Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

một số vấn đề để bàn luận về cán bộ quản lý sản xuất công nghiệp.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.63 KB, 35 trang )

Lời nói đầu
Hoạt động sản xuất công nghiệp có những điểm tương tù nh các hoạt
động khác của con người. Tuy nhiên nó có một số điểm khác là về sản phẩm
đầu ra, các yếu tố đầu vào và phương pháp tiến hành. Sản xuất công nghiệp
ban đầu là sản xuất ra công cụ, phương tiện, tư liệu sản xuất. Sản phẩm của
công nghiệp là một sản phẩm có cấu tạo phức tạp và độ chính xác cao con
người phải sử dụng những yếu tố đầu vào là nguyên liệu công cụ thiết bị lao
động có chất lượng cao để sản xuất.
Quá trình sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp phải trải qua nhiều công
đoạn với nhiều người tham gia, với trình độ công nghệ và trí tuệ cao. Một nền
công nghệ cao nó cũng đồng nghĩa với nền kinh tế phát triển và trình độ trí
tuệ của con người cũng phát triển. Từ trước tới nay con người luôn tìm cách
đổi mới cách thức sản xuất công nghiệp nhằm đạt được hiệu quả cao và bền
chắc. Sản xuất công nghiệp chỉ đạt được hiệu quả cao khi nó được hoạch
định, điều phối, tổ chức tốt và được kiểm tra một cách nghiêm túc, khoa học.
Việt nam chóng ta đang trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên quản lý sản xuất công nghiệp là vấn
đề hết sức quan trọng và cần được chú trọng đầu tư. Do vậy, vấn đề đào tạo,
xây dựng đội ngò cán bộ quản lý doanh nghiệp sản xuất công nghiệp đáp ứng
cho yêu cầu của sản xuất công nghiệp là vấn đề cấp thiết. Được sự hướng dẫn
qua môn khoa học quản lý của thầy giáo PGS. TS Đỗ Văn Phức cùng với
những kiến thức thực tế em xin đưa ra một số vấn đề để bàn luận về cán bộ
quản lý sản xuất công nghiệp.
Tiểu luận gồm có ba phần :
Phần mét : SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP.
Phần hai : NỘI DUNG TÍNH CHẤT QUẢN LÝ SẢN XUẤT CÔNG
NGHIỆP.
Phần ba : CÁN BỘ QUẢN LÝ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP.
1
Phần I
SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP


I - SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP.
Công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, một bộ
phận cấu thành nên nền sản xuất vật chất của xã hội. Công nghiệp thì bao
gồm nhiều loại hoạt động, tuy nhiên nó có ba hoạt động chủ yếu là khai thác
tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thủy, sản xuất và chế
biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại
sản phẩm nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội, khôi phục những
giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và trong
sinh hoạt. Từ những hoạt động chủ yếu đó, dưới tác động của phân công lao
động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và kỹ thuật thì trong nền kinh tế
đã hình thành nên một hệ thống các ngành công nghiệp như công nghiệp khai
thác, chế biến, dịch vụ sửa chữa. . . Hoạt động khai thác là hoạt động khởi đầu
của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp, hoạt động chế biến là hoạt động
tạo ra sản phẩm công nghiệp. Nh vậy sản phẩm công nghiệp được hình thành
từ hai hoạt động khai thác và chế biến, còn sửa chữa là hoạt động không thể
thiếu được nhằm kéo dài tuổi thọ của sản phẩm.
Sản phẩm công nghiệp là sản phẩm được hình thành nên qua quá trình
sản xuất công nghiệp, sau mỗi chu kỳ sản xuất thì đối tượng lao động được
thay đổi cả về lượng lẫn về chất từ công dụng cụ thể này sang công dụng cụ
thể hoàn toàn khác, thậm chí từ một loại nguyên liệu ban đầu sau quá trình
sản xuất thì có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có các công dụng khác nhau.
Đây là một đặc trưng cơ bản và quan trọng tạo ra cho sản phẩm công nghiệp
sự khác biệt so với các sản phẩm được tạo ra trong quá trình sản xuất nông
nghiệp. Chúng ta có thể xem xét các đặc trưng của sản xuất công nghiệp với
sản xuất nông nghiệp trên hai mặt : mặt kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế
2
xã hội của sản xuất để thấy được vai trò quan trọng của sản phẩm công
nghiệp.
- Đặc trưng về mặt kỹ thuật - sản xuất của công nghiệp được thể hiện trên
các khía cạnh là:

+ Đặc trưng về công nghệ sản xuất : trong công nghiệp chủ yếu là quá
trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ lý hoá của con người, làm thay
đổi các đối tượng lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của
con người. Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp lại bằng phương pháp sinh
học là chủ yếu, tạo ra các điều kiện, môi trường sinh thái sống tốt hơn để làm
biến đổi đối tượng lao động là cây trồng, vật nuôi, hình thành và phát triển,
tạo ra các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con người.
+ Đặc trưng về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kỳ
sản xuất : các đối tượng lao động của quá trình sản xuất công nghiệp, sau mỗi
chu kỳ sản xuất, được thay đổi hoàn toàn về chát từ công dụng này sang công
dụng khác. Trong khi đó, đối tượng lao động của sản xuất nông nghiệp bao
gồm các động thực vật sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về lượng là
chủ yếu.
+ Đặc trưng về công dụng kinh tế của sản phẩm : sản phẩm công
nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu ở các trình độ ngày càng cao
của xã hội. Sản phẩm trong nông nghiệp thì chỉ đáp ứng được nhu cầu cơ bản
thiết yếu mà thôi.
- Đặc trưng về kinh tế - xã hội của sản phẩm:
+ Do các đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất nên trong quá trình
phát triển, công nghiệp luôn luôn là ngành có điều kiện phát triển về kỹ thuật,
tổ chức sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển nhanh ở trình độ cao.
+ Do đặc điểm kỹ thuật của sản xuất, trong quá trình sản xuất , công
nghiệp đào tạo ra được một đội ngò lao động có tính tổ chức, tinh kỷ luật
cao, có tác phong lao động công nghiệp.
3
Nh vậy, sản phẩm công nghiệp có vai trò hết sức to lớn, nó ngày càng
chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế, nó cũng thể hiện trình độ phát triển của
xã hội. Điều này là phù hợp với quy luật phát triển trong cơ cấu kinh tế,
ngành công nghiệp từ một ngành có vị trí thứ yếu đã phát triển thành một
ngành to lớn có vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế. Do đặc điểm về mặt kỹ

