Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Những biện pháp pháp lí nhằm bảo vệ những trẻ em sống trong các gia đình ghép (sống với bố dượng,mẹ kế)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.69 KB, 15 trang )

I .LỜI MỞ ĐẦU
Trẻ em luôn luôn là tâm điểm của cuộc sống chúng ta.Trẻ em là hạnh phúc của gia
đình,tương lai của đất nước.Mọi trẻ em đều có quyền được sống,phát triển, tham gia và
được bảo vệ không bị xâm hại trong môi trường an toàn,lành mạnhvà thân thiện không bị
phân biệt đối xử .Lợi ích tốt nhất cho trẻ em phải được đặt lên hàng dầu và trong các giai
đoạn liên quan đến sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước,cộng đồng và gia đình.
Quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay đã đem lại nhiều thành tựu to lớn trên các
mặt kinh tế, văn hóa và xã hội. Tuy nhiên, sự tác động của quá trình hội nhập kinh tế thế
giới, toàn cầu hóa và đô thị hóa, sự chuyển đổi cơ chế quản lý và định hướng kinh tế thị
trường… đã/cũng đồng thời làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề xã hội như khoảng cách
giàu nghèo ngày một tăng; vấn đề di cư có tổ chức và di cư tự do; tình trạng một số hệ
thống dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục quá tải và không đáp ứng được nhu cầu ngày một
đa dạng của người dân…
Những vấn đề này đang có những tác động nhiều chiều khác nhau tới gia đình, xã
hội, tới những nhóm dân cư dễ bị tổn thương, đặc biệt là trẻ em và người chưa thành
niên. mọi gia đình Việt nam đặc biệt là những gia đình thành thị đang đứng trước những
thách thức lớn, tác động của mặt trái cơ chế thị trường đến môi trường xã hội, nó cũng
khiến cho gia đình và xã hội luôn bị cuốn hút vào sự căng thẳng của những hoạt động
kinh tế. Lối sống thực dụng xem nhẹ các giá trị văn hoá tinh thần, đề cao các giá trị vật
chất đang là mối nguy cơ làm xói mòn và tan vỡ quan hệ gia đình truyền thống. Tỉ lệ ly
hôn hàng năm không ngừng tăng lên, kéo theo nó là sự gia tăng của các gia đình ghép(bố
dượng hoặc mẹ kế) ảnh hưởng rất lớn đến tâm sinh lí của trẻ em. Các em phải đối mặt
với những hành vi sao nhãng, ngược đãi; bạo lực/bạo hành trong gia đình,sức khỏe tâm
thần của trẻ em (trẻ tự kỷ, rối nhiễu hành vi tâm lý ); trẻ em bị tai nạn thương tích, đặc
biệt là vấn đề cả xã hội quan tâm việc trẻ em bị xâm hại tình dục mà người gây ra không
ai khác chính là cha,cha dượng,người tình của mẹ.Đó là nguy cơ đã khiến cho nhiều em
nhỏ không tránh khỏi bị rơi vào những cạm bẫy của tệ nạn xã hội. Hiện tượng trẻ vào đời
sớm, bỏ nhà đi bụi đời, xa ngã vào các tệ nạn xã hội như nghiện hút ma tuý, trộm cắp
hoặc có hành vi bạo lực bắt chước từ phim ảnh, sách báo xấu đang là điều đáng lo ngại,
ảnh hưởng đến trật tự an ninh xã hội.
Chính vì thế mà công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em càng phải được quan tâm hơn


