV do chó cắn là 0,004-
0,07/100.000 dân [61]; Năm 2005, TV do bỏng là 1 trong 5 nguyên nhân đầu
tiên gây TV do TNTT [45];
Ở Atlanta, TV do điện giật (1977- 1985) 0,9/100.000 dân/ năm. Cao nhất
ở công nhân lao động trong các công ty tiện ích (10/100.000 dân), công nhân
mỏ (5,9/100.000 dân), và các ngành công nghiệp (3,9/100.000 dân) [54].
10
1.2.2 Tình hình TV do TNTT ở Việt Nam:
TNTT là một vấn đề y tế công cộng nổi cộm ở Việt Nam, nó đã được
chính phủ Việt Nam và nhiều tổ chức khác nhìn nhận và các hoạt động về
phòng chống TNTT đã được triển khai trong một vài năm vừa qua [2].
Ở Việt Nam, tỷ lệ TV do TNTT chiếm 10,7% trong tổng số các trường
hợp TV theo kết quả điều tra y tế quốc gia 2002. Ngoài TNGT (chiếm khoảng
50%), các TNTT khác thường gặp tại cộng đồng: Đuối nước, ngộ độc, ngã,

bỏng, TNLĐ là nguyên nhân của hàng nghìn trường hợp TV mỗi năm [41].
Ở Việt Nam, xu hướng TV do TNTT tăng nhanh trong những thập kỷ
qua, mỗi năm có khoảng 30.000 trường hợp TV do TNTT, chiếm 11% các
nguyên nhân gây TV [42]; Theo Niên giám thống kê Y tế năm 2007, mô hình
TV do TNTT cũng khác nhau giữa các năm: năm 2001 tính trên cả nước TV
do TNTT là 88,4/100.000 dân, chiếm tỷ lệ 10,7% tổng số TV, cao gấp 3 lần
so với TV do nhóm bệnh truyền nhiễm [8], [41]; năm 2002, TV do TNTT đã
vượt tỷ lệ TV do nhóm bệnh truyền nhiễm trở thành nguyên nhân thứ 2 gây
TV, chiếm 10,8% [7]; năm 2005 Tỷ lệ TV do TNTT cả nước là 45/100.000
dân; năm 2006 là 46,1/100.000 dân chiếm 11,8% [8], [43]. Đặc biệt TV do
TNTT đứng hàng đầu trong các nguyên nhân gây TV tại bệnh viện. Trong đó,
TV do TNTT ở trẻ em chiếm 17- 18% [26]. Ở Lâm Thao- Phú Thọ tỷ lệ TV
do TNTT năm 2005 là 8,91% [13].
Nghiên cứu tại xã Thượng Cát- Từ Liêm- Hà Nội năm 1996- 2005, tỷ
lệ TV do TNTT chiếm 8,3% tổng số các trường hợp TV, đứng thứ 3 trong các
nguyên nhân gây TV [17].
Tỷ lệ TV/100.000 dân, năm 2001, do TNGT là 27,2; do đuối nước là
23,3; do ngộ độc là 7,7; Năm 2005, TNGT 19,9; do đuối nước là 8,6; do tự tử
là 5; do ngộ độc là 2,1; Năm 2006, do TNGT 21,2; do đuối nước là 8,7; do tự
tử là 5; do ngộ độc là 1,9 [8], [44].
11
TNTT là nguyên nhân chính gây TV ở trẻ em 5- 19 tuổi, đặc biệt là
đuối nước với tỷ lệ TV/100.000 dân là 13,47; TNGT là 6,85 [42].
Mô hình TV do TNTT có sự khác nhau giữa các vùng miền, vùng đồng
bằng sông Hồng năm 2005 Tỷ lệ TV do TNTT là 38,6/100.000 dân; năm
2006 là 38,4/100.000 dân; vùng Đông Bắc năm 2005 Tỷ lệ TV do TNTT là
60,0/100.000 dân; năm 2006 là 60,0/100.000 dân; vùng Tây Bắc (trong đó có
Điện Biên), năm 2005 Tỷ lệ TV do TNTT là 56,3/100.000 dân; năm 2006 là
60,7/100.000 dân [8].
Ngoài ra, TV do TNTT cũng có sự khác nhau giữa các tỉnh. Tỷ lệ TV