thuật sản xuất thì sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là đặc điểm công nghệ thể
hiện khả năng sinh trưởng của các đối tượng lao động thành sản phẩm, và
đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp chỉ có thể đáp ứng nhu cầu thiết yếu cơ bản
của con người. Trong khi đó, do các đặc điểm của bản thân quá trình sản
xuất, công nghiệp ngày càng phát triển tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu
có tính đa dạng, với trình độ thỏa mãn nhu cầu của xã hội ngày càng cao hơn,
từ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản thiết yếu đến thỏa mãn nhiều loại nhu cầu
có tính cao cấp, từ đáp ứng nhu cầu cấp một tiến đến đáp ứng nhu cầu cấp hai
và ba Như vậy, sản phẩm công nghiệp ngày càng trở nên cần thiết trong
đời sống xã hội, nó là sản phẩm của trí tuệ loài người, xã hội càng phát triển
thì sản phẩm công nghiệp càng trở nên tinh vi hơn và quan trọng hơn. Chúng
ta có thể lấy những ví dụ rất điển hình ở trong cuộc sống như trước đây
phương tiện giao thông chủ yếu là đường bộ, sự giao lưu giữa các nước ở
trong một phạm vi hẹp, tiến dần lên là bằng đường thủy, khi công nghệ trở
nên tiên tiến thì đường không đã ra đời. Máy bay ra đời đã thu hẹp mọi
khoảng cách giữa các quốc gia trên thế giới, mọi người trở nên gần gũi nhau
hơn và từ đó lại thúc đẩy công nghệ phát triển.
II – CÔNG NGHỆ TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH CÔNG NGHIỆP
1 – Thực chất và vai trò của công nghệ
Trong những buổi đầu công nghiệp hóa, người ta dùng khái niệm công
nghệ với nghĩa rất hẹp, nó được định nghĩa là các phương pháp, giải pháp kỹ
thuật trong các dây chuyền sản xuất. Tuy nhiên, từ những năm 60 trở lại đây
4
do có quan hệ mua bán, nên công nghệ được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Hiện
nay, trên thế giới đang tồn tại khá nhiều quan niệm về công nghệ.
Có thể hiểu công nghệ là tổng hợp các phương tiện kỹ thuật, kỹ năng,
phương pháp được dùng để chuyển hóa các nguồn lực thành một loại sản
phẩm hoặc một loại sản phẩm nào đó. Công nghệ gồm bốn thành phần cơ
bản, tác động đồng bộ qua lại với nhau để tạo ra bất kỳ một sự biến đổi mong
muốn nào.

Nã bao gồm các thành phần nh sau :
- Công cụ, máy móc thiết bị, vật liệu gọi là phần cứng của công nghệ
- Thông tin, phương pháp, quy trình, bí quyết.
- Tổ chức, thể hiện trong thiết kế tổ chức, liên kết, phối hợp, quản lý.
- Con người.
Những phần sau này được gọi là phần mềm của công nghệ. Nh vậy,
công nghệ được hiểu với nghĩa rộng hơn, đầy đủ hơn so với kỹ thuật. Tuy
nhiên kỹ thuật và công nghệ luôn luôn liên quan với nhau và có quan hệ mật
thiết với nhau, chúng chỉ có sự phân biệt tương đối, để sáng tạo ra một công
nghệ mới thường đòi hỏi phải có phương tiện kỹ thuật, công nghệ mới tạo ra
phương tiện kỹ thuật mới. Trong thời đại của tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày
nay thì khoa học, kỹ thuật, công nghệ, sản xuất có mối quan hệ hữu cơ với
nhau, không tách rời nhau. Trướcđây thì khoa học, kỹ thuật, công nghệ, sản
xuất được tách rời, khoa học đi sau kỹ thuật và công nghệ, nó chỉ làm được
chức năng giải thích, tổng kết hiện tượng tự nhiên. Loài người đã tạo ra công
cụ lao động bằng đá từ buổi sơ khai, sau đó là bằng sắt, bằng đồng để săn bắt,
đánh cá, trồng trọt, trước khi khám phá ra căn cứ khoa học để sản xuất ra
chóng. Khi cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên mới bắt đầu, nhiều công
nghệ, kỹ thuật mới ra đời dùa vào kinh nghiệm sản xuất trực tiếp hơn là dùa
vào tiến bộ khoa học.Nhưng ngày nay, mối quan hệ khoa học kỹ thuật, công
nghệ sản xuất đã có sự thay đổi căn bản, kỹ thuật công nghệ không thể phát
triển từ kinh nghiệm thực tế, mà phải từ kết quả nghiên cứu khoa học. Ngược
5
lại, nghiên cứu khoa học lại dùa vào kỹ thuật, công nghệ và sản xuất phát
triển cho phép tạo ra vốn và những phương tiện, thiết bị ngày càng hoàn thiện
hơn cho công tác nghiên cứu, thúc đẩy khoa học phát triển ngày một nhanh
chóng hơn.
Khoa học kỹ thuật, công nghệ và sản xuất phát triển ngày càng đóng
một vai trò quan trọng trong xã hội, nó đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao
của con người. Từ những nhu cầu cơ bản thiết yếu trong cuộc sống đến

những nhu cầu cao hơn, đồng thời giúp cho con người ngày càng hoàn thiện
chính mình hơn. Công nghệ là tinh hoa trí tuệ, là lao động sáng tạo của con
người để phục vụ con người. Chính công nghệ là chìa khoá của sự phát triển
là cơ sở và động lực thúc đẩy phát triển. Tiến bộ trong công nghệ đã làm thay
đổi mọi mặt của đời sống xã hội, làm thay đổi động thái của dân số và tăng
cường năng lực của con người ở mọi lứa tuổi.
2 - Nguyên liệu trong sản xuất kinh doanh công nghiệp
Nguyên liệu trong sản xuất kinh doanh công nghiệp là đối tượng lao
động đã trải qua lao động của con người để khai thác, sản xuất ra nó. Nguyên
liệu là đối tượng lao động nhưng không phải tất cả đối tượng lao động đều là
nguyên liệu, tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa nguyê liệu và đối
tượng là sự kết tinh lao động của con người ở trong đối tượng lao động.
Nh vậy, chúng ta có thể thấy tài nguyên giàu có của một đất nước chỉ là
tiềm năng để phát triển nguyên liệu. Trình độ phát triển cơ sở nguyên liệu
còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của ngành khai thác và chế biến tài
nguyên thiên nhiên, để tạo ra các sản phẩm trung gian trong quá trình tái sản
xuất công nghiệp. Một quốc gia có nền công nghệ phát triển thì cũng sẽ khai
thác quản lý tốt nguồn nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh công nghiệp.
Nguyên liệu là đối tượng của quá trình sản xuất kinh doanh công nghiệp
được vận động theo một quá trình liên tục qua nhiều khâu, quá trình này
6
được bắt đầu từ khi nguyên liệu còn là đối tượng lao động trong môi trường
tự nhiên, qua khai thác và sản xuất thì trở thành sản phẩm công nghiệp.
Vậy nguyên liệu là một thành phần không thể thiếu để tạo ra sản phẩm
công nghiệp, chính vì thế chúng ta cần phải xây dựng và bảo đảm nguồn
nguyên liệu thật tốt. Tuy nhiên để làm được điều nay thì cần phải có một nền
công nghệ phát triển, nhân tố con người là một nhân tố chủ đạo, quyết định
đến sự phát triển đó.
Con người nh đã nói ở phần trên, nó là một phần cấu tạo nên công nghệ
và là phần mềm. Con người làm cho công nghệ hoạt động, làm cho máy móc

