Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thực trạng và các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.16 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU.
Xã hội ngày càng phát triển và kéo theo đó là rất nhiều những vấn đề xã hội nóng
bỏng nảy sinh khiến dư luận quan tâm. Hàng ngày, hàng giờ chúng ta phải trải qua
những vấn đề như dân số, gia đình, môi trường, việc làm, tài nguyên, nguy cơ chiến
tranh,… Vậy nhưng nhiều khi những vấn đề ngay chính trong gia đình mỗi cá nhân thì
không phải ai cũng nhận thức được.
Một trong những vấn đề nhức nhối hiện nay đó chính là nạn bạo lực gia đình
đang nảy sinh và diễn ra hết sức phức tạp, đặc biệt là khi đối tượng của nó lại chính là
trẻ em – mầm non, tương lai của xã hội. Trong gia đình thời hiện đại vẫn không thiếu
những hình ảnh bố mẹ đánh đập con cái dã man, ông bà hay người lớn lăng mạ, làm
nhục trẻ em, hình ảnh đứa trẻ mới lên ba lên bốn ra đường ăn xin và đem tiền về cho
những người cha người mẹ vô lương tâm,… Đây quả là một hiện thực đau xót đối với
nhà nước, xã hội và bản thân mỗi chúng ta.
Nhận thức được điều này, bài tiểu luận của em sau đi xin đi sâu nghiên cứu và
phân tích về đề tài:
“Thực trạng và các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình”.
1
NỘI DUNG CHÍNH.
1. Khái quát chung.
1.1 Khái niệm bạo lực gia đình.
Vấn đề bạo lực gia đình đang là một vấn nạn mà không chỉ riêng Việt Nam mà
bất cứ quốc gia nào trên thế giới đang đều phải đối mặt. Tuy nhiên, khi nói đến bạo lực
gia đình thì không phải ai cũng có nhận thức đầy đủ về nó.
Bạo lực trong gia đình là một khái niệm mới được dùng ở Việt Nam để chỉ bất kỳ
một hành động bạo lực nào của thành viên trong gia đình gây ra hoặc có thể gây ra hậu
quả làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho thành viên khác trong gia đình về thân thể, tình
dục hay tâm lý. Hình thức bạo lực trong gia đình khá đa dạng như bố mẹ, con cái, anh
chị em trong nhà đánh đập, giết hại lẫn nhau, trong đó phổ biến nhất là bạo lực từ phía
các ông chồng đối với vợ như: đánh đập, chửi mắng, cấm đoán, cưỡng ép quan hệ tình
dục, cưỡng ép đẻ thêm con ...


Từ đó, có thể hiểu bạo lực gia đình là hành vi lạm dụng quyền lực (có hoặc không
sử dụng vũ lực) nhằm hăm doạ hay đánh đập một người thân trong gia đình để điều
khiển, kiểm soát người đó. Những hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn trái
với đạo đức xã hội, bị cộng đồng và cả thế giới lên án.
Bạo lực gia đình không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khoẻ và thể chất
đối với nạn nhân, gây tác hại đến sự phát triển nhân cách của trẻ em, mà còn có ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, dẫn đến những thiệt hại lớn về kinh tế,
lao động, sức khoẻ của gia đình và cộng đồng. Tùy theo quan điểm và phương pháp tiếp
cận, hiện có nhiều cách phân loại các hình thức bạo lực gia đình, nhưng thường tập
trung ở ba loại cơ bản: bạo lực thân thể (bạo lực thể chất); bạo lực về tinh thần, tình
cảm; bạo lực về kinh tế và quan hệ xã hội.
Bạo lực về thân thể (còn gọi là bạo lực về thể chất), gồm: xâm hại thân thể, đối
xử tồi tệ về thể chất, bạo lực hoặc lạm dụng tình dục, gây hư hại tài sản gia đình. Bạo
lực về tinh thần và tình cảm: Là những hành vi nhằm hành hạ tâm lý bằng những lời đe
doạ, sỉ nhục, chửi mắng, lăng mạ, hạ thấp nhân phẩm, bỏ rơi, lãng quên, không quan
tâm… Hình thức bạo lực này gây hậu quả rất nghiêm trọng so với các dạng bạo lực
2
khác nhưng khó phát hiện để can thiệp bằng luật pháp vì sự “vô hình” và thiếu chứng
cứ. Bạo lực thể chất có thể dễ dàng nhận diện qua những thương tổn hiện trên thân thể,
và cùng với thời gian vết thương ấy sẽ liền da, nhưng bạo lực tinh thần thì hậu quả của
nó tiềm ẩn bên trong, kéo dài dai dẳng với nỗi đau dằng xé và hậu quả của nó thì không
thể định lượng được, đó là vết thương lòng với những cảm xúc của sự vô vọng, không
ai giúp đỡ. Bạo lực về kinh tế và quan hệ xã hội gồm: thâu tóm về tài sản, cô lập và
khống chế quan hệ xã hội, quan hệ gia đình của các thành viên trong gia đình,…
Tóm lại, bạo lực gia đình nói chung gây ra hậu quả rất to lớn cho gia đình và
toàn xã hội, cần phải được ngăn chặn và loại bỏ.
1.2 Khái niệm bạo lực gia đình đối với trẻ em.
Thông thường, nạn nhân của bạo lực gia đình là bất cứ thành viên nào trong gia
đình. Tuy nhiên, trong số đó thì phụ nữ và trẻ em là hai đối tượng dễ trở thành nạn nhân
nhất, dễ bị tổn thương cũng như gành chịu những hậu quả nặng nề nhất từ nạn bạo lực