do TNTT trung bình ở Long An, Huế, Hải Dương và Hưng Yên là
50,25/100.000 dân, tương tự tỷ lệ TV báo cáo trong cuốn sổ A6/YTCS [43].
Căn cứ theo kết quả điều tra hộ gia đình về TNTT tại Hải Dương và Hưng
Yên (2006) tỷ lệ TV do TNTT là 61/100.000 dân [39]; tại Huế (2005)
49,5/100.000 dân; tại Long An (2005) 44,5/100.000 dân [40]; Tại huyện Từ
Liêm- Hà Nội, TV do TNTT là 51,1/100.000 dân [18], Tại Định Công, TV do
TNTT 65,3/100.000 dân [27]. Năm 2005, ở Sơn La, TV do TNTT
48,8/100.000 dân, ở Hòa Bình là 64,2/100.000 dân; năm 2006 ở Sơn La, TV
do TNTT 55,0/100.000 dân, ở Hòa Bình là 59,5/100.000 dân [8].
Tỷ lệ TV do TNTT cũng khác nhau theo giới. Tỷ lệ TV do TNTT ở
nam cao gấp 3 lần ở nữ (nam chiếm 76%, nữ chiếm 24%) [14]; tính trên cả
nước, năm 2002, tỷ lệ TV do TNTT ở nam chiếm 13,7%, ở nữ chiếm 7,1%;
năm 2005 tỷ lệ TV do TNTT ở nam là 66,1/100.000 dân, ở nữ là 22,8/100.000
dân. Trong đó, tỷ lệ TV do TNGT ở nam là 30,8/100.000 dân, ở nữ là
8,6/100.000 dân; do đuối nước ở nam là 11,2/100.000 dân, ở nữ là
5,7/100.000 dân; do tự tử ở nam là 6,4/100.000 dân, ở nữ là 3,5/100.000 dân;
do ngộ độc ở nam là 3,0/100.000 dân, ở nữ là 1,0/100.000 dân; năm 2006 tỷ
lệ TV do TNTT ở nam là 68,2/100.000 dân, ở nữ là 23/100.000 dân, tỷ lệ TV
12
do TNGT ở nam là 32,8/100.000 dân, ở nữ là 9,0/100.000 dân; do đuối nước
ở nam là 11,8/100.000 dân, ở nữ là 5,5/100.000 dân; do tự tử ở nam là
6,4/100.000 dân, ở nữ là 3,4/100.000 dân; do ngộ độc ở nam là 2,7/100.000
dân, ở nữ là 1,0/100.000 dân [8].
Ở vùng đồng bằng sông Hồng năm 2005 tỷ lệ TV do TNTT ở nam là
56,4/100.000 dân, ở nữ là 20,1/100.000 dân; năm 2006 ở nam là 56,5/100.000
dân, ở nữ là 19,8/100.000 dân; vùng Đông Bắc năm 2005 tỷ lệ TV do TNTT
ở nam là 87,1/100.000 dân, ở nữ là 31,7/100.000 dân; năm 2006 ở nam là
89,2/100.000 dân, ở nữ là 29,7/100.000 dân; vùng Tây Bắc (trong đó có Điện
Biên), năm 2005 tỷ lệ TV do TNTT ở nam là 80,2/100.000 dân, ở nữ là
31,5/100.000 dân; năm 2006 ở nam là 87,0/100.000 dân, ở nữ là 33,7/100.000