thiết bị, phương tiện kỹ thuật phát huy hết tính năng của chúng. Nhờ tính
năng động và sáng tạo, con người đã cải tiến, mở rộng, đổi mới các thiết bị
máy móc, tạo ra những sản phẩm mới ngày một hiện đại hơn, tiên tiến hơn.
Tóm lại sản xuất công nghiệp là sản xuất ra máy móc, thiết bị để nhân
sức lao động của con người lên nhằm nâng cao hiệu quả trong công việc. Sản
xuất công nghiệp là loại hình sản xuất trong đó con người sử dụng những thứ
quý hiếm để tạo ra những sản phẩm quý giá nhằm phục vụ cho cuộc sống và
nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Nh vậy, trong sản xuất
kinh doanh công nghiệp thì tạo ra được những sản phẩm mới sẽ có thể giành
được thắng lợi trong kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, các
doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá
sản phẩm, muốn làm được điều này thì các doanh nghiệp cần đổi mới công
nghệ sản xuất, nâng cao trình độ của người lao động lên phù hợp với trình độ
của công nghệ sản xuất.

7
Phần II
Nội dung và tính chất của quản lý sản xuất kinh doanh công nghiệp
I - NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ SẢN XUẤT KINH DOANH CÔNG
NGHIỆP
1 - Thực chất của quản lý
Quản lý là sự tác động hướng đích của hệ thống chủ thể đến sự hoạt
động của hệ thống đối tượng bằng một hệ thống các biện pháp, phương pháp
và công cụ làm cho hoạt động của hệ thống bị quản lý đó vận hành đúng yêu
cầu của các quy luật khách quan và phù hợp với định hướng, mục tiêu của hệ
thống chủ thể quản lý. Để có thể hiểu sâu hơn về nội dung của khái niệm
quản lý chóng ta cần phải có nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau.
Thứ nhất, quản lý kinh tế được tiếp cận theo các dạng hoạt động lao
động, thì quản lý kinh tế là một dạng lao động đặc biệt. Tính đặc biệt của nó
được thể hiện ở hệ thống đối tượng quản lý, hệ thống chủ thể quản lý và đặc

biệt là ở hệ thống công cụ quản lý. Đối tượng quản lý là hoạt động của hệ
thống nền kinh tế, bao gồm nhiều phân hệ được quản lý theo ngành, theo
lãnh thổ với mọi loại hình các đơn vị sản xuất kinh doanh cơ sở. Hoạt động
đó lại chịu sự tác động tổng hợp của nhiều loại quy luật nh : kinh tế, xã hội,
tự nhiên, tâm lý Do đó đòi hỏi những con người, trong hệ thống chủ thể
quản lý phải có trình độ tổng hợp về việc vận dụng các quy luật đó trong hoạt
động quản lý. Tính đặc thù cảu hệ thống chủ thể quản lý là một hệ thống bao
gồm nhiều tuyến, nhiều cấp và nhiều bộ phận chức năng khác nhau, đòi hỏi
sự tác động quản lý của cả hệ thống đó phải đồng bộ, đồng hướng theo mục
tiêu chung của hệ thống. Tính đặc thù của hệ thống công cụ quản lý là cơ chế
vận dụng các phạm trù kinh tế của nền sản xuất hàng hoá tạo thành một hệ
8
thống các đòn bẩy quản lý lấy phương pháp kinh tế và đòn bẩy kinh tế là
công cụ tác động chủ yếu trong hoạt động quản lý.
Thứ hai, quản lý kinh tế được tiếp cận theo quy trình và nội dung của
hoạt động, thì quản lý kinh tế là tổng hợp của ba quá trình gồm : quá trình
xây dựng mục tiêu, quá trình tổ chức thực hiện mục tiêu, quá trình đIều khiển
đIều hành và kiểm tra. Ba quá trình trên phải được tiến hành đồng bộ, đồng
hướng theo một mục đích thống nhất của hệ thống trong hoạt động quản lý.
Quá trình xây dựng mục tiêu được thực hiện thông qua các hoạt động hoạch
định chiến lược, kế hoạch. Quá trình tổ chức thực hiện mục tiêu được thực
hiện thông qua các hoạt động tổ chức hệ thống sản xuất kinh doanh và tổ
chức hệ thống bộ máy quản lý và cơ chế hoạt động của bộ máy đó. Quá trình
điều khiển, điều chỉnh và kiểm tra được thực hiện thông qua các hoạt động
xây dựng cơ chế vận dụng các phạm trù kinh tế, hình thành hệ thống các
công cụ quản lý và sử dụng các công cụ đó.
Thứ ba, quản lý kinh tế được tiếp cận theo phương pháp hệ thống thì
quản lý bao gồm ba bộ phận cơ bản : hệ thống đối tượng quản lý, hệ thống
chủ thể quản lý và hệ thống thông tin ra quyết định quản lý. Hoạt động quản
lý mà muốn được thực hiện thông suốt và hiệu quả, đòi hỏi phải có tính thích

ứng, thích nghi giữa ba bộ phận đó. Hệ thống tổ chức sản xuất được coi là cơ
sở, căn cứ để lùa chọn phương thức ra quyết định và hệ thống thông tin ra
quyết định, tổ chức quản lý bộ máy phù hợp.
Tóm lại với những cách thức tiếp cận nh trên cho phép chúng ta hiểu sâu
hơn về thực chất quản lý nói chung và quản lý kinh tế nói riêng.

2- nội dung và tính chất của quản lý sản xuất kinh doanh công nghiệp
2.1 – kinh doanh sản xuất công nghiệp trong kinh tế thị trường
Mét trong những hoạt động cơ bản, quan trọng nhất của con người là
hoạt động kinh tế, loài người đã sáng tạo ra nền kinh tế và thị trường nhằm
9
mục đích phát triển nhanh, có hiệu quả hoạt động kinh tế. Nền kinh tế là một
phương thức ( thể chế, cơ chế định hướng, điều khiển và cách thức) tiến hành
các hoạt động kinh tế chủ yếu. Thị trường là nơi gặp gỡ giữa người có và
người cần hàng hóa, họ tiến hành trao đổi, mua bán với nhau. Loài người đã
trải qua các nền kinh tế từ thấp đến cao nh sau :
- Nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp, tự sản tự tiêu.
- Nền kinh tế hàng hóa giản đơn, trong đó con người chỉ mới tiến hành trao
đổi hàng lấy hàng là chủ yếu.
- Nền kinh tế thị trường tự do, trong đó tiền đã xuất hiện và trở thành hàng
hóa đặc biệt, là vật trung gian cho việc trao đổi, nó đã thúc đẩy kinh tế tư
nhân phát triển mạnh mẽ.
- Nền kinh tế hiện đại, trong đó các công ty cổ phần và công ty xuyên quốc
gia phát triển mạnh mẽ, sản xuất kinh doanh được tiến hành trên cơ sở
thiết bị công nghệ hiện đại, sản phẩm sáng tạo, uy tín, dịch vụ trở thành
loại hàng hóa đặc biệt và chiếm tỉ trọng cao.
Nh vậy, đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường là hàng hóa, là tự
do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Chính vì vậy, mà nền
kinh tế thị trường cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt, đa dạng và đôi khi
trở nên thô bạo. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hoạt động chủ yếu theo