gia đình. Trên cở sở những nhận thức ấy, có thể khái quát bạo lực gia đình đối với nạn
nhân là trẻ em như sau: là những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội
một cách cố ý trong gia đình, do một số thành viên trong gia đình thực hiện, dùng sức
mạnh gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình cảm cũng như
kinh tế đối với trẻ em.
1.3 Các quy định pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình đối với trẻ em.
1.3.1 Pháp luật bảo về các quyền lợi chính trị, xã hội của trẻ em.
Pháp luật đã quy định rõ trách nhiệm của nhà nước, xã hội và gia đình trong việc
bảo đảm sự bình đẳng cũng như chăm lo, giáo dục trẻ em, cụ thể theo Điều 64 Hiến
pháp 1992 đã ghi nhận: “…Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân
tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội
không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.” Đặc biệt, Hiến pháp 1992 đã dành
hẳn Điều 65 để bảo vệ trẻ em: “Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục.” Thêm vào đó, nhà nước còn ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em năm 2004, với 5 chương, 60 điều ghi nhận các quyền lợi chính trị, xã hội
của trẻ em như quyền được khai sinh và có quốc tịch, quyền được chăm sóc, nuôi
3
dưỡng, quyền sống chung với cha mẹ, quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền được học
tập, quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao,… Luật
còn quy định không được phân biệt đối xử giữa nam và nữ, thành phần xuất thân, con
ngoài giá thú, con trong giá thú, con đẻ và con nuôi, con riêng và con chung, không
phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội,… Tất cả trẻ em đều được bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục theo quy định pháp luật (Điều 4). Mặt khác, để bảo vệ các
quyền lợi chính trị, xã hội, nước ta đã tham gia Công ước về quyền trẻ em ngày
20/2/1990 cũng như công nhận hàng loạt các quy định quốc tế được nêu ra.
Chính các quy định như đã đề cập trên đây đã nâng cao được vị thế và tầm quan
trọng của trẻ em – những mầm non của đất nước. Điều này đã có tác dụng hết sức to
lớn trong việc phòng và ngăn chặn bạo lực gia đình đối với trẻ em ở nước ta hiện nay.
1.3.2 Pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em.
Trẻ em cũng là một công dân, và Điều 71 Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Công

dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm … Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.” Từ đó, có thể thấy, bất cứ hành vi đánh đập,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm tới tính mạng mang tính bạo lực gia đình
của các thành viên gia đình nói chung và cha mẹ nói riêng đối với trẻ em đều là vi
phạm pháp luật. Đây cũng là một nội dung được thể hiện rõ trong Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000: “…Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành
hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không
được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” (khoản 2,
Điều 34).
Đặc biệt, để thể hiện sự nghiêm khắc, răn đe và trừng trị đối với những hành vi
bạo lực gia đình có hậu quả nghiêm trọng, Bộ luật hình sự 1999 (BLHS) đã đưa ra rất
nhiều các quy định cụ thể. Ví dụ, với Tội hành hạ người khác (Điều 110), nếu như hành
vi đối xử tàn ác, hành hạ người khác lệ thuộc mình song lại là trẻ em thì đây là tình tiết
tăng nặng và sẽ chuyển khung hình phạt từ 3 tháng tù giam đến 2 năm lên thành 1 năm
đến 3 năm. Hoặc như Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), nếu xét thấy có tính chất loạn
4
luân hay làm cho nạn nhân có thai thì đây là tình tiết tăng nặng và chuyển khung hình
phạt từ khung 1 lên khung 2 với thời gian là 12 năm đến 20 năm tù.
1.3.4 Pháp luật ghi nhận và bảo vệ tài sản và các lợi ích kinh tế của trẻ em.
Tài sản và các lợi ích kinh tế của trẻ em là cơ sở, nền tảng để họ chống lại bạo
lực gia đình. Khi không phụ thuộc vào kinh tế hoặc ít nhất có sự bảm đảo về kinh tế
nhất định và không quá lệ thuộc thì trẻ em còn có thể đứng lên chống lại bạo lực gia
đình. Quyền sở hữu tài sản được Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 ghi rõ:
“Trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật” (Điều 19). Cha
mẹ, người giám hộ hay các cơ quan tổ chức hữu quan có trách nhiệm phải giữ gìn, quản
lý tài sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em cũng như phòng chống
bạo lực gia đình đối với trẻ em một cách tốt nhất, pháp luật nước ta còn đưa ra các văn
bản quy định các biện pháp xử lý đối với những hành vi bạo lực gia đình nói chung ấy