dân [8], phần lớn các trường hợp TV tập trung vào lứa tuổi lao động (15- 59
tuổi) [14] hoặc 20- 59 [43]. Năm 2002, tỷ lệ TV do TNTT cao nhất ở lứa tuổi
10- 24 tuổi (56,5%), tiếp theo là 5- 9 tuổi (39,4%), 1- 4 tuổi (25,8%), 25- 59
tuổi (19,5%), ≥ 60 tuổi (3,2%), < 1 tuổi (2,5%) [7]. Năm 2005, ở Sơn La, TV
do TNTT ở nam là 66,4/100.000 dân, ở nữ là 31,0/100.000 dân; ở Hòa Bình
TV do TNTT ở nam là 96,2/100.000 dân, ở nữ là 30,2/100.000 dân; Năm
2006, ở Sơn La, TV do TNTT ở nam là 79,0/100.000 dân, ở nữ là
30,8/100.000 dân; ở Hòa Bình TV do TNTT ở nam là 87,5/100.000 dân, ở nữ
là 30,1/100.000 dân [8]; Tại Lâm Thao- Phú Thọ, năm 2005, nam (11,28%),
nữ (4,95%) [13]. TV do TNTT ở trẻ em < 15 tuổi chiếm 75% tổng tỷ lệ TV
do các nguyên nhân ở lứa tuổi này, trong đó TV do TNTT ở trẻ em 5- 19 tuổi
là 46,7% [41].
Việt Nam cũng như toàn thế giới, TNGT đứng hàng đầu trong các
nguyên nhân TNTT gây TV. Trong vòng 10 năm từ năm 1990 đến năm 2001,
số trường hợp TV do TNGT tăng lên gấp 5 lần [34], trong 5 năm gần đây,
mỗi năm có khoảng 12.000 người TV do TNGT [44], chiếm khoảng 50% các
13
trường hợp TV do TNTT [41]; Năm 2005, tại Từ Liêm- Hà Nội, TV do
TNGT chiếm 50,51% [18]. Tại hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên năm 2006,
tỷ lệ TV do TNGT cao nhất (38%) [39].
Từ năm 1989 đến năm 1998, sau 10 năm TV do TNGT tăng lên 4 lần.
Năm 1990 cả nước có 2000 người TV do TNGT thì chỉ 8 tháng năm 2002 cả
nước có 8.500 người TV do TNGT [2]. Năm 2007, TV do TNGT là
14,76/100.000 dân [35].
TV do TNGT cũng có sự khác nhau về khu vực, tỉnh, giới và độ tuổi,
Tây Nguyên (2005- 2006), TNGT là nguyên nhân hàng đầu trong 10 nguyên
nhân chính của TNTT với tỷ lệ 62,3% [31]; nam chiếm 79%, nữ chiếm 21%,
chủ yếu tập trung ở lứa tuổi 20- 59 [43].
Đuối nước là nguyên nhân thứ hai gây TV trong nhóm TNTT không cố
ý, chỉ sau TNGT đường bộ. Hầu hết các trường hợp TV rơi vào nhóm trẻ em

≤ 14 tuổi [38].
Tỷ lệ TV do đuối nước ở trẻ em cao nhất 39,2/100.000 trẻ [44]. Năm
2005, tại Từ Liêm- Hà Nội TV do đuối nước 14,14%. Cũng trong nghiên cứu
này, đứng sau TV do đuối nước là TV do điện giật với 3,54% [18].
Ở hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên nghiên cứu năm 2006, TV do ngã
là nguyên nhân thứ 2 gây TV do TNTT (23%), sau đó là súc vật cắn (11%),
Đuối nước (0,45%), Bỏng (4,04%), Điện giật (1,94%), Ngộ độc (0,6%) [39].
Nghiên cứu ở Thừa Thiên- Huế năm 2004- 2006, tỷ lệ TV do TNGT là
50,4%, do đuối nước là 19,5%, do tự tử là 10,5%, do TNLĐ là 4,9% [36].
1.3 Gánh nặng TV do TNTT:
Ngoài những chỉ số đơn lẻ phản ánh tình trạng sức khỏe của cộng đồng:
KVS khi sinh, tỷ suất chết thô, tỷ suất chết trẻ dưới 1 tuổi, tỷ suất chết trẻ em
dưới 5 tuổi, tỷ lệ mắc một số bệnh , chỉ số YPLL được đưa ra và sử dụng
như là phương tiện hữu ích trong việc so sánh tình trạng sức khỏe chung giữa
14
các cộng đồng khác nhau và hỗ trợ một cách đắc lực quá trình lựa chọn ưu
tiên, phân bổ nguồn lực Y tế Chỉ số này đã thể hiện được những ưu điểm và
ngày càng được dùng trên thế giới. Đây là chỉ số cho phép đánh giá gánh
nặng TV của một cộng đồng dựa trên hiệu số KVS khi sinh và tuổi lúc TV.
Phương pháp này cho thấy nếu chết ở độ tuổi càng trẻ thì số năm sống mất đi
càng nhiều. Một xã hội có tuổi thọ càng cao thì chỉ số YPLL càng thấp.
Trong nghiên cứu này, tính YPLL theo KVS khi sinh của Việt Nam năm
2007 là 72,84. Như vậy, nếu 1 người chết ở tuổi 35, có nghĩa là người đó mất
37,84 năm vì chết sớm.
1.3.1 Gánh nặng TV do TNTT trên thế giới:
Năm 2004, trên thế giới ước tính có khoảng 2,6% giảm DALYs (Số
năm sống bị mất đi vì chết sớm và mang bệnh) [25]. Mỗi năm tỷ lệ TV ở
các nước có thu nhập thấp và trung bình, chiếm tới 85- 90% số trường hợp
giảm chỉ số DALYs [25].
Gánh nặng toàn cầu do TNTT sẽ gia tăng trong những thập kỷ tới [15].