bao giờ hết. Bảo vệ trẻ em là bảo vệ Quyền con người, là trách nhiệm của toàn xã hội.
Đầu tư cho công tác bảo vệ trẻ em là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực; giữ gìn và
phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc góp phần vào sự phát triển bền vững của đất
nước.
Chiến lược bảo vệ trẻ em sẽ góp phần trực tiếp váo sự phát triển nguồn nhân lực
có chất lượng cao,bảo đảm cho thành công chiến lược con người của Đảng. Do đó, công
tác bảo vệ trẻ em phải luôn xác định và đặt trong hệ thống kế hoạch phát triển quốc gia.
Với tầm quan trọng như vậy, đề tài của em “ Những biện pháp pháp lí nhằm bảo
vệ những trẻ em sống trong các gia đình ghép (sống với bố dượng,mẹ kế)” sẽ đi sâu và
cụ thể hơn về một khía cạnh của đời sống gia đình này với những công tác đảm bảo
chăm sóc, bảo vệ quyền lợi của trẻ.Trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những
thiếu xót,rất mong quý thầy cô hướng dẫn và chỉ giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!!
II. NỘI DUNG
1). Quy định của pháp luật:
1.1 Những quy định chung:
Bảo vệ, Chăm sóc và giáo dục trẻ em là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Thấm
nhuần lời dạy của Bác Hồ kính yêu “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người” trong nhiều thập kỷ qua khi hoà bình hay lúc chiến tranh Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta vẫn luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến trẻ em, coi đây là sự nghiệp cao
quý, là trách nhiệm to lớn đối với tiền đồ của đất nước.Theo dự báo của Tổng cục Thống
Kê, đến năm 2010 quy mô dân số nước ta đạt 86,44 triệu người,trong đó trẻ em dưới 16
tuổi khoảng 29,37 triệu người chiếm 34% dân số.Thực tế khẳng định những thành tựu to
lớn về kinh tế ,xã hội mà công cuộc đổi mới đã đem lại.Cùng với sự tăng trưởng mạnh
mẽ trong suốt 2 thập kỉ qua , đ/s người dân ngày một cao,nhận thức và hành động trong
công tác bảo vệ ,chăm sóc, giáo dục trẻ em của toàn xã hội đã có những chuyển biến
mạnh mẽ và thực hiện có kết quả tốt hơn, nhất là từ khi Việt Nam – là nước thứ 2 trên
thế giới và nước đầu tiên ở châu Á phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (tháng
2/1990). Nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước được ban
hành và thực thi phù hợp với các quy định của Công ước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực thể chế hoá các
Quyền trẻ em (được sống còn và phát triển, được bảo vệ và tham gia) thành các quy
phạm pháp luật quốc gia trong hệ thống luật pháp, thành các chương trình, kế hoạch
hành động trong hoạt động hành pháp và tư pháp, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội nhằm từng bước nâng cao nhận thức và hành động của lực lượng xã hội đối với công
tác BVCS&GD trẻ em. Tính từ năm 1989 đến nay, có trên 10 Bộ luật, luật; 5 pháp lệnh
và nhiều văn bản pháp luật dưới hình thức Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư liên
quan đến trẻ em được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung nhằm ghi nhận và tạo cơ sở pháp
lý để thực hiện các quyền trẻ em tại cộng đồng trong tất cả các lĩnh vực như: - Để bảo vệ
các quyền và tự do của trẻ em: Hiến pháp 1992 quy định tại điều 65: Trẻ em được gia
đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; Ngày 31/5/2001, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 25/2001/NĐ-CP ban hành quy chế thành lập và hoạt động của cơ
sở bảo trợ xã hội. Đây là cơ sở pháp lý để thành lập và quản lý các cơ sở bảo trợ xã hội
công lập và dân lập, một địa chỉ để chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi không nơi
nương tựa. Bên cạnh những nỗ lực lập pháp nói trên thì còn rất nhiều văn bản pháp luật
được ban hành mới và được sửa đổi để thúc đẩy thực hiện các quyền của trẻ em như
Nghị định số 74/2000/NĐ-CP ngày 06/12/2000 của Chính phủ về kinh doanh và sử dụng
các sản phẩm thay thế sữa mẹ và khuyến khích việc nuôi con bằng sữa mẹ, Chị thị số
03/2000/CT-TTG ngày 24/1/2000 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh các hoạt động
vui chơi, giải trí cho trẻ em v.v Luật BVCS&GD trẻ em năm 1991 và được sửa đổi, bổ
sung năm 2004 đã quy định rõ 10 loại hành vi xâm hại quyền trẻ em bị nghiêm cấm, quy
định các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em, xác định rõ trách nhiệm BVCS&GD trẻ
em là của cha mẹ, Nhà nước, xã hội và đặc biệt có thêm một chương riêng quy định về
việc BVCS&GD trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; - Về quyền được học tập: Luật phổ cập
giáo dục tiểu học năm 1991; Bộ luật Giáo dục năm 1998 đã quy định nguyên tắc không
phân biệt đối xử trong giáo dục, Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo
điều kiện để ai cũng được học hành, trẻ em nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế –
xã hội đặc biệt khó khăn, con em gia đình chính sách, trẻ em tàn tật được ưu tiên, giúp
đỡ để thực hiền quyền và nghĩa vụ học tập của mình; - Về quyền được bảo vệ không bị
bóc lột sức lao động, làm các công việc độc hại, ảnh hưởng đến sự phát triển của thể chất

và trí tuệ: Bộ luật Lao động 1994 có các quy định về người lao động chưa thành niên và
bảo vệ người lao động chưa thành niên; quy định những công việc cấm sử dụng lao động
là người chưa thành niên; Quyết định 19/2004/QĐ-TTg ngày 12/2/2004 phê duyệt
chương trình ngăn ngừa giải quyết Trẻ em lang thang, Trẻ em bị xâm hại tình dục, Trẻ
em phải làm việc nặng nhọc nguy hiểm tiếp xúc với chất độc hại; - Về quyền được khai
sinh và được nhận làm con nuôi: Bộ luật Dân sự 1995 đã đưa ra định nghĩa về người
chưa thành niên và quy định về năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên, vấn
đề khai sinh cho trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và các vấn đề liên quan đến nhận nuôi con nuôi,
quyền về nhân thân…; - Về quyền được bảo vệ khỏi các hình thức bóc lột, lạm dụng,
ngược đãi: Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 1997 có xác định các điều về hành vi phạm tội
và mức xử lý nghiêm khắc đối với những kẻ phạm tội đối với trẻ em; - Về quyền được
sống với cha mẹ và quyền được biểu đạt: Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2000
quy định rõ trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái, đặc biệt là trách nhiệm của cha mẹ
không được phân biệt đối xử giữa các con, tôn trọng ý kiến của con. - Về quyền được
chăm sóc đặc biệt: Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm đến đối tượng trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, nhiều Chỉ thị, Quyết định BVCS&GD trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn được Chính phủ ban hành như: Quyết định 134/1998/QĐ -TTg; Quyết định
130/2004/QĐ-TTG ngày 14/7/2004 phê duyệt chương trình hành động phòng chống tội
phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em từ 2004 – 2010; Quyết định số 65/2005/QĐ-TTg ngày
25/3/2005 phê duyệt đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em tàn tật
nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học và trẻ em nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng
đồng giai đoạn 2005-2010; Quyết định 38/2004/QĐ-TTg ngày 17/3/2004 của Thủ tưởng
Chính phủ về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em
mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi. Song song với việc bổ sung, sửa đổi luật pháp, Chính phủ đã
ban hành nhiều chương trình, chính sách, đề án nhằm xác định trách nhiệm của các
ngành, đoàn thể, các cấp chính quyền trong việc thực hiện quyền trẻ em, giảm sự cách
biệt giữa các vùng miền, dân tộc và giữa các nhóm đối tượng trẻ em. Điều này đã tác
động tích cực đến sự phát triển của trẻ em đặc biệt là Chương trình hành động quốc gia
vì trẻ em giai đoạn 1990 – 2000 và giai đoạn 2001 – 2010 với mục tiêu tổng quát là:
“Tạo mọi điều kiện tốt nhất nhằm đáp ứng đầy đủ các nhu cầu và quyền cơ bản của trẻ

em, ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em, xây dựng môi trường an toàn và
lành mạnh để trẻ em Việt nam có cơ hội được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và phát triển
toàn diện về mọi mặt, có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn”; Chương trình cũng đề ra 4
mục tiêu cơ bản và giải pháp thực hiện các mục tiêu về chăm sóc sức khoẻ, giáo dục cơ
sở có chất lượng, bảo vệ trẻ em, vui chơi giải trí và sự tham gia của trẻ em. Những văn
bản chỉ đạo trên đã tạo hành lang pháp lý bảo đảm thực thi quyền trẻ em, đồng thời
phòng ngừa, ngăn chặn những tác động ảnh hưởng tiêu cực của xã hội tới trẻ em.
1.2. Luật hôn nhân và gia đình
Bên cạnh đó, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam n.2000 cũng quy định cụ thể và
chi tiết nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con. Để đảm bảo quyền lợi của trẻ em sống với
cha dượng.mẹ kế luật cũng quy định rõ tại Điều 38.
Điều 38 : Nghĩa vụ và quyền của bố dương,mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của
chồng
1.Bố dương,mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom,nuôi dưỡng,chăm sóc, giáo
dục con riêng cùng sống chung vớI mình theo quy định tạI các điều 34,36 và 37 của Luật
này.
2. Con riêng,có nghĩa vụ và quyền chăm sóc ,nuôi dưỡng bố dượng,mẹ kế cùng
sống chung vớI mình theo quy định tạI điều 35 và điều 36 của Luật nay.
3. Bố dượng,mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng không được ngược
đãi,hành hạ, xúc phạm nhau.
Quy định này đã điều chỉnh và có tác động to lớn đến cuốc sống của trẻ, trẻ được
chăm lo và bảo vệ ,hạn chế tối đa tình trạng : “ Mấy đời bánh đúc có xương/ Mấy đời dì
ghẻ lại thư ơng con chồng ’’
Tất cả những cố gắng đó cho thấy cam kết mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam
trong việc bảo vệ quyền trẻ em và chứng tỏ nỗ lực liên tục, không mệt mỏi của chúng ta
trong việc từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật của quốc gia, đưa hệ thống pháp luật
quốc gia ngày càng xích lại gần hơn với Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền trẻ em, làm hài hoà giữa hệ thống pháp luật quốc
gia và Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em là một nỗ lực liên tục, không mệt
mỏi của Nhà nước ta từ sau khi phê chuẩn Công ước vào tháng 2 năm 1990.Có thể nói