quy luật cạnh tranh đáp ứng nhu cầu hàng hóa. Cạnh tranh diễn ra trong thiên
nhiên và trong đời sống con người ở mọi nơi, mọi lúc không tuỳ thuộc vào ý
muốn của riêng ai nên là một quy luật quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Con
người thường xuyên phải tạo ra, giành giập nguồn sống, điều kiện phát triển,
sự cạnh tranh là hết sức khắc khiệt. Trong hoạt động kinh tế cạnh tranh là sự
giành giật thị trường, khách hàng, đối tác trên cơ sở các ưu thế về chất lượng
hàng hóa, giá cả, thời hạn, sự thuận tiện và uy tín lâu dài. Cạnh tranh theo
nghĩa này là sự cạnh tranh lành mạnh. Để có thể giành được lợi thế và chiến
thắng trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp, những người sản
xuất phải tạo được lợi thế về giá cả, chất lượng, dich vụ. Muốn có được
10
những lợi thế đó thì những người quản lý cần phải đầu tư thoả đáng cho việc
nghiên cứu đổi mới sản phẩm, đổi mới quản lý, công nghệ và nhất là cho con
người. Chất lượng sản phẩm có ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh, trước
hết là chất lượng phải đảm bảo, phù hợp với yêu cầu của người sử dụng, vì
vậy khi quản lý kinh doanh thì cần nắm bắt được chất lượng mà người sử
dụng cần và phải biết được quan hệ giữa chi phí với chất lượng. Trước đây,
thì người ta quan niệm để đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ
phải đầu tư, sử dụng những vật tư, thiết bị đắt tiền tuy nhiên nó lại làm tăng
khấu hao, từ đó dẫn đến việc tăng chi phí, giảm sự canh tranh về giá bán. Tuy
nhiên, trong nền kinh tế thị trường do đảm bảo được chất lượng phù hợp với
yêu cầu của người sử dụng thì sản phẩm sẽ được tiêu thụ nhanh và với số
lượng nhiều vì thế nó cũng sẽ làm tăng phần chi phí cố định, giảm giá thành
một đơn vị sản phẩm từ đó dẫn đến giảm giá bán. Cạnh tranh lành mạnh giữa
những nhà sản xuất và nhà cung cấp tạo ra phản ứng dây chuyền tích cực
đem lại nhiều lợi Ých thiết thực trước hết là cho người tiêu dùng, cho những
người cạnh tranh thành công, cho cộng đồng và cho toàn xã hội. Tiến hành
cạnh trạnh lành mạnh là phải không ngừng sáng tạo, sử dụng sản phẩm sáng
tạo, phải biết chi nhiều để thu được nhiều hơn, phải biết mạo hiểm và chấp
nhận rủi ro… Trong kinh tế thị trường phương pháp quản lý hiện đại và tiến

bộ khoa học kỹ thuật là hai vũ khí sắc bén để tạo nên thành công cho doanh
nghiệp khi cạnh tranh. Bản thân sản xuất kinh doanh có cạnh tranh lại luôn
thúc đẩy hai lĩnh vực đó nhanh chóng phát triển. Doanh nghiệp nào bị tụt hậu
và không xác định được sự quan trọng và có sự quan tâm thích đáng cho hai
lĩnh vực đó thì luôn có nguy cơ thất bại trong cạnh tranh, nguy cơ phá sản.
Chính vì vậy, trong kinh tế thị trường thường thì doanh nghiệp phải chủ động
bỏ tiền mua thành tựu khoa học công nghệ, phương pháp quản lý hiện đại
hoặc đầu tư nghiên cứu triển khai để tạo ra các lợi thế cạnh tranh của sản
phẩm, dịch vụ. Thực tế thì luôn có những người không chịu hoặc không biết
tiến hành cành tranh lành mạnh, tức là luôn có khả năng xuất hiện, tồn tại
11
cạnh tranh không lành mạnh. Quản lý nhà nước có nhiệm vụ và trách nhiệm
tạo điều kiện cho cạnh tranh lành mạnh được phát triển và kiểm soát, ngăn
ngõa, xử lý cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh té thị trường đem lại cho chóng
ta những lợi Ých to lớn nh sau :
- Hàng hóa phong phú hơn đẹp hơn, dễ mua hơn.
- Con người chủ động hơn, năng động hơn.
- Các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất ra đời nhanh hơn và phát triển mạnh
mẽ hơn.
- Phân công lao động công bằng hơn trong xã hội.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường cũng tồn tại những khiếm khuyết khó
khắc phục nh :
- Một số người quá cuồng nhiệt với việc theo đuổi hiệu quả kinh tế dẫn đến
mua bán mọi thứ, tiến hành cạnh tranh thô bạo, thiếu công bằng.
- Dễ dẫn đến sự tàn phá môi trường sống, không quan tâm đến môi trường
sống và làm việc của người lao động.
- Bất công với những người có khả năng cạnh tranh yếu kém do nguyên
nhân khách quan như : bẩm sinh, cống hiến cho cách mạng.
Chính vì thế, nhà nước cần có nhiệm vụ tạo ra khung pháp lý, cơ sở hạ

tầng, cơ chế kiểm soát, đề ra chiến lược ưu tiên phát triển cho từng giai đoạn
nhằm phát huy tối đa các lợi Ých, phòng ngõa được nhiều nhất những khuyết
tật của kinh tế thị trường.
Nh vậy, chúng ta có thể khẳng định nền kinh tế thị trường là nền kinh
tế hoạt động chủ yếu theo quy luật cạnh tranh đáp ứng nhu cầu hàng hóa.
Con người sống là hoạt động để thỏa mãn nhu cầu, con người luôn
mong muốn và tìm cách để được sống tốt hơn, để hoạt động hiệu quả hơn.
nTiến hành hoạt động bao giê con người cũng phải huy động và sử dụng một
số nguồn lực nhất định, hoạt động nào thì cũng đem lại những hiệu quả, kết
quả cụ thể. Kết quả, hiệu quả đó có thể là hữu hình cũng có thể là vô hình nó
12
có thể trực tiếp thỏa mãn nhu cầu sống của con người và cũng có thể chỉ là tư
liệu sản xuất, sản phẩm trung gian. Sù so sánh tương quan, so sánh kết quả,
lợi Ých do hoạt động đem lại với phần các nguồn lực sử dụng, tham gia vào
quá trình tạo ra kết quả đó được gọi là hiệu quả. Hiệu quả được dùng để đánh
giá trình độ hoạt động, phản ánh mức độ thỏa mãn nhu cầu. Nh vậy, con
người không chỉ lo nghĩ và thực thi việc tạo ra sản phẩm cụ thể để phục vụ
cho cuộc sống và phát triển mà còn luôn phải trả lời câu hỏi quan trọng nhất
là đạt được sản phẩm với giá nào? và bằng cách nào?
Con người ngày càng tập trung vào một hoặc một số hoạt động để
thông qua đó có tiền thỏa mãn các nhu cầu của cuộc sống. Hoạt động định
hướng, đầu tư, tổ chức chi nhằm vào việc thỏa mãn nhu cầu của người khác
để có thu thỏa mãn nhu cầu của chính mình được gọi là hoạt động kinh
doanh. Doanh nghiệp là một đơn vị tiến hành một hoặc một số hoạt động
kinh doanh, là tổ chức làm kinh tế có tư cách pháp nhân, doanh nghiệp có thể
tiến hành sản xuất kinh doanh, hoặc thương mại, kinh doanh dịch vụ hoặc cả
ba. Để kinh doanh có hiệu quả trước hết phải nghiên cứu lùa chọn được sản
phẩm, thị trường phù hợp và cần phải chuẩn bị một cách công phu và thông
minh nhất, muốn có phương án kinh doanh thì doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp phải đầu tư nghiên cứu, dự báo nhu cầu cụ thể, định lượng tương đối