Tại khu vực Đông Nam Á, TNTT đóng góp 16% tổng gánh nặng bệnh
tật toàn cầu. [41], Khu vực châu Á- Thái Bình Dương, TNTT làm thiệt hại
về kinh tế chiếm từ 1- 5% tổng sản phẩm quốc nội của mỗi quốc gia [33].
Tổ chức lao động Quốc tế ước tính 4% GDP toàn thế giới chi phí cho
TNTT [3]. Tương tự ước tính của TCYTTG tổn thất toàn cầu do TNGT
khoảng 518 tỉ đô la Mỹ/ năm, ở các nước thu nhập thấp và trung bình như
Việt Nam chi phí này là 65 tỷ đôla Mỹ/ năm, nhiều hơn khoản viện trợ của
các nước này nhận được cho phát triển kinh tế xã hội [41]. Còn ở Mỹ, ước
tính chi phí cho TNLĐ khoảng 140 tỷ đô la Mỹ/ năm, chiếm 1/6 chi phí xã
hội [58]; chi phí cho TV do bỏng chiếm 2% tổng chi phí cho TNTT [45]; tuổi
thọ mất đi do súng ngắn là 103,6 ngày [62].
15
1.3.2 Gánh nặng TV do TNTT ở Việt Nam:
Ngân hàng châu Á ước tính, tổn thất kinh tế hàng năm do TNGT đường
bộ gây ra ở Việt Nam là 885 triệu đô la Mỹ [10], tương đương với khoảng
140.000 tỷ đồng Việt Nam (chưa kể nguồn lực của ngành Y tế dành cho cứu
chữa và phục hồi chức năng cho nạn nhân) [41].
Theo nghiên cứu Gánh nặng của thương tích nghề nghiệp ở công nhân
cơ khí đóng tàu, tổng số năm mất đi với 145 công nhân bị thương là 4,04
DALYs, nam mất nhiều DALYs hơn nữ (nam 3,743 DALYs, nữ 0,287
DALYs) [12].
Kết quả nghiên cứu Gánh nặng bệnh tật tại huyện Chí Linh- Hải Dương
qua phân tích số liệu TV năm 1997- 1998 cho thấy TNTT là gánh nặng bệnh
tật hàng đầu, chiếm gần 40% tổng số năm sống tiềm tàng bị mất đi do chết
sớm. Khi phân tích số liệu theo giới, gánh nặng TV do TNTT ở nam cao hơn
hẳn ở nữ trong cả 2 năm và gánh nặng TV do các bệnh lý chu sinh ở nữ luôn
cao hơn ở nam, ở nhóm tuổi 5- 14 gánh nặng TV do TNTT đứng đầu chiếm
hơn 70% tổng gánh nặng bệnh tật, đứng hàng thứ hai là nhóm tuổi 0- 4; Gánh
nặng TV do TNTT tiếp tục đứng hàng đầu ở nhóm tuổi 15- 29 và 30- 49; TV
do đuối nước ở nam cao chỉ gần bằng 1/2 ở nữ nhưng gánh nặng TV do đuối