rằng, hệ thống pháp luật về quyền trẻ em của chúng ta hiện nay đã tương đối đầy đủ, bao
trùm được hầu hết các lĩnh vực quyền trẻ em, với phương châm tất cả vì hạnh phúc của
trẻ em, dành cho trẻ em những điều tốt đẹp nhất. Có thể nói đây là một cố gắng rất lớn,
cần được đánh giá cao trong bối cảnh chuyển đổi của nền kinh tế và những hạn chế về
nguồn lực.
2) Thực trạng môi trường sống trong gia đình của trẻ - nguy hiểm ngay từ gia
đình
2.1.Một số kết quả đạt được:
Quán triệt chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước, các ban ngành, đoàn thể
và các lực lượng trong xã hội cũng đã có nhiều cố gắng, tích cực phối hợp triển khai thực
hiện bằng những hành động cụ thể và đã đem lại hiệu quả thiết thực đối với trẻ em tại
cộng đồng. Công tác chăm sóc sức khoẻ trẻ em tại cộng đồng được nâng cao dần về chất
lượng thông qua việc triển khai thực hiện các chương trình quốc gia phòng chống suy
dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi, chương trình tiêm chủng mở rộng và uống Vitamin A
được triển khai rộng khắp các xã, phường trong cả nước; chương trình làm mẹ an toàn,
khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, phòng chống bướu cổ ở
các vùng sâu, vùng xa; chương trình hỗ trợ ngăn ngừa lây truyền HIV từ mẹ sang con,
chăm sóc trẻ sơ sinh nhiễm HIV bị bỏ rơi … Nhờ đó, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng giảm từ 31,9% năm 2001 xuống còn 26,5% năm 2004. Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới
1 tuổi giảm còn 21%0 năm 2003.Hiện nay, toàn quốc có hơn 300 Trung tâm bảo trợ xã
hội, 12 hệ thống Làng SOS gắn liền với trường học nuôi dưỡng, giáo dục hơn 13.000 trẻ
em mồ côi, trẻ em tàn tật không nơi nương tựa; Có hơn 50 trường, lớp chuyên biệt giành
cho trẻ em khuyết tật và nhiều cơ sở trung tâm phục hồi chức năng cho trẻ em dựa vào
gia đình và cộng đồng thu hút trẻ em không có điều kiện đến các cơ sở y tế, trường học
chính quy và cũng đã xuất hiện các mô hình mới cơ sở từ thiện giúp đỡ trẻ em có hoàn
cảnh khó khăn đang được thực tế chấp nhận và khẳng định… Những hình thức trên đã
góp phần trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, giảm đáng kể tác động tiêu cực
của xã hội đến trẻ em và hậu quả về những hành vi lệch chuẩn của trẻ em đến xã hội.Các
gia đình quan tâm chăm lo cho con cái,không có sự phân biệt đới xử giữa các con,”con
anh, con tôi’’

2.2. Những vấn đề cần quan tâm_nguy hiểm ngay từ gia đình:
Tuy nhiên, công tác BVCSGD trẻ em đang đứng trước nhiều thách thức, đang có
nhiều bất cập đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt hơn của Đảng, Nhà nước, cộng đồng xã hội và
mỗi gia đình trong thời gian tới. Phần lớn trẻ em từng bị lạm dụng dưới nhiều hình thức
khác nhau,các quy phạm pháp luật vẫn còn chưa hoàn thiện,chưa có Luật phòng chống
xâm h ại và lạm dụng trẻ em nên tình hình trẻ bị lạm dụng vẫn chưa có hình fạt xác đáng
bảo vệ cho các em mà vấn đề đáng bàn ở đây người lạm dụng các em chính là người thân
trong gia đình. Đó có thể là hành vi đánh đập quát mắng,bóc lột lao động,xâm hại tình
dục và sao nhãng,bỏ mặc trẻ em.Theo báo cáo nghiên cứu thực trạng lạm dụng trẻ em ở 4
tỉnh Việt Nam của UNICEF ngày 18/11/2006 thì đã có 35,7% trong tổng số 2800 người
được hỏi trả lời đã chứng kiến bạo lực giữa những người lớn trong gia đình,70% bị phạt
thân thể trong đó trẻ trai bị đánh đập nhiều hơn trẻ gái. Điều tra tại 4 tỉnh HNội,Lào
Cai,An Giang,Quảng Trị cho thấy,hình thức lạm dụng phổ biến là sự đánh đập của bố
hoặc mẹ .Nhiều em cho hay chúng đã phải chịu bạo lực thân thể từ họ hàng hay anh chị
lớn tu ổi.Nhiều trẻ em sau khi bị đánh đập đã bỏ nhà và sa vào các hoạt động có nguy cơ
fạm t ội cao như lạm dụng ma tuý,mại dâm.3% trẻ được hỏi cho biết đã bị hiếp dâm hoặc
hình thức xâm hại tình dục khác khi còn nhỏ và 2,1% trong số đó bị ép buộc 1 lần hoặc
vài l ần.Trong số những trường hợp này thì có 9,2% người gây ra lại được xác định là họ
hàng.1,3% được xác định là cha, cha dượng,hoặc người tình của mẹ.Cũng theo bản báo
cáo của UNICEF ,nhiều trẻ em còn chịu sự lạm dụng tình cảm tâm lí khi bị mắng
nhiếc,doạ nạt nhất là trong các gia đình ghép.Hình thức này rất phổ biến và đang có
chiều hướng gia tăng.
Vấn đề bạo lực gia đình cũng đang là là 1 trong những vấn đề được coi là trầm
trọng tạI VN.Với những trường hợp ngôi nhà lại là nơi các em đối mặt với những sự tra
tấn và bạo lực của người gần gũi với mình và 1 người lẽ ra các em có thể tin tưởng.Hiện
nay lạm dụng tình dục trẻ em đang là vấn đề nghiêm trọng ,kết quả điều tra thất sự gây
sốc khi gần 80% ngườI được hỏI cho biết đã bị đụng chạm vào vị trí tế nhị trên cơ
thể.Các em thường bị lạm dụng bởI những người quen biết,họ hàng.Một điều bất ngờ là
trẻ em trai bị lạm dụng nhiều gấp 2 lần so với trẻ gái.Một trong vô số hình thức lạm dụng
là hành vi sờ vào bộ phận sinh dục trẻ.Nhiều người lớn cho rằng đây là cách bộc lộ tình