chính xác nhu cầu của thị trường, các nguồn lực đáp ứng khác như đối thủ
cạnh tranh và năng lực của bản thân doanh nghiệp trong tương lai. Nhu cầu
của thị trường là nhu cầu của một cộng đồng người nên rất đa dạng, phong
phú và luôn biến động, từ nhu cầu của con người chúng ta có thể nhận biết
được phần lớn nhu cầu của thị trường.
Vậy nhu cầu của thị trường có thể quan niệm nh sau nhu cầu của con
người là những gì cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Khi dự báo nhu cầu của thị trường thì cần chú ý đến nhận thức, khả năng
thanh toán của người tiêu dùng, giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm và động
thái cơ cấu chất lượng.
13
Từ một góc nhìn nhận khác chúng ta thấy do kỳ vọng về hiệu quả, điều
kiện, hoàn cảnh nên hoạt động của con người phần lớn có sự tham gia của
nhiều người. Hoạt động kinh tế có sự tham gia của nhiều người trong bối
cảnh có cạnh tranh là hoạt động vô cùng phức tạp, muốn có hiệu quả sản xuất
công nghiệp cao phải biết nhìn nhận, định hướng, lập kế hoạch, chuẩn bị
triển khai nghiêm túc, phân công rõ ràng hợp lý, phối hợp ăn khớp nhịp
nhàng, điều chỉnh linh hoạt… Các thao tác đó là thao tác quản lý sản xuất
công nghiệp. Vậy quản lý sản xuất công nghiệp là loại quản lý lao động đặc
biệt của con người nhằm đạt được hiệu quả cao của kinh doanh sản xuất công
nghiệp có sự tham gia của nhiều người, là tác động đến người thừa hành của
họ thực hiện công việc, mục tiêu của doanh nghiệp, là loại quan hệ đặc giữa
người với người trong hoạt động sản xuất công nghiệp.
Quản lý sản xuất công nghiệp trong điều kiện cạnh tranh là tìm cách,
biết cách tác động đến những người cấp dưới, những người thừa hành để họ
tạo ra và duy trì các lợi thế về chất lượng, giá cả của sản phẩm công nghiệp
được chế tạo, thời hạn, thuận tiện, uy tín.
2.2 – quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
Nhà nước là một thiết chế quyền lực, là một hệ thống thống trị, lãnh
đạo, quản lý cảu giai cấp thắng thế của toàn xã hội đối với các cá nhân, tập

thể và các giai cấp khác. Nhà nước bao gồm có cơ quan lập pháp, cơ quan
hành pháp và cơ quan tư pháp. Từ khi có giai cấp và các đảng phái thì nhà
nước xuất hiện và đóng vai trò hết sức quan trọng, không thể thiếu, nhà nước
cần thiết để tham gia quản lý sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế là
do :
- Hoạt động kinh tế là hoạt động trọng yếu của xã hội, của một quốc gia. Sự
tác động của cơ chế thị trường vào hoạt động của nền kinh tế có tính trực
tiếp, sự tác động đó đã làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, tạo
được tác động kích thích nền kinh tế phát triển và hoạt động sản xuất kinh
14
doanh có hiệu quả, song sự tác động đó cũng có những nhược điểm như
do chạy theo lợi nhuận tối đa nên không tạo ra cơ cấu sản phẩm tối ưu đối
với xã hội, cũng do chạy theo lợi nhuận nên đã cố gắng bớt xén chi phí,
không chú ý đến tác hại của sản xuất đến chất lượng môi trường.
- Nền kinh tế thường có tính chu kỳ, dễ có những biến động to lớn.
- Tư nhân không dễ dàng đầu tư vào các hoạt động cần thiết cho phát triển
nền kinh tế, phát triển xã hội nhưng Ýt lãi hoặc khó thu hồi vốn, đầu tư
vào các vấn đề chung liên quan đến nhiều địa phương, nhiều đơn vị, liên
quan đến tương lai xa như các công trình công cộng cầu đường…
- Nhiều sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp đưa ra cho xã hội tiêu dùng
không dễ dàng kiểm dịch được chất lượng và ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ, đến môi trường lao động và môi trường sinh thái.
- Các chủ doanh nghiệp trong quá trình chạy đua tìm kiếm, săn lùng lợi
nhuận dễ thỏa hiệp với nhau đi đến độc quyền làm ảnh hưởng đến lợi Ých
của người tiêu dùng, chèn Ðp quyền lợi của người làm công, sử dụng các
nguồn tài nguyên kém hiệu quả, cạnh tranh thô bạo với nhau và thường
dẫn tới xung đột.
- Bản thân từng doanh nghiệp, nhà kinh doanh điều khiển hoạt động trong
một bộ phận nhỏ hẹp, một doanh nghiệp do đó tầm nhìn xa trông rộng để
định hướng sự phát triển và tránh rủi ro, hoặc do khả năng tự tạo lập điều

kiện, những môi trường cho hoạt động kinh doanh bị hạn chế, họ rất cần
phải có sự hỗ trợ của nhà nước.
- Công nghiệp do đặc điểm của quá trình sản xuất, đặc điểm về tính đa
dạng hóa hoạt động, đa dạng hóa sản phẩm, đặc điểm về công nghệ sản
xuất mà sự phát triển của phân công lao động có trình độ sâu hơn, trình độ
xã hội hóa cao hơn bất cứ một ngành nào. Vì thế, đòi hỏi phải có sự quản
lý của nhà nước để cho quá trình sản xuất được diễn ra nhịp nhàng, cân
đối và đúng định hướng, tránh được tình trạng khủng hoảng kinh tế có
tính chu kỳ.
15
- Trong xã hội tồn tại những lĩnh vực, lực lượng quan trọng cần được bảo
đảm đầu tư và điều tiết thu nhập.
- Sô tham gia hoà nhập với kinh tế các nước khác, chịu sức Ðp của cạnh
tranh quốc tế.
Như vậy, sự tham gia quản lý của nhà nước đối với việc xây dựng và
phát triển nền kinh tế là hoàn toàn cần thiết, điều quan trọng là phải phân định
hợp lý nội dung quản lý nhà nước về kinh tế để vừa tăng cường quản lý tập
trung vừa tăng cường quyền chủ động, tự quyết cho doanh nghiệp.
Quản lý nhà nước về kinh tế đối với các doanh nghiệp nhằm thực hiện mục
tiêu sau đây :
- Tạo cho tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hợp lý và ổn định.
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
- ổn định giá cả, giữ tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải.
- Cân bằng tích cực cán cân thanh toán quốc tế.
- ổn định tỷ giá hối đoái.
- Phân bố tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế quốc dân.
- Có được ngày càng nhiều lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế với các
nước khác.
Nh vậy, để đạt được các mục tiêu đó quản lý nhà nước về kinh tế phải thực
hiện tốt những chức năng cơ bản sau :