nước lại chiếm gần 1/3 gánh nặng bệnh tật do TNTT (30,3%) và nữ chiếm 2/3
(61,5%) [24].
Tại Lâm Thao- Phú Thọ, nghiên cứu TV năm 2005, tổng số năm mất đi
do chết sớm vì TNTT là 1.285/100.000 dân (theo KVS của người Nhật Bản),
chiếm 8,97%; nam 11,28% cao hơn nữ 4,85%; trẻ em < 1 tuổi 0,2%; trẻ em 1-
< 5 tuổi 0,3%; trẻ em 5- < 15 tuổi 0,5%; 15- <60 tuổi 5,8%; ≥ 60 tuổi 1,9%;
Tính theo tuổi thọ trung bình của người Việt Nam, số YPLL do TNTT của
huyện Lâm Thao- Phú Thọ năm 2005 là 5.110 năm/100.000 dân (theo KVS
của người Việt Nam [13].
16
Tại Sóc Sơn- Hà Nội, nghiên cứu TV năm 2002 cho biết tổng số YPLL
do TNTT 34,8% [37].
Nghiên cứu “Đo lường gánh nặng TV sớm tại Tại Ba Vì- Hà Tây thông
qua chỉ số năm sống tiềm tàng bị mất đi năm 2002- 2003” cho thấy trong 2
năm 2002- 2003, số năm sống tiềm tàng bị mất do chết sớm chủ yếu tập trung
vào nhóm TNTT với tỷ lệ 25,7% và chủ yếu ở tập trung ở nhóm trẻ em < 5
tuổi, nhóm người cao tuổi > 60 và giai đoạn trưởng thành 20- 60. Kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy số năm sống tiềm tàng bị mất do chết sớm ở nam
cao hơn nữ, năm 2002 gấp 1,24 lần; Năm 2003 nam gấp nữ 2,60 lần; trong
đó, chung cả 2 giới, gánh nặng TV do TNTT là 20.000/100.000 dân [19].
1.4 Tình hình TV do TNTT và gánh nặng TV do TNTT tại tỉnh Điện Biên
- Tại tỉnh Điện Biên, có ít nghiên cứu về tình hình TV và tình hình TV
do TNTT nhưng chưa được đầy đủ và cụ thể. Đặc biệt, chưa có
nghiên cứu nào nghiên cứu về gánh nặng TV nói chung và gánh nặng
TV do TNTT nói riêng.
- Năm 2005, TV do TNTT ở Điện Biên là 54,8/100.000 dân; Trong đó,
Tv do TNTT ở nam là 76,2/100.000 dân, nữ là 32,6/100.000 dân.
Năm 2006, TV do TNTT ở Điện Biên là 69,0/100.000 dân; Trong đó,
Tv do TNTT ở nam là 92,9/100.000 dân, nữ là 44,1/100.000 dân [8].
- Trong nghiên cứu này sẽ tính toán YPLL của một số nguyên nhân TV