cảm vô hại song các em đều phản đối điều này và cho biết không hề thoải mái,thấy khó
chịu và bị xâm hại,thậm chí là lạm dụng.
Theo báo cáo của Cục Cảnh sát điều tra TP&TTự XH ,trong 5 năm qua,tội phạm
xâm hại tình dục trẻ em chiếm tớI 54,66%.Đáng chú ý là tộI hiếp dâm xảy ra 3.012 vụ
vớI mức độ xâm hại ngày càng tăng và tinh vi hơn.Ngày càng có nhiều trẻ em trỏ thành
nạn nhân của các vụ ly hôn, không được bố,mẹ, gia đình bảo vệ,bị ngược đãi lang
thang,không có đkiện tiếp xúc việc học tập,phát triển,bị bố dượng,mẹ kế đối xử hà
khắc,bị bỏ rơi,là nạn nhân của bạo lực gia đình vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi. Ý kiến và
nguyện vọng của các em không được lắng nghe,chưa được tôn trọng và đáp ứng.Hiên
tượng bố dượng cưỡng ép con riêng của vợ để quan hệ tình dục,mẹ kế đánh đập,hành hạ
con chồng ngày càng gia tăng gây nhức nhối và bức xúc trong dư luân.
3). Những bất cập trong công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em:
Công tác bảo vệ trẻ em cho thấy còn nhiều bất cập nhất là ở dưới cơ sở. Công tác
bảo vệ trẻ em tại cơ sở lâu nay vẫn được coi là một hoạt động xã hội, mang tính phong
trào, chưa được coi là một công việc chuyên môn. Công tác với trẻ em được thực hiện
thường xuyên bao gồm những việc như: Thăm hỏi và tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt nhân các ngày lễ tết, trợ giúp trẻ em nghèo, trợ cấp và vận động quyên góp; huy
động cộng đồng hỗ trợ nguồn lực quan tâm, chăm sóc trẻ mồ côi; trẻ khuyết tật; trẻ bị
lạm dụng; trẻ em vi phạm pháp luật, nghiện ma tuý
Công tác trẻ em nói chung, bảo vệ trẻ em nói riêng đòi hỏi các cán bộ phải có kỹ năng,
kiến thức và được đào tạo, làm việc theo các quy trình, bài bản, chuyên môn hoá để đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội trong thời đại thông tin, toàn cầu hoá và kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, đội ngũ trực tiếp tham gia vào công tác trẻ em còn yếu về chất lượng,
thiếu về số lượng. Tại cơ sở, những người trực tiếp và đang tham gia nhiều nhất vào các
hoạt động bảo vệ trẻ em như cán bộ dân số gia đình và trẻ em có chức năng nhiệm vụ rõ
ràng… nhưng đều thuộc nhóm cán bộ không chuyên trách, phụ cấp rất thấp. Chế độ đối
với đội ngũ cán bộ dân số, gia đình và trẻ em cấp xã/phường không thu hút, khuyến
khích và đảm bảo công việc lâu dài, trong khi công việc qúa tải. Bên cạnh đó là sự thay
đổi cơ cấu nhân sự dẫn đến sự thay đổi cán bộ, mất người có kinh nghiệm
Nhiều ban ngành tham gia vào “công tác trẻ em” nói chung, trong khi cơ chế phối hợp,

phân công, phân nhiệm chưa rõ về cơ chế hoạt động liên quan đến các vụ việc cụ thể
nhằm bảo vệ trẻ em trong việc phát hiện, ngăn ngừa, can thiệp và phục hồi cho trẻ em
dựa vào gia đình, cộng đồng và xã hội.
Lĩnh vực bảo vệ trẻ em chưa được quan tâm đúng mức, chưa có cơ quan đầu mối rõ ràng
để tiếp nhận thông tin, phòng ngừa, xử lý, can thiệp, trợ giúp Việc can thiệp, phục hồi
và tài hoà nhập cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cũng còn hạn chế và chưa rõ trách
nhiệm và các dịch vụ tại cộng đồng.
Mặc dù, Nhà nước cố gắng tăng trưởng kinh tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
chính sách có liên quan đến trẻ em nhưng điều kiện thực thi chế độ, chính sách còn gặp
nhiều bất cập: nhiều nơi các em trong diện chính sách xã hội chưa được hoặc chưa nhận
đầy đủ chế độ của Nhà nước hỗ trợ (nhất là ở những địa phương khó khăn), nhiều hoạt
động đầu tư cho trẻ em còn chồng chéo về nguồn lực và sự quản lý giữa các ngành do cơ
chế làm việc thiếu đồng bộ, hệ thống thu thập và xử lý thông tin để bảo vệ trẻ em ngay từ
cộng đồng còn hạn chế, chế độ chính sách thu hút lực lượng xã hội tham gia công tác
BVCS&GD trẻ em tại cộng đồng còn ít, chưa theo kịp với sự phát triển chung của xã
hội. Hơn nữa hiện nay, ở một số địa phương nhận thức của cấp uỷ Đảng, Chính quyền,
gia đình, dòng họ và người dân còn hạn chế, có phần buông lỏng quản lý, chỉ đạo công
tác BVCS&GD trẻ em; việc giải quyết những vấn đề bức xúc liên quan đến trẻ em, nhất
là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn giao phó cho các ngành, đoàn thể và thiếu kiểm tra,
đánh giá nên hiệu quả chưa tốt (như giải quyết vấn đề trẻ em bị tàn tật, trẻ em lang thang,
trẻ em bị xâm hại, trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS…
Việc thiếu các hệ thống dịch vụ can thiệp, hỗ trợ ở cộng đồng; thiếu đồng bộ trong bảo
vệ trẻ em ở các khâu: Phòng ngừa, can thiệp phục hồi và tái hòa nhập; thiếu mạng lưới
cộng tác viên, cán sự xã hội có trình độ chuyên môn, được đào tạo…đã làm cho vấn đề
bảo vệ trẻ em ngày càng gặp nhiều thách thức, trở ngại.
Ngoài ra đối với cách dạy dỗ con trong gia đình việc dùng roi vọt,bạo lực thân thể
đc xem như là việc dạy dỗ đương nhiên của cha mẹ. Ở đây không làm rõ được có fải là
việc lạm dụng thân thể hay không nên việc giải quyết của các cơ quan chúc năng gặp
nhiều khó khăn.Nhiều bà mẹ cũng đã thừa nhận đánh con là không nên nhưng không thể
kiểm soát được cơn nóng giận của mình khi đứa trẻ mắc lỗi và đã trút lên đầu trẻ những