- Hoạch định chiến lược phát triển kinh tế trong đó có chiến lược cơ cấu và
định hướng phát triển cho các ngành ở từng giai đoạn. Sự phát triển và
hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục tiêu tổng quát của hệ thống chủ
thể quản lý nhà nước nền kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng.
- Tạo môi trường, điều kiện và điều tiết hoạt động cho các doanh nghiệp.
Hoạt động hệ thống công nghiệp theo những định hướng đã định và đạt
hiệu quả ngày càng cao. Định hướng phát triển mới chỉ đưa ra các mục
tiêu cuối cùng, các mục tiêu trung gian và phác hoạ hướng phát triển các
mục tiêu đó. Điều quan trọng là phải tạo được môi trường và điều kiện
16
thuận lợi, những động lực mạnh mẽ để hệ thống công nghiệp phát triển
theo định hướng đó. Đồng thời, trong quá trình phát triển còn phải có các
giải pháp điều chỉnh, điều tiết để sự phát triển đó theo đúng hướng nhằm
đảm bảo tính ổn định của sự phát triển. Chức năng tạo điều kiện, môi
trường và điều tiết được thực hiện thông qua các hoạt động như hình
thành toàn diện đồng bộ các loại thị trường của các yếu tố đầu vào, bao
gồm thị trường vốn, thị trường tư liệu sản xuất, lao động, thị trường sản
phẩm và dịch vụ. Tạo môi trường ổn định về chính trị xã hội và tâm lý,
tạo điều kiện về cơ sử hạ tầng, đồng thời thông qua các công cụ thuế, luật
pháp để điều tiết sự phát triển và hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp. Chức năng này thông qua hoạt
động của các tổ chức kiểm tra kiểm soát và thanh tra của nhà nước, bằng
các công cụ kiểm tra, thanh tra hành chính.
17
Phần ba
CÁN BỘ QUẢN LÝ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
I – Nội dung và tính chất những công việc mà cán bộ quản lý sản xuất
công nghiệp cần phải đảm nhiệm và hoàn thành.
Cán bộ quản lý hoạt động quản lý kinh doanh là người phải quyết định
lùa chọn trước hoạt động kinh doanh cụ thể có triển vọng sinh lợi nhất, các

yếu tố phục vụ cho việc tiến hành hoạt động kinh doanh, phương pháp hoạt
động phù hợp, tiến bộ nhất, phân công bố trí lao động sao cho đúng người,
đúng việc, đảm bảo các điều kiện làm việc, phối hợp các hoạt động thành
phần một cách nhịp nhàng, đúng tiến độ. Như vậy để hoàn thành tốt những
công việc nêu trên thì người quản lý cần phải thực hiện các công việc một
cách khoa học và có kế hoạch.
Cán bộ quản lý doanh nghiệp sản xuất công nghiệp cần phải đảm nhiệm và
hoàn thành những công việc sau :
- Lập kế hoạch sản xuất công nghiệp
- Đảm bảo tổ chức cho doanh nghiệp công nghiệp.
- Điều phối hoạt động sản xuất công nghiệp.
- Kiểm tra hoạt động sản xuất công nghiệp.
Như vậy, bốn loại công việc chính mà người quản lý phải hoàn thành
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và bổ sung cho nhau, khi thực hiện dù sai
sót hay làm không tốt ở bất cứ khâu nào cũng sẽ ảnh hưởng đến kết quả công
việc.
1- Lập kế hoạch sản xuất công nghiệp.
18
Lập kế hoạch là một quá trình phác họa, dự kiến một hoạt động trong
tương lai. Hoạt động nào cũng có tên và nội dung, mục đích, địa điểm, các
nguồn lực cụ thể. Mục đích của hoạt động là những gì cuối cùng chúng ta dự
kiến, kỳ vọng đạt được thông qua hoạt động phục vụ cho việc thỏa mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển. Mục đích là kết quả cuối cùng, là hiệu quả của toàn
hoạt động. Mục tiêu là kết quả của trung gian, kết quả của các mặt và các giai
đoạn công việc. Nói cách khác, lập kế hoạch hoạt động là quá trình lùa chọn
trước hoạt động, các yếu tố cho hoạt động và phương thức tiến hành hoạt
động.
Sản phẩm của quá trình lập kế hoạch là bản kế hoạch. Bản kế hoạch
thường có tên của hoạt động cụ thể và bao gồm các nội dung nh : mục đích
và các mục tiêu của hoạt động, nội dung, quy mô, địa điểm …thành phần và

toàn bộ kinh phí. Nh vậy quá trình lập kế hoạch là kế hoạch hóa mục đích,
các mục tiêu, kế hoạch hóa chương trình hành động, kế hoạch hóa các nguồn
lực.
Mục đích của việc lập kế hoạch là :
- Kế hoạch là cơ sở, căn cứ cho việc chuẩn bị trước, đầy đủ, đồng bộ các
điều kiện, nguồn lực phục vụ cho các hoạt động của quá trình kinh doanh.
- Kế hoạch đưa ra các nhiệm vụ, mốc, chuẩn cụ thể cho việc điều hành, tổ
chức thực hiện quá trình kinh doanh.
- Kế hoạch hoạt động là cơ sở cụ thể cho việc xây dựng và triển khai các
biện pháp kiểm tra tất cả các yếu tố, các hoạt động thành phần, các loại
chi phí, các sản phẩm của quá trình kinh doanh
Khi tiến hành kinh doanh mà không được dự định trước, không được
nên phương án trước thì khó hoặc không tập trung được các nguồn lực, các
điều kiện không được chuẩn bị tốt dẫn đến trục trặc nhiều, gây lãng phí và
hiệu quả thấp. Tiến hành theo một đường lối, kế hoạch sai lầm chúng ta
không chỉ thu được Ýt kết quả, lợi Ých, tổn phí nhiều mà còn làm giảm sút
lòng tin, làm cho con người uể oải, chán chường và tổ chức bị rối loạn.
19
Để có cơ sở căn cứ, cần thiết cho việc lập kế hoạch chúng ta cần nghiên cứu
công phu từng mặt và phối hợp các mặt sau :
- Những cơ hội, nguy cơ, sức Ðp mà ta nên hoặc phải có hoạt động ứng phó
trong tương lai gần hoặc tương lai xa.
- Sẽ có những ai cùng tham gia hoạt động ứng phó nh ta, cùng với ta trong
cùng một tương lai, họ có gì ưu thế hoặc thất thế so với ta.
- Khả năng đáp ứng, ứng phó tương đối chắc chắn tối đa của ta về chất
lượng, số lượng, giá và thời hạn hoàn thành.
Trong nền kinh tế thị trường, chỉ cần dự đoán sai lầm ở một trong ba
mặt trên là có thể dẫn đến những tổn thất và đỗ vỡ to lớn vì thế cần có các
thông tin cần thiết, phương pháp dự đoán tương đối chính xác những mặt trên
để tránh sai lầm và hiệu quả công việc cao.