do TNTT thường gặp tại địa phương.
17
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa điểm nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu được tiến hành tại tỉnh Điện Biên (Phụ lục 2).
Điện Biên là tỉnh miền núi biên giới, thuộc vùng Tây Bắc, cách thủ đô
Hà Nội gần 500 km về phía Tây; phía Bắc giáp tỉnh Lai Châu, phía Đông và
Đông bắc giáp tỉnh Sơn La, phía Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam- Trung Quốc;
phía Tây và Tây Nam giáp với nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.
Tỉnh Điện Biên có 7 huyện, 1 thị xã và 1 thành phố với 106 xã/ phường/ thị
trấn, chủ yếu nằm ở vùng núi cao, chỉ có 1 thành phố và 1 huyện nằm ở khu vực
tương đối bằng phẳng, xung quanh bao phủ bởi đồi núi, giao thông đi lại khó khăn
với kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, làm nương rẫy (Nguồn Ủy ban nhân dân
tỉnh Điện Biên).
Về hoạt động y tế, hiện nay Điện Biên đã cơ bản kiện toàn hệ thống y tế
từ tỉnh đến Trạm Y tế xã và Y tế thôn/ bản. Toàn tỉnh Điện Biên có 5 Bệnh
viện đa khoa, 20 phòng khám đa khoa khu vực, 106/106 xã/phường/thị trấn có
Trạm y tế (100%) [8].
Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh hiện nay là 9.554.097 km
2
với dân số
trung bình năm 2007 là 459.100 người, gồm 21 dân tộc, trong đó dân tộc Thái
chiếm 40,4%, dân tộc H’mông chiếm 28,8%, dân tộc Kinh chiếm 19,7%, còn
lại là các dân tộc khác chiếm 11,1% [8].
Điện Biên đang là một trong những tỉnh nghèo của cả nước với trên
13.000 hộ nghèo và có tới 4 huyện nằm trong danh sách 61 huyện nghèo
trong cả nước theo nghị quyết 30A của Chính phủ, toàn tỉnh mới có 70/106
xã/ phường có đường ô tô đến trung tâm xã đi lại được trong mùa khô (Nguồn
Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên).

18
2.2 Đối tượng nghiên cứu:
- Toàn bộ các trường hợp TV thuộc diện quản lý hộ khẩu của tỉnh Điện Biên
từ 0h ngày 01/ 01/ 2005 đến 24h ngày 31/ 12/ 2008 là đối tượng nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Các trường hợp TV từ 0h ngày 01 tháng 01 năm
2005 đến 24h ngày 31 tháng 12 năm 2008 không phân biệt tuổi, giới, dân tộc,
có hộ khẩu tại tỉnh Điện Biên, dù TV ở bất kỳ đâu.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Những trường hợp TV trên địa bàn tỉnh Điện Biên
nhưng không thuộc tỉnh Điện Biên quản lý hộ khẩu.
2.3 Phương pháp nghiên cứu:
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu chung:
Dịch tễ học mô tả cắt ngang hồi cứu số liệu TV do TNTT của 106 xã/
phường/ thị trấn thuộc tỉnh Điện Biên trong 4 năm 2005- 2008.
2.3.2 Cỡ mẫu:
- Toàn bộ các trường hợp TV trong 4 năm (2005- 2008) được ghi chép
trong sổ A6/YTCS tại 106 xã/ phường/ thị trấn của tỉnh Điện Biên trong 4
năm 2005- 2008: 6410 trường hợp TV.2.3.3 Biến số, chỉ số nghiên cứu và
công cụ, kỹ thuật thu thập thông tin:
19
2.3.3.1 Biến số, chỉ số nghiên cứu:
Mục tiêu Biến số Định nghĩa biến số/chỉ số Phương pháp thu thập
Mục tiêu
1: Mô tả
tình hình
tử vong
do tai nạn
thương
tích tại
tỉnh Điện
Biên

trong giai
đoạn
2005 -
2008.
Dân số - Tính tỷ lệ TV theo
nguyên nhân/100.000 dân
= (số TV từng nguyên
nhân/dân số tham gia
nghiên cứu năm đó) X
100.000
- Tính cấu trúc dân số theo
nhóm tuổi = (dân số tham
gia nghiên cứu X dân số
từng nhóm tuổi 1999)/ tổng
dân số 1999.
- Hồi cứu tư liệu sẵn có
về số dân trung bình theo
giới từ Trạm y tế xã năm
2005, 2006, 2007, 2008
theo mẫu báo cáo nguyên
nhân TV.
- Hồi cứu cấu trúc dân số
theo nhóm tuổi 1999 bằng
Biểu mẫu thu thập cấu
trúc dân số 1999.
Tuổi - Tính tỷ lệ TV do TNTT
theo nhóm tuổi = (số TV
do TNTT/ dân số tham gia
nghiên cứu của nhóm tuổi
đó) X 100.000