lời nhiếc mắng hay những trân đòn.Ngay tại lễ phát động Chiến dịch phòng chống lạm
dụng trẻ em, 1 học sinh lớp 8 trường THCS Trưng Vương ,HNộI đã bày tỏ sự băn khoăn
rằng liệu cha mẹ đánh mắng các em có phải là lạm dụng thân thể như thế có phải là phạm
pháp,và ai sẽ là người bảo vệ các em khi chính những người thân trong gia đình đã làm
tổn thương mình.Nhiều gia đình áp dụng biện pháp dạy “ Yêu cho roi cho vọt,ghét cho
ngọt cho bùi’’.Câu thành ngữ đúc kết kinh nghiệm của ông cha song kinh nghiệm ấy
cũng cần phải thay đổi theo sự phát triển của xã hội.Sự nghiêm khắc của cha mẹ cũng có
thể coi là roi vọt trong trường hợp này.
4). Nguyên nhân:
Những bất cập trên đẩy các em rơi vào tình cảnh éo le,bị lạm dụng,bóc lột,buôn
bán trên là do rất nhiều nhân tố.Các yếu tố kinh tế như như nghèo đói,chênh lệch về thu
nhập và sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng làm cho các em dễ tổn thương
hơn.Các trào lưu xã hội cũng như di cư ,các giá trị gia đình đang bị băng hoại và tình
trạng phân biệt đối xử về giới cũng ảnh hưởng xấu tới trẻ em.Số trường hợp nhiễm HIV
đang gia tăng cũng khiến cho trẻ em phải đối mặt với nguy cơ cao hơn.
Sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng miền đã ảnh hưởng tới một bộ
phận trẻ em: Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em và tử vong bà mẹ vẫn còn cao, nhất là ở
các địa bàn khó khăn (vùng núi, vùng duyên hải – có nơi còn trên 40% trẻ em dưới 5 tuổi
bị suy dinh dưỡng). Tỷ lệ huy động trẻ em ra lớp ở các cấp học và chất lượng học tập của
trẻ em ở vùng sâu, vùng xa còn hạn chế (có nơi còn là điểm trắng về giáo dục mầm non,
lớp học quá xa thôn bản, giáo viên còn thiếu và chưa yên tâm,…). Điểm vui chơi giải trí
cho trẻ em còn thiếu, hoạt động còn theo kỳ cuộc và chủ yếu vào dịp Tháng hành động vì
trẻ em, sách báo của trẻ em chưa đến được khắp các vùng sâu, vùng xa. Sự tham gia của
trẻ em chưa được thực hiện ở vùng khó khăn,… - Những tác động tiêu cực của nền kinh
tế thị trường (sự đa dạng hoá ngành nghề, dịch vụ xã hội, sự đô thị hoá nhanh, nhịp sống
của xã hội công nghiệp hiện đại…) đã đẩy nhiều trẻ em phải rơi vào hoàn cảnh đặc biệt:
cha mẹ ly hôn, bị bỏ mặc do không có thời gian chăm sóc, phải lang thang kiếm sống, bị
lợi dụng sức lao động, bị lạm dụng, bị xâm hại, bị nghiện hút, bị buôn bán vì mục đích
thương mại, bị tai nạn thương tích… - Những ảnh hưởng văn hoá du nhập thiếu lành
mạnh, công nghệ thông tin bùng nổ đã lôi kéo không ít em, nhất là trẻ vị thành niên (lứa

