Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

tiể luận Đổi mới công tác xã hội hóa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.88 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
Phần mở đầu 1
Sự cần thiết nghiên cứu đề tài 2
2. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 2
3. Phương pháp nghiên cứu 3
Phần I lý luận chung 3
I .Vai trò của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường 3
1.Khái niệm,chức năng của kế hoạch hóa phát triển 3
2.Vai trò của kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường 4
II . Sự cần thiết đổi mới công tác kế hoạch hóa ở 9
1. Đổi mới công tác Lập kế hoạch 9
2 . Ưu nhược điểm kế hoạch hóa ở việt nam trong thời gian qua
10
3. Yêu cầu về đổi mới đối với KHH ở Việt Nam 11
4. Các nội dung đổi mới 11
Phần II : Thực trạng đổi mới công tác KHH ở Việt Nam hiện
nay 13
1: Các chính sách ,chủ trương đổi mới trong công tác KHH ở
Việt Nam 13
2. Thực trạng đổi mới kế hoạch hóa ở Việt Nam 14
3 Đánh giá đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam 24
phan III Giải pháp nhằm thực hiện kế hoạch hoá 28
I . Các điều kiện thuận lợi đổi mới của công tác lập kế hoạch.28
II Quan điểm đổi mới lập kế hoạch 30
III . Định hướng công tác lập kế hoạch 31
-
Đề tài
Vai trò của kế hoạch hóa phát triển trong nền kinh tế thị
trường và những vấn đề đổi mới công tác kế hoạch hóa
ở Việt Nam hiện nay
Phần mở đầu


1.Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Trải qua 20 năm đổi mới ,cơ quan kế hoạch hoá đã có tác dụng làm
tham mưu tổng hợp cho lãnh đạo các cấp ,hoạch định các chương trình đầu
tư phát triển ,thực hiện tăng trưởng kinh tế ,xoá đói giảm nghèo và tạo ra vi
ệc làm theo định hướng phát triển bền vững , định hướng sử dụng tốt các
nguồn lực của đất nước từ mọi thành phần kinh tế .Ngày nay hệ thống kế
hoạch hoá của nước ta đã phát triển mạnh mẽ góp phần làm nên thành tựu to
lớn cho đất nước .
Chúng ta có thể lấy một minh chứng vô cùng rõ ràng về thành công
của đất nước ta trong hơn 20 năm qua của công cuộc đổi mới đó là tốc độ
tăng trưởng kinh tế của chúng ta luôn ở mức khá cao, trung bình khoảng
6,8%. Để có những thành công lớn như vậy trên mọi phương diện nói chung
và về kinh tế nói riêng thì đất nước ta đã có những chính sách rất phù hợp để
huy động, hội tụ mọi nguồn lực trong và ngoài nước.
Đóng góp vào sự thành công chung đó có vai trò của kế hoạch hoá nói
chung và công tác lập kế hoạch nói riêng.Lập kế hoạch tốt là điều kiện tiền
đề để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
địa phương .Vai trò của công tác lập kế hoạch đã và đang tiếp tục được
khẳng định . Tuy nhiên khi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường thì bản chất phương pháp lập kế hoạch cũng thay đổi .
Vậy sự thay đổi đó như thế nào ? Nó có thể góp phần ra sao vào quá trình
phát triển của địa phương và trong điều kiện thể chế hiện nay các tỉnh ở
nước ta có thể làm gì để từng bước hoàn thiện công tác lập kế hoạch theo
hướng đổi mới? vì vậy nên em xin chọn đề tài “Vai trò của kế hoạch hoá
trong nền kinh tế thị trường và những vấn đề đổi mới trong công tác khh o
Việt Nam hiện nay
2. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các bản kế hoạch hàng năm ,kế hoạch 5 cụ
thể là đề tài nghiên cứu phân tích phương pháp và bản kế hoạch
Đề tài tập trung nghiên cứu phương pháp lập kế hoạch tại tỉnh tức là đánh

giá và đề xuất hoàn thiện quy trình lập ,các công cụ lập ,phương pháp xây
dựng quản lý và đưa ra các giải pháp ,kiến nghị tới cấp trên
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp như:
Phương pháp thống kê thực chứng : Đánh giá phân tích các số liệu
tình hình thực hiện và xây dựng kế hoạch
Phương pháp so sánh : đề tài đã sử dụng phương pháp này để so sánh
bản kế hoạch kỳ trước với bản kế hoạch đang thực hiện
Phương pháp chuẩn tắc được sử dụng trong việc đề xuất quan điểm và nội
dung kế hoạch 5 năm .kế hoạch hàng năm theo gốc nhìn nghiên cứu
Phần I lý luận chung
I .Vai trò của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường
1.Khái niệm,chức năng của kế hoạch hóa phát triển
Qua 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế VN đã có những
bước thay đổi vượt bậc. Vì sao VN lại đạt được những thành tựu như vậy?
Đó chính là có sự thay đổi lớn trong xây dựng và thực hiện kế hoạch theo
hướng phát triển kinh tế bền vững. Điểm nổi bật trong việc xây dựng kế
hoạch những năm 1996-2000 và 2001-2005 là đã đi sâu vào chính sách,
đồng bộ hoá các công cụ quản lý kinh tế, chuyển từ kế hoạch phát triển kinh
tế chủ yếu sang đồng thời phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, thành tựu lớn
trong 10 năm qua là kinh tế VN đã tăng trưởng rất cao và nhanh, GDP đạt
mức tăng trưởng bình quân 7,5%.Như vây kế hoạch hoá là gì ? yếu tố nào
của kế hoạch hóa thể hiện được vai trò của mình như vậy.Có thể định nghĩa
như sau :
- Kế hoạch hóa là phương thức quản lý nền kinh tế của Nhà Nước theo
mục tiêu ,nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã
hội phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia và
những giải pháp chính sách những cân đối vĩ mô cần thiết đạt được các mục
tiêu đặt ra một cách hiệu quả cao nhất
- Kế hoạch hoá kinh tế quốc dân là tổng hợp những mục tiêu phương