Hồi cứu tư liệu sẵn có (Sổ
A6/YTCS) theo mẫu báo
cáo nguyên nhân TV.
Giới - Tính tỷ lệ TV do TNTT
theo giới = (số TV do
TNTT từng giới/số TV
từng giới) X 100
Hồi cứu tư liệu sẵn có (Sổ
A6/YTCS) theo mẫu báo
cáo nguyên nhân TV.
Tháng
năm
- Tính tỷ lệ TV do TNTT theo
năm = (số TV do TNTT từng
năm / số TV từng năm) X 100
Hồi cứu tư liệu sẵn có (Sổ
A6/YTCS) theo mẫu báo
cáo nguyên nhân TV.
Nguyên
nhân
- Tính tỷ lệ TV do TNTT
theo nguyên nhân = (số TV
theo từng nguyên nhân
TNTT/ dân số tham gia
nghiên cứu) X 100.000
Hồi cứu tư liệu sẵn có (Sổ
A6/YTCS) theo mẫu báo
cáo nguyên nhân TV.
Mục tiêu Dân số - Tính tỷ lệ gánh nặng TV - Hồi cứu tư liệu sẵn có
20

2: Đánh
giá gánh
nặng tử
vong do
tai nạn
thương
tích thông
qua số
năm sống
tiềm tàng
bị mất đi
do TNTT/100.000 dân=
(YPLL của TNTT/ dân số
tham gia nghiên cứu)
X100.000
về số dân trung bình theo
giới từ Trạm y tế xã năm
2005, 2006, 2007, 2008
theo mẫu báo cáo nguyên
nhân TV.
Tuổi - Tính YPLL = [Kỳ vong
sống khi sinh của Việt
Nam năm 2007 (72,84)-
tuổi trung bình khi chết] X
số chết từng khoảng.
- Tính gánh nặng TV do
TNTT theo nhóm tuổi =
(YPLL của TNTT ở từng
nhóm tuổi/dân số tham gia
nghiên cứu) X 100.000

Hồi cứu tư liệu sẵn có (Sổ
A6/YTCS) theo mẫu báo
cáo nguyên nhân TV.
Giới - Tính gánh nặng TV do
TNTT theo giới= (YPLL
của TNTT từng giới/ dân
số tham gia nghiên cứu của
giới đó) X 100.000
Hồi cứu tư liệu sẵn có (Sổ
A6/YTCS) theo mẫu báo
cáo nguyên nhân TV.
Tháng
năm
- Tính gánh nặng TV do
TNTT theo năm= (YPLL
của TNTT từng năm/dân
số tham gia nghiên cứu) X
100.000
Hồi cứu tư liệu sẵn có (Sổ
A6/YTCS) theo mẫu báo
cáo nguyên nhân TV.
Dân số nghiên cứu là tổng số dân số trung bình năm ở các xã do Trạm Y
tế xã báo cáo. Nếu xã nào không báo cáo dân số thì gọi điện thoại đến Trạm Y
tế xã bổ sung hoặc lấy dân số trung bình năm của năm gần nhất.
21
2.3.3.2 Công cụ và kỹ thuật thu thập thông tin:
• Công cụ thu thập thông tin: Sử dụng Mẫu báo cáo nguyên nhân
TV (phụ lục 1) gồm:
- Thông tin chung.
- Hướng dẫn cách ghi chép nguyên nhân TV.

- Danh sách các trường hợp TV,
• Kỹ thuật thu thập thông tin:
- Tập huấn cách ghi chép thông tin vào phiếu ghi chép nguyên nhân TV
cho giám đốc các trung tâm Y tế huyện/ thị/ thành phố (phụ lục 1).
- Sau đó, trung tâm Y tế huyện/ thị/ thành phố tập huấn cách ghi chép
thông tin vào phiếu ghi chép nguyên nhân TV cho Trưởng trạm Y tế
xã/ phường/ thị trấn.
- Quy trình thu thập số liệu:
Các trường hợp TV từ ngày 01/ 01/ 2005 đến 31/ 12/ 2008 được khai
thác các nguyên nhân TV từ sổ A6/YTCS do Trưởng trạm Y tế xã/
phường/ thị trấn ghi chép.
22
Nhóm nghiên cứu
Đại học Y Hà Nội