tuổi có sự thay đổi lớn về tâm sinh lý và đang rất cần sự định hướng giáo dục của xã hội
và gia đình) đi vào cuộc sống sa đoạ: xem băng hình, sách báo, nghe những bài hát, âm
nhạc có nội dung xấu, bạo lực, kích dục mại dâm… - Những tác động xấu của môi
trường tự nhiên, thiên tai, hậu quả của tàn dư chiến tranh đã để lại nhiều vết thương về
thể xác lẫn tâm hồn của khá nhiều trẻ em. Tỷ lệ trẻ em bị nhiễm chất độc hoá học chưa
được chữa trị còn cao, nhiều em bị chết, bị tàn tật do bom mìn, bị mất nhà cửa do lũ lụt,
tình trạng ô nhiễm môi trường đang gia tăng… - Sự phát triển các lĩnh vực xã hội chưa
theo kịp với sự phát triển kinh tế nên hệ thống cung cấp dịch vụ phúc lợi xã hội cho trẻ
em còn thiếu và chưa có sự phối hợp hoạt động với nhau, các cơ sở xã hội dành cho trẻ
em ở nhiều nơi đã xuống cấp, điểm vui chơi ở không ít địa bàn bị bỏ hoang hoặc đã biến
thành hoạt động thương mại, thiếu trường/lớp mầm non và không ít cơ sở mầm non tư
nhân không đủ điều kiện vẫn hoạt động làm ảnh hưởng đến sự phát triển trẻ em, đường
giao thông ở nhiều địa bàn chưa được nâng cấp và còn nhiều hộ gia đình có trẻ em ở địa
bàn khó khăn chưa có công trình vệ sinh, thiếu nước sạch,
Một thực tế làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn đó là Việt Nam chưa có dịch
vụ bảo vệ trẻ em.Vấn đề này gây cản trở những nỗ lực tiếp cận và chăm sóc những trẻ
em cần được bảo vệ đặc biệt.Chính phủ Việt Nam đang bắt đầu giải quyết những vấn đề
này.
5). Biện pháp khắc phục:
Trước những thách thức đặt ra trong thời kỳ mới, thiết nghĩ công tác bảo vệ trẻ em
cần phải chuyên môn hóa, xã hội và đồng bộ hóa, tập trung các nguồn lực hướng đến
nâng cao chất lượng và quy mô trong công tác bảo vệ trẻ em.
Trong những năm tới, để công tác BVCS&GD trẻ em có những bước tiến bộ mạnh
mẽ hơn nữa, đáp ứng với các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về trẻ em, đảm bảo thực
thi các quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và
lành mạnh, được phát triển hài hoà về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, chúng ta cần
tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
- Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn thi hành các Luật và các
cơ chế, chính sách có liên quan đến trẻ em, xây dựng các chiến lược, đề án
BVCS&GD trẻ em (Nghị định Xã hội hoá công tác dân số, gia đình và trẻ em; Nghị

định xử lý hành chính đối với những hành vi vi phạm quyền trẻ em; Chiến lược bảo
vệ trẻ em đến năm 2010 và tầm nhìn 2020; Chính sách khuyến khích xây dựng môi
trường gia đình, cộng đồng dân cư, xã/phường an toàn, lành mạnh phù hợp với trẻ
em; Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành để phát huy vai trò của các ngành, đoàn
thể ở các cấp nhằm giải quyết kịp thời, chặt chẽ và đồng bộ những vấn đề liên quan
đến trẻ em). Đây là giải pháp có tính pháp lý để thực hiện các quyền của trẻ em.Cụ
thể là chúng ta phảI xây dựng và ban hành: "Luật Phòng chống xâm hại và lạm dụng
trẻ em" là việc làm cần thiết trên cơ sở lý luận và thực tiễn. Ban hành Luật Phòng
chống xâm hại và lạm dụng trẻ em nhằm khắc phục tình trạng và tránh cho trẻ em
khỏi phải rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, góp phần hoàn thiện hệ thống luật pháp đảm
bảo sự an toàn và phát triển bền vững cho mọi trẻ em, khắc phục tình trạng chưa thực
hiện nghiêm các quy định về quyền trẻ em, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống cơ quan làm
công tác BVCS&GD trẻ em ở các cấp, đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên cơ sở
để đủ sức thực hiện chức năng quản lý nhà nước và vận động xã hội (Kiểm soát xã
hội và hỗ trợ xã hội trong công tác BVCSGDTE); đủ điều kiện để thực hiện các
nhiệm vụ tham mưu với Đảng, chính quyền trong việc xây dựng kế hoạch, giám sát,
kiểm tra, phối hợp các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội trong việc triển khai công
tác BVCS&GD trẻ em tại cộng đồng.Nâng cao nhận thức về vấn đề bảo vệ trẻ
em,thay đổI ý thức, thái độ đốI vớI trẻ em dễ bị tổn thương và tạo ra sự thay đổI hành
vi trong độI ngũ cán bộ lao động chính trị và xã hộI,giớI báo chí,các cộng đồng và
các gia đình.Nâng cao vị thế của trẻ em bằng cách khuyến khích chính các em tham
gia vào các hoạt động bảo vệ trẻ em.
- Xây dựng pháp luật phải gắn liền với công tác tuyên truyền và giáo dục
pháp luật. Pháp luật sẽ khó có thể đi vào cuộc sống nếu như nó không được tuyên
truyền, phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Nếu như trẻ em không biết mình có quyền
gì và người lớn cũng không biết là trẻ em có những quyền gì thì trên thực tế quyền
của trẻ em không được bảo đảm thực hiện. Công tác tuyên truyền và giáo dục pháp
luật có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và phát triển ý thức tôn trọng