hướng chính sách biện pháp phát triển nền kinh tế quốc dân , được biểu hiện
bằng một hệ thống chỉ tiêu kế hoạch số lượng và chất lượng ,các bảng cân
đối phù hợp với các quy luật kinh tế trên cơ sở khai thác có hiệu quả nguồn
tài nguyên và nhân lực của Đất Nước
- Chức năng của kế hoạch hoá phát triển
Kế hoạch hoá phát triển là kế hoạch ở tầm vĩ mô ,kế hoạch mang tính
hướng dẫn và thể hiện dưới dạng các chính sách phát triển
Các chức năng cơ bản
+ Điều tiết phối hợp ổn định kinh tế vĩ mô
+ Định hướng phát triển kinh tế xã hội
+ Kiểm tra giám sát hoạt động kinh tế xã hội
2.Vai trò của kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường
- Quan niệm về vai tr ò kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế thấy rằng: một trong những
nội dung quan trọng mà các nhà kinh tế bàn đến là vai trò của nhân tố thị
trường và nhân tố Nhà nước trong điều hành quản lý nền kinh tế. Bởi lẽ, vấn
đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà
Sự phát triển nền kinh tế hiện nay lệ thuộc rất nhiều vào những yếu tố
môi trường, chứ không chỉ lệ thuộc vào sự điều hành và mong muốn của
Chính phủ. Ví dụ như môi trường khu vực, môi trường quốc tế, môi trường
địa kinh tế, môi trường thiên nhiên v.v Vì thế, các mục tiêu trong kế hoạch
chỉ mang tính nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỷ qua, không những ở
nước ta mà ở cả nhiều nước trên thế giới, vì muốn tìm tòi mô hình quản lý
kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn.
Đối với một nền kinh tế đặc thù như nước ta: nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN thì giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và nhà nước
trong điều tiết, quản lý nền kinh tế cũng còn nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn phải nghiên cứu. Chẳng hạn như :
Thứ nhất, Sử dụng cơ chế thị trường đến đâu và như thế nào để phát

huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
Thứ hai, Với chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước thì kế hoạch
hóa được sử dụng như là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như
thế nào để đạt được tăng trưởng lâu bền và đảm bảo được định hướng
XHCN.
Ngày nay, kế hoạch hóa (KHH) được hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm
toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của Nhà nước vào nền
kinh tế để đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Bản chất, nội dung của KHH hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường (KTTT).
Quan niệm về Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN khác
hẳn trong nền kinh tế tập trung - bao cấp: nếu trước đây Nhà nước là cho
phép và quyết định (theo cơ chế xin - cho), thì ngày nay là Nhà nước tạo
khung khổ pháp luật để mọi công dân tự do kinh doanh theo pháp luật và hỗ
trợ giúp đỡ, đồng thời giám sát để doanh nghiệp và dân doanh hoạt động sản
xuất - kinh doanh có hiệu quả.
Kế hoạch hóa trong nền KTTT định hướng XHCN cũng khác với
KHH trước đây: nếu trước đây kế hoạch chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực
kinh tế nhà nước, thì bây giờ kế hoạch phải bao hàm tổng thể nền kinh tế
quốc dân với nhiều thành phần kinh tế và phải nhấn mạnh đến vấn đề quy
hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội v.v
Nhìn nhận kế hoạch hóa với tư cách là một chức năng cơ bản của
quản lý kinh tế, thị trường với tư cách là một lĩnh vực hoạt động của đời
sống kinh tế - xã hội thì mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường có thể hiểu
theo cách thị trường vừa là đối tượng, vừa là cơ sở của kế hoạch hóa. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần 6, khóa VI khẳng định: "Trong nền
kinh tế hàng hóa có kế hoạch, thị trường vừa là một công cụ vừa là một đối
tượng của kế hoạch hóa".dự báo, tính định hướng và kế hoạch không bao
gồm kế hoạch sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ ba, Thị trường là khách quan, kế hoạch là sản phẩm chủ quan của