Sơ đồ 1: Sơ đồ thu thập số liệu nghiên cứu
Ghi chú : Quy trình phát phiếu thu thập số liệu TV.
Quy trình thu phiếu thu thập số liệu TV.
2.3.3.3 Biện pháp khống chế sai số:
 Tập huấn kỹ phương pháp ghi chép nguyên nhân và thu thập thông
tin cho Trưởng Trạm Y tế xã.
 Tăng cường giám sát trong quá trình thu thập số liệu: Kiểm tra ngẫu
nhiên danh sách TV ở sổ A6/YTCS của một vài xã so với danh sách
TV báo cáo theo mẫu.
 Đối chiếu số liệu với các nguồn thông tin khác nhau: Dân số, Tư
pháp, Y tế
2.4 Phương pháp phân tích, xử lý số liệu:
23
Sở Y tế Điện Biên
Trung tâm Y tế các

huyện/ thị/ thành phố
Trạm Y tế các xã
• Số liệu được ghi nhận, làm sạch số liệu rồi nhập vào máy tính bằng
phần mềm Excel, mã hoá nguyên nhân TV theo ICD- 10, sau đó sử
dụng thuật toán thống kê mô tả để phân tích số liệu bằng phần mềm
Stata 8.0.
• Kiểm tra tính logic của số liệu:
- Loại trừ các trường hợp TV báo cáo lặp lại.
- Các trường hợp TV không có giới, ngày tháng năm TV, không có tuổi
lúc TV.
- Chỉ các trường hợp TV trong 4 năm từ 0h ngày 1/1/2005 đến 24h
ngày 31/12/2008 mới được đưa vào nghiên cứu.
- Kiểm tra mỗi huyện/ thị/ thành phố 1 xã/ phường/ thị trấn bằng cách
lấy danh sách TV ở cán bộ tư pháp và cán bộ dân số để so sánh với danh sách
báo cáo từ sổ A6/YTCS của trạm Y tế xã/ phường/ thị trấn.
2.5 Thời gian nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 2 đến tháng 8 năm 2009.
2.6 Đạo đức trong nghiên cứu:
- Việc thu thập số liệu này không gây hại cho cộng đồng và cá nhân.
- Số liệu thu được sẽ giữ bí mật và chỉ dùng cho mục đích khoa học
- Hệ thống tổ chức thu thập thông tin dựa vào chức năng quản lý nhà
nước của cục Y tế dự phòng- Bộ Y tế.
- Nghiên cứu được sự đồng ý của Uỷ ban nhân dân tỉnh và Sở Y tế tỉnh
Điện Biên, Trung tâm Y tế các huyện /thị/ thành phố và Trạm y tế các
xã/ phường/ thị trấn.
- Kết quả thu được báo cáo cho Sở Y tế và chính quyền địa phương để
phục vụ công tác phòng bệnh.
2.7 Hạn chế của đề tài:
24
Do điều kiện nguồn nhân lực, thời gian, kinh phí và là nghiên cứu hồi

cứu các tư liệu sẵn có và mới thu thập số liệu ở một nguồn là sổ A6/YTCS
nên số liệu có thể không đầy đủ, nguyên nhân có thể ghi không đầy đủ hoặc
không chính xác và kết quả chỉ mang tính chất mô tả. Lý do:
 Không phải lúc nào, ở đâu và bất cứ ai ốm cũng đều đến Trạm Y tế
xã để cấp cứu trước khi chết.
 Không phải trường hợp chết nào trong xã cũng được ghi nhận và
công tác ghi chép nguyên nhân TV không được quan tâm thường
xuyên và nhiều khi còn chỉ ghi các trường hợp chết tại cơ sở y tế.
Các trường hợp được ghi vào sổ A6/YTCS còn qua loa, không điền
đầy đủ các thông tin, nguyên nhân không ghi hoặc ghi chết ốm, chết
bệnh, chết già…
 Nghiên cứu này mới chỉ đánh giá kết quả ghi chép nguyên nhân TV
của 4 năm theo báo cáo của Trạm Y tế xã, số liệu TV do TNTT có
thể thay đổi theo các năm nên số liệu này chưa thể đại diện cho tình
hình TV của toàn tỉnh Điện Biên.
25

×