Chiến lược là một loại kế hoạch đặc biệt, chỉ khi có chiến lược phát
triển mới xây dựng được các bản kế hoạch cụ thể. Trong nền kinh tế thị
trường, các biến động nhiều và diễn ra với tốc độ nhanh, nên việc hoạch định
chiến lược nhằm định hướng cho các hoạt động là rất quan trọng. Đối với
doanh nghiệp hoạt động trong cạnh tranh việc định hướng chiến lược kịp
thời, có cơ sở thường đem lại những lợi Ých to lớn, để có nguyên liệu xây
dựng chiến lược cho các doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đầu tư cho
công tác dự báo nhu cầu của thị trường, dự báo về các đối thủ cạnh tranh và
về năng lực của chính bản thân doanh nghiệp trong tương lai.
Khi tiến hành bất kỳ một hoạt động nào, dù là nhỏ nhất như một chuyến đi du
lịch, làm nhà hay đến một hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì bao giê
con người cũng phải phác thảo, soạn thảo kế hoạch, khi lập kế hoạch trong
các lĩnh vực hoạt động khác nhau, cho các hoạt động khác nhau thường phải
xem xét cụ thể, sử dụng các căn cứ cụ thể khác nhau tuy nhiên chúng đều có
một quy trình lập chung.
Quy trình để lập kế hoạch hoạt động gồm có các bước như sau : nhận
biết cơ hội thách thức, nguy cơ, sức Ðp, tập hợp, kiểm định các cơ sở, căn cứ
20
tiền đề. Xây dựng nên các phương án kế hoạch, chín thức lùa chọn, quyết
định kế hoạch…
Nh vậy, lập kế hoạch hoạt động với mục đích là bản kế hoạch hoạt
động làm cơ sở cho việc chuẩn bị trước mọi thứ cần thiết cho hoạt động. Bản
kế hoạch hoạt động chỉ được sử dụng khi nó đảm bảo chất lượng và nó phụ
thuộc vào chất lượng của các cơ sở, căn cứ. Chất lượng của bản kế hoạch
phản ánh trình độ lập kế hoạch, trình độ tìm hiểu, lùa chọn hoạt động các yếu
tố cho hoạt động và phương pháp tiến hành hoạt động trong tương lai.
Tóm lại, lập kế hoạch hoạt động kinh doanh là quá trình đầu tư ngiên
cứu tìm hiểu, lùa chọn trước hoạt động kinh doanh cụ thể, các yếu tố cho việc
tiến hành hoạt động kinh doanh trên thực tế và phương pháp thực hiện.
2 - Đảm bảo tổ chức cho doanh nghiệp công nghiệp.

Đảm bảo tổ chức cho hoạt động là thiết lập, không ngừng hoàn thiện cơ
cấu tổ chức quản lý và xác định, không ngừng nâng cao chất lượng của cơ
cấu nhân lực. Không có hệ thống tổ chức thì sẽ không thể điều hành kiểm
soát được hoạt động có quy mô và độ phức tạp lớn.
Cơ cấu điều hành, tổ chức quản lý bao gồm các cấp, các bộ phận và các
đối tượng quản lý, các quan hệ trực thuộc, phối hợp giữa chúng, ở mỗi cấp
quản lý có một thủ trưởng toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm toàn bộ
về kết quả hoạt động của cấp đó. Các bộ phận như phòng, ban… được thiết
lập để giúp cho thủ trưởng cùng cấp về nghiệp vụ quản lý hàng ngày khi khối
lượng công việc của các nghiệp vụ đó lớn, các bộ phận quản lý không có
thẩm quyền chỉ huy, ra lệnh cho thủ trưởng các cấp dưới.
Loài người, khoa học quản lý đã đúc kết ra các kiểu cơ cấu tổ chức quản
lý, điều hành phổ biến sau :
- Kiểu tổ chức quản lý trực tuyến là kiểu cơ cấu trong đó thường có hai cấp
thủ trưởng không có bộ phận chức năng, người giúp việc. Cơ cấu tổ chức
quản lý này các thủ trưởng con được thiết lập để quản lý toàn diện, trực
21
tiếp. Lãnh đạo điều hành các thủ trưởng con là một thủ trưởng cấp trên,
mối quan hệ giữa các nhân viên trong tổ chức được thực hiện theo một
đường thẳng. Người thừa hành chỉ nhận và thi hành mệnh lệnh của người
cấp trên trực tiếp. Kiểu cơ cấu này thích hợp với chế độ một thủ trưởng,
tăng cường trách nhiệm cá nhân, tránh được tình trành người thừa hành
phải thi hành những chỉ thị khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau của
người phụ trách. Kiểu tổ chức quản lý này thường được áp dụng khi quy
mô phức tạp quản lý vượt quá khả năng của một người nhưng chưa lớn
lắm, người ta muốn phân chia quyền lực ở bên ngoài và có các thủ trưởng
toàn năng. Tuy nhiên, kiểu cơ cấu này có nhược điểm là mỗi thủ trưởng
con phải có kiến thức toàn diện, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Kiểu tổ chức quản lý chức năng lần đầu tiên do Frederie W. Taylor đề
xướng và cho áp dụng trong chế độ đốc công chức năng. Mở rộng ra trong