trên cở sở ban hành các văn bản như Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007, Nghị
định của Chính phủ số 110 NĐ – CP ngày 10/12/2009 về quy định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình và một số các văn bản khác. Các quy định
này cũng đã góp phần vào việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em một cách hiệu quả
Chính những quy định pháp luật trên đây đã trở thành cơ sở để nhà nước ta áp
dụng vào thực tiễn nhằm giải quyết vấn đề bạo lực gia đình đối với trẻ em hiện nay.
2. Thực trạng nạn bạo lực gia đình đối với trẻ em hiện nay.
2.1 Những con số và trường hợp cụ thể.
Bạo lực gia đình để lại hậu quả không chỉ cho nạn nhân mà cho các thành viên
khác trong gia đình, nhất là trẻ em. Nói cách khác, bạo lực gia đình có tác động rất xấu
tới sự phát triển cả về thể chất, tinh thần, đạo đức và trí tuệ của trẻ em. Các nghiên cứu
đã chỉ ra rằng, bạo lực gia đình khiến trẻ em khủng hoảng, sợ hãi, mất ngủ, thiếu tự tin,
thất vọng, rối nhiễu tâm lý, trầm cảm,... Bên cạnh đó, bạo lực gia đình cũng ảnh hưởng
xấu tới kết quả học tập, kỹ năng sống, sự hòa nhập xã hội, năng lực giải quyết vấn đề
đời sống,... của trẻ em và nó để lại những di chứng hết sức nặng nề cho trẻ em.
5
Theo UNICEF, hiện có khoảng 275 triệu trẻ em đang sống trong cảnh bạo lực gia
đình, phải chịu đựng sự bóc lột về thể chất, tinh thần và cả tình dục của cha mẹ cũng
như người giám hộ. Hình thức bạo lực mà trẻ em gái phải gánh chịu cũng rất đa dạng,
trong đó bao gồm cả bạo lực tình dục. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, có đến 40 -
60% các vụ xâm hại tình dục diễn ra trong gia đình nhằm vào nạn nhân là các trẻ em
gái dưới 15 tuổi. Một nghiên cứu ở Hà Lan gần đây thậm chí cho biết có đến 45% nạn
nhân của bạo lực tình dục trong gia đình là trẻ em dưới 18 tuổi, trong số đó trẻ em gái
chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với trẻ em trai. Đây là một thực tế hết sức đáng buồn mà
hàng ngày, hàng giờ chúng ta đang sống chung với nó mà dường như không hề nhận
thức được.
Bạo lực gia đình ở Việt Nam cũng tăng nhanh, làm gia tăng số trẻ em vi phạm
pháp luật. Số liệu thống kê của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao 2008 cho thấy 71% trẻ
vị thành niên phạm pháp là do không được quan tâm chăm sóc đúng mức. Nguyên nhân
phạm tội của trẻ vị thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn,

49% phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ. Theo số liệu điều tra 2209 học viên các
trường giáo dưỡng, có tới 49,81% các em trong số này sống trong cảnh bị đối xử hà
khắc, thô bạo, độc ác của bố mẹ. Số em bị bố đánh chiếm 23% (gấp 6 lần mẹ đánh) còn
bị dì ghẻ, bố dượng đánh chiếm tới 20,3%. Trong những năm qua đã xảy ra rất nhiều vụ
bạo hành thương tâm trong gia đình đã gây nhức nhối trong dư luận. Cụ thể: Tối ngày
31/8/2009, Tạ Văn Thành (Tân Bình, TP.HCM) đã dùng gậy có đóng đinh nhọn ở đầu
đánh cháu Thảo, con gái ruột của Thành. Sau đó, Thành kéo con vào bếp, nắm chân
cháu Thảo cho vào ngọn lửa để đốt trên bếp gas. Trước đó, Thành từng đánh cháu Thảo
đến gãy tay và bị công an phường xử phạt hành chính 350.000 đồng. Hoặc trường hợp
cháu Nguyễn Phương Ninh trú ở 39B, lô 2 Quán Nam, phường Kênh Dương, quận Lê
Chân, Hải Phòng, thường xuyên bị mẹ đẻ và cha dượng là Vũ Văn Phủ hành hạ, ngược
đãi. Ngày 30/12/2009, sau khi bị bỏ đói và trói hơn một ngày trong nhà tắm, cháu Ninh
đã qua đời. (theo Báo pháp luật tp.Hồ Chí Minh ngày 21/1/2010).
Một số liệu khác của Tòa Hình sự Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho thấy,
trong giai đoạn 2005 – 2008, có tới 97 vụ án đã xét xử với 177 bị cáo phạm tội có hành
6
vi bạo lực với phụ nữ và trẻ em, trong đó có rất nhiều trường hợp bạo hành dã man với
chính trẻ em trong gia đình. Trong đó, bạo lực với trẻ em chiếm 42 vụ, xét xử 66 bị cáo.
Gần đây, một nghiên cứu mới nhất do Viện nghiên cứu thanh thiếu niên đã tiến
hành tại 6 tỉnh miền bắc và miền trung với 1240 em học sinh tại các trường tiểu học,
trung học cơ sở. Nghiên cứu đã đưa ra nhiều kết luận đáng lo ngại trong tâm lý của các
em học sinh nhi đồng cũng như các em trong độ tuổi vị thành niên như sau: 46% các
em cho biết thường xuyên bị bố mẹ phạt bằng cách này hay cách khác nếu chúng có lỗi,
50% là thỉnh thoảng bị phạt, 26% bị phạt bằng hình thức đánh, 65% các em thường bị
mắng chửi, 10% phạt bằng các hình thức khác. Điều này thường dẫn đến tâm lý tiêu
cực trong các em: 45% các em cho rằng mình bị phạt bất công, hình phạt đau đớn, 72%
tỏ ra buồn chán vì bị phạt, 28% rất giận bố mẹ.
Cũng theo dữ liệu điều tra của Trung tâm thám tử tư Sài Gòn và số liệu của Cục
Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, trong năm vừa qua có
1826 vụ bạo hành trẻ em cùng với 2291 trẻ bị xâm hại, tăng 13,9% so với năm trước.

Ngoài ra, các kết quả khảo sát cho thấy có khoảng 8 – 22% trẻ em có vấn đề về sức
khỏe tâm thần do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân lớn là bạo lực gia đình và
các cách giáo dục con cái sai trái. Theo các đề tài nghiên cứu của các nhà xã hội học
công tác tại trung tâm thám tử tư Sài Gòn, nhiều trẻ em Việt Nam hiện nay cũng được
đánh giá là có thể trạng thấp còi so với các nước trong khu vực vì thiếu sự chăm sóc
hợp lý và dinh dưỡng cần thiết.
Không chỉ dừng lại ở tình trạng bạo lực thân thể như đánh đập, hành hạ, bạo lực
gia đình dưới hình thức xâm hại tình dục ngày càng gia tăng. Đây là một thực tế hết sức
đáng buồn. Báo cáo của Bộ Công an cho thấy bình quân một năm xảy ra trên 100 vụ
giết trẻ em, 800 vụ xâm hại tình dục với khoảng 900 em. Năm 2009, số vụ hiếp dâm trẻ
em tăng 1,6%, giao cấu với trẻ em tăng 34,2%, dâm ô với trẻ tăng 16,7% so với năm
trước. Nhiều câu chuyện đau lòng về xâm hại tình dục trẻ em mặc nhiên đã thành lời
cảnh báo kinh hoàng về sự suy đồi đạo đức ở không ít gia đình, khi đối tượng phạm tội
phần lớn có quan hệ rất gần gũi với nạn nhân (chiếm 56,1%). Bố đẻ xâm hại tình dục
con gái (0,6%), bố dượng xâm hại tình dục con riêng (1%), thậm chí mẹ đẻ đồng lõa để
7

×