pháp luật, tạo điều kiện cho việc áp dụng đúng pháp luật.
- Xây dựng pháp luật phải đi đôi với việc thực thi pháp luật. Vấn đề này có ý
nghĩa sống còn đối với một nền pháp chế nói chung và pháp luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em nói riêng. Nếu quyền của các em được mở rộng và được thể chế hoá
một cách toàn diện, đầy đủ và cụ thể trong một hệ thống các văn bản pháp luật thống
nhất nhưng lại thiếu cơ chế thực hiện và cơ chế xử lý vi phạm, thì các quy định của
pháp luật cũng chỉ dừng lại ở trên giấy và không có sức sống.
- Phối hợp chặt chẽ các cơ quan Chính phủ (như Bộ LĐ-TBXH ,Bộ Tư Pháp,
Bộ Công An và các cơ quan của Liên Hiệp Quốc, tổ chức cơ sở như HộI Phụ Nữ,
Đoàn Thanh Niên, các tổ chức tôn giáo ,các trường đạI học,các hiệp hộI ngành
nghề,các gia đình,giớI báo chí và qua trong nhất là trẻ em để thực hiện tốt công tác
chăm sóc,bảo vệ trẻ em
- Về các dich vụ chăm sóc, bảo vệ : với sự hỗ trợ trực tiếp của UNICEF,
Chính phủ Việt Nam đang xây dựng “Chiến lược Quốc gia về bảo vệ trẻ em’’ nhằm
thiết lập một bộ máy và hệ thống bảo vệ cho trẻ em trong giai đoạn 2006-2015
III. KẾT LUẬN
Bảo vệ trẻ em đòi hỏi huy động nguồn lực của các cấp, các ngành trong cộng
đồng để tạo dựng, duy trì “một thế giới phù hợp với trẻ em” (Xã phường phù hợp trẻ em
- Việt Nam), “tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh,
phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ và đạo đức”-(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Trg 103, Hà Nội - 2006)
Bảo vệ trẻ em trong thời kỳ mới cần thể hiện bao quát cả lý luận và thực tiễn, tiếp
cận và triển khai theo phương thức toàn diện, đặt vấn đề trong sự vận động và phát triển,
có mối liên hệ tương quan (lý thuyết hệ thống) và phải được lồng ghép với các đề án/dự
án và Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội theo quy hoạch ngành và lãnh thổ (lý thuyết cân
bằng động) sẽ đảm bảo tính bền vững và phát triển. Truyền thống văn hoá lâu đời trong
các gia đình Việt nam đã gắn kết cá nhân - gia đinh - làng xã - tổ quốc thành một khối
thống nhất bền vững trong các hoạt động xây dựng, bảo vệ tổ quốc nói chung và phát
triển kinh tế gia đình và bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em nói riêng.Gía đình dù ở hình
thức như thế nào cũng rât quan trọng trong giáo dục định hướng cơ bản cho trẻ ngay từ

đầu. Thông qua những công việc chăm sóc, giáo dục và sự quan tâm của cha mẹ có thể
giúp cho trẻ học các khuôn mẫu hành vi có được ở người cha mẹ, đồng thời trẻ cũng thấy
được cảm giác an toàn và cân bằng trong đời sống tâm lý, tình cảm của mình.
Con cái là niềm hy vọng, là mục đích cuộc đời của cha, của mẹ. Hình ảnh về
người cha, người mẹ mẫu mực trong chăm sóc, giáo dục con cần được tuyên truyền rộng
rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các hoạt động ở cộng đồng.
Chính vì thế mà càng cần phảI nâng cao nhận thức của gia đình và cộng đồng, đặc biệt
là củng cố nhận thức của các bậc cha mẹ trẻ về "Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em"
và "Công ước quốc tế về quyền trẻ em" để trẻ em được chăm sóc và phát triển toàn diện
nhất là trong những gia đình ghép ( sống vớI bố dượng,mẹ kế).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Hôn nhân và gia đình –NXB Chính trị Quốc gia,Hà NộI 2005
2. Website UNICEF : www.unicef. org/vietnam/
3. Website bảo vệ trẻ em : www.baovetreem.org
4. Website Đài tiếng nói Việt Nam: www.vovnews.vn

MỤC LỤC
I. Lời mở đầu 1
II. Nội dung 3
1,.Quy định của pháp luật 3
1.1. Những quy định chung 3
1.2. Luật hôn nhân và gia đình 5
2. Thực trạng môi trường sống trong gia đình của trẻ - nguy hiểm
ngay từ gia đình 6
2.1. Một số kết quả đạt được 6
2.2. Những vấn đề cần quan tâm – nguy hiểm ngay từ gia đình 6
3. Những bất cập trong công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em 8
4. Nguyên nhân 9
5. Biện pháp khắc phục 10
III. Kết luận 12

Danh mục tài liệu tham khảo 13
MỤC LỤC
I.Lời nói đầu
II. Nội dung
1).Quy định của pháp luật
1.1. Những quy định chung
1.2. Luật hôn nhân và gia đình
2).Thực trạng môi trường sống trong gia đình của trẻ_nguy hiểm ngay từ gia
đình
2.1.Một số kết quả đạt được
2.2.Những vấn đề cần quan tâm_nguy hiểm ngay từ gia đình
3).Những bất cập trong công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em
4). Nguyên nhân
5). Biện pháp khắc phục
III.Kết luận

×