phạm vi toàn doanh nghiệp thì kiểu cơ cấu này cho phép cán bộ phụ trách
của phòng chức năng ra quyết định và các vấn đề có liên quan đến chuyên
môn của họ cho các phân xưởng, các bộ phận sản xuất. Ưu điểm của kiểu
cơ cấu này là thu hót được các chuyên gia vào các công tác lãnh đạo, giải
quyết các vấn đề chuyên môn một cách thành thạo hơn, đồng thời giảm
bớt gánh nặng cho các cán bộ chỉ huy chung của doanh nghiệp. Nhược
điểm là vi phạm nguyên tắc chế độ một thủ trưởng, dễ sinh ra thiếu trách
nhiệm rõ ràng, thiếu kỷ luật chặt chẽ.
- Kiểu tổ chức trực tuyến chức năng là kiểu cơ cấu trong đó có nhiều cấp
quản lý và các bộ phận nghiệp vụ giúp việc cho các thủ trưởng cấp trung
và cao. Thủ trưởng trực tuyến là người có quyền cao nhất, quyền quyết
địnhtrong các vấn đề, các điều hành và chịu trách nhiệm trước hết, chủ
yếu về kết quả điều hành của mình phụ trách. Cấp quản lý càng cao thì
càng phải tập trung giải quyết nhiều hơn các vấn đề chiến lược như :
hoạch định chiến lược, tổ chức cán bộ. Kiểu tổ chức này phát huy được
các ưu điểm của cơ cấu trực tuyến là phân quyền để chỉ huy kịp thời và
22
các ưu điểm của cơ cấu chức năng là chuyên sâu nghiệp vụ đảm bảo cơ sở
căn cứ ra quyết định.
Mỗi kiểu cơ cấu đều có những ưu nhược điểm riêng, được sử
dụngtrong những trường hợp nhất định. Thường khi quy mô và tính phức tạp
của phân hệ đối tượng quản lý tăng thì quy mô của bộ máy quản lý cũng tăng
theo. Quy mô của bộ máy quản lý khi cần thiết thì phải tăng nhưng mức độ
mạch lạc, nhanh chóng trong việc hình thành và triển khai biện pháp quản lý,
hiệu quả quản lý không được giảm.
Xây dùng bộ máy quản lý phải tuân theo các quy trình như sau :
- Xác định nhu cầu quản lý
- Lùa chọn kiểu cơ cấu tổ chức quản lý.
- Xác định quy mô của bộ máy quản lý điều hành.
- Xác định chính thức quy định các quan hệ trực thuộc hoặc quan hệ phối

hợp trong hoạt động quản lý.
3 - điều phối hoạt động sản xuất công nghiệp
Điều phối là cho điều hành, phối hợp tất cả các hoạt động bộ phận trong
doanh nghiệp đã được thiết kế nhằm thực hiện những gì đã hoạch định.
Điều phối hoạt động của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp là phải thực
hiện những công việc sau đây :
- Lập kế hoạch tác nghiệp.
- Giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ phận, cá nhân.
- Đảm bảo điều kiện vật chất, kỷ luật cần thiết cho các bộ phận, cá nhân
thực hiện, hoàn thành các công việc.
- Hướng dẫn, đôn đốc các bộ phận, cá nhân thực hiện hoàn thành các công
việc theo tiêu chuẩn chất lượng và tiến độ.
- Kiểm tra, đánh giá thưởng phạt các bộ phận, cá nhân.
23
Thực hiện công tác điều phối hoạt động của doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu sau :
- Bám sát mục tiêu, yêu cầu về chất lượng, thời hạn, sản lượng đã được
hoạch định nhất trí thông qua.
- Giảm thiểu trục trặc, trở ngại và khắc phục chúng nhanh nhất, Ýt tốn kém
nhất.
- Tạo được các điều kiện, tiền đề cho tái sản xuất mở rộng, cho phát triển
hiệu quả trong tương la, không rơi vào tình trạng “ bóc ngắn nuôi dài” .
Muốn thực hiện việcđiều phối hoạt động sản xuất công nghiệp được tốt thì
người quản lý phải biết được động cơ, lợi Ých, tính cách của người lao động.
Trong quản lý điều hành doanh nghiệp sản xuất kinh doanh việc thu hút,sử
dụng những con người để họ đảm nhiệm, hoàn thành các nhiệm vụ cụ thể của
quá trình kinh doanh có ý nghĩa quyết định. Khi thiết kế và thực thi phương
án thu hót, sử dụng con người cần hiểu được nhu cầu, động cơ hoạt động và
tính cách của từng con người cụ thể. Con người sống là hoạt động để thỏa
mãn các nhu cầu. Nhu cầu của con người rất đa dạng, phong phú và luôn có

xu hướng mở rộng chủng loại và nâng cao về chất lượng.
Động cơ hoạt động là một hiện tượng, quá trình nó thúc đẩy con người
hướng tới một hoạt động cụ thể nào đó nhằm thỏa mãn một hoặc một số nhu
cầu. Nhu cầu của con người là những gì cần thiết cho sự tồn tại và phát triển
của con người. Động cơ hoạt động của con người là nhân tố đầu tiên và quan
trọng nhất của sự tham gia hoạt động, của sự tích cực sáng tạo. Nó được hình
thành trên cơ sở tương tác chủ yếu của ba yếu tố là nhu cầu của con người,
khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người trong phương án hoạt động và lợi
thế so sánh của khả năng con người.
Nh vậy, chúng ta có thể thu hót, định hướng hoạt động cho con người bằng
cách tạo ra những khả năng, triển vọng và thực tế thỏa mãn nhu cầu cho họ.
Người lãnh đạo thông minh bao giê cũng hiểu rằng, con người chỉ tham gia
làm một việc cụ thể khi người đó cảm thấy và tin rằng, công việc đó đem lại
24
cho họ những lợi Ých thích hợp, lợi Ých được đem lại thích hợp thì mức độ
thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao, con người càng tích cực say mê trong công
việc. Từ lâu các nhà khoa học đã chứng minh trong hoạt động tập thể con
người không làm tốt việc gì thường do mét hay cả hai nguyên nhân là không
biết cách làm, không tạo được động cơ. Một người lãnh đạo thông minh là
phải biết tìm cách kích thích hay tạo được động cơ hoạt động đúng và mạnh
cho con người. Việc tạo động cơ cho người tham gia hoạt động tập thể được
tiến hành nh sau ;
- Trước hết phải tìm hiểu, nhận biết nhu cầu, nhất là các nhu cầu cần được
ưu tiên đáp ứng, thỏa mãn của con người.
- Tiếp đó phải biết tạo ra cac hoạt động hấp dẫn thu hót sự quan tâm, chú ý
của con người, tức là tạo ra các hoạt động có khả năng, triển vọng đáp
ứng, thỏa mãn các nhu cầu cấp thiết của con người.
- Con người thường theo cái mà bản thân cân nhắc, lùa chọ. Sự cân nhắc,
quyết định lùa chọn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của họ, vì thế cần
nhận biết đúng trình độ của họ.

- Một công việc rất quan trọng cần được thực hiện nhằm tạo động cơ hoạt
động cho con người là phải biết đưa ra cơ chế ràng buộc sự hưởng thụ,
thu nhập với tham gia đóng góp cống hiến, ràng buộc càng thông minh tế
nhị, càng chặt chẽ thì càng có tác dụng kích thích đối với người tham gia
tập thể.
4 – Kiểm tra trong quản lý doanh nghiệp sản xuất côgn nghiệp.
Kiểm tra là một quá trình xem xét, phát hiện những sai lệch so với
những gì đã hoạch định, đã thiết kế để kịp thời xử lý, điều chỉnh. trong sản
xuất công nghiệp phải tiến hành kiểm tra từ ý tưởng sản phẩm, thị trường, kế
hoạch kinh doanh, khâu thiết kế, kiểm tra tất cả các yếu tố đầu vào như
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị lao động… các sản phẩm trung gian, chi
phí, quan hệ với đối tác, khách hàng…
25

×