Nhà nước, của ngành, của địa phương Vậy thì xử lý mối quan hệ giữa cái
khách quan và cái chủ quan ở đây như thế nào cho phù hợp trong một cơ chế
để phát huy tác dụng cao nhất ?
Nói tạo "một sân chơi bình đẳng" cho các chủ thể kinh tế thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau, vậy Nhà nước điều khiển "sân chơi" đó như thế nào
để vừa không hạn chế sự thi thố
Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hoá, dịch vụ
trên thị trường (người bán cần tiền, người mua cần bán và họ phải gặp nhau
trên thị trường) thì nền kinh tế đó gọi là nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ
trong kinh tế bảo vệ lợi ích người tiêu dùng .Ngoài ra còn tạo cơ hội cho
mọi người sáng tạo, luôn tìm cách để cải tiến lối làm việc và rút ra những bài
học kinh nghiệm về thành công hay thất bại để phát triển không
ngừng.Nhưng cái gì cũng có hai mặt của nó kinh tế thị trường còn những
khuyết tật mà chưa thể khắc phục được như:
Chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý
đến những nhu cầu cơ bản của xã hội. Đặt lợi nhuận lên hàng đầu , cái gì có
lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là
“hàng hoá công cộng” (đường xá, các công trình văn hoá, y tế và giáo dục
.v.v.)
Có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã
hội.Do tính tự phát vốn có, kinh tế thị trường có thể mang lại không chỉ có
tiến bộ mà còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần phải có
sự can thiệp của Nhà nước
Vì vậy để phát triển một cách bền vững thì có cần sự can thiệp của
Nhà nước sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động của thị trường được ổn định,
nhằm tối đa hoá hiệu quả kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị của sự phát
triển kinh tế, sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị
trường, tạo ra những công cụ quan trọng để điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô.

Bằng cách đó Nhà nước mới có thể kiềm chế tính tự phát của kinh tế thị
trường, đồng thời kính thích đối với sản xuất thông qua trao đổi hàng hoá
dưới hình thức thương mại.
Với những đặc điểm đó thì Nhà nứớc sử dụng các hệ thống công cụ để
điều tiết thị trường và một trong những phương pháp mang lại hiệu quả lớn
đó là sử dụng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội .Kế hoạch đã và đang dần
dần thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế thị trường .
Vậy vai trò của nó như thế nào ? Có thể nói rằng vai trò đó được thể hiện
đối với nền kinh tế thị trường bao gồm như :
Thứ nhất : Điều tiết phối hợp ổn định kinh tế vĩ mô bằng các chính sách
Với chức năng này thì mục tiêu chính của kế hoạch đó là ổn định giá
cả,bảo đảm công ăn việc làm ,tăng trưởng và cân đối cán cân thanh toán
quốc tế .Các mục tiêu này đan xen lẫn nhau không thể quá chú trọng vào
một yếu tố nào đó sẽ làm ảnh hưởng tới các yếu tố khác
Trong chức năng điều tiết ổn định kinh tế vĩ mô thì kế hoạch thể hiện
ở chỗ là hoạch định chính sách chung tổng thể của nền kinh tế ,đưa ra các
biện pháp phân bổ nguồn lực cho phát triển kinh tế ,đảm bảo sử dụng hiệu
quả những gì đã có
Bên cạnh đó kế hoạch bảo đảm môi trường kinh tế ổn định và cân đối
,bảo đảm sự công bằng xã hội giữa các vùng miền ,giữa các tầng lớp nhân dân
Thứ hai : Định hướng phát triển kinh tế xã hội
Đây là chức năng thể hiện bản chất của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
và chính nó làm cho kế hoạch không bị lu mờ trong cơ chế thị trường vì vậy
kế hoạch cần phải
Xây dựng được chiến lược và quy hoạch phát triển toàn bộ nền kinh tế
cũng như quy hoạch phát triển vùng ,ngành ,đưa ra hệ thống mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội nhằm thực hiện chức năng dẫn dắt định hướng phát triển
xử lý kịp thời các mất cân đối xuất hiện trong nền kinh tế thị trường
Thứ ba : Kiểm tra giám sát hoạt động kinh tế xã hội
Chính phủ thông qua các cơ quan chức năng thường xuyên theo dõi

kiểm tra tình hình thực hiện các tiến độ kế hoạch thực hiện và tuân thủ các
cơ chế ,chính sách áp dụng trong thời kỳ kế hoạch .Đánh giá kết quả của
việc thực hiện các chính sách và các mục tiêu đề ra .Phân tích hiệu quả tài
chính, hiệu quả kinh tế bảo đảm các luận cứ quan trọng cho việc xây dựng
các kế hoạch tiếp theo
II . Sự cần thiết đổi mới công tác kế hoạch hóa ở
việt nam hiện nay
1. Đổi mới công tác Lập kế hoạch
Cơ quan kế hoạch đã tham mưu tổng hợp cho lãnh đạo các cấp hoạch
định các chương trình đầu tư phát triển ,thực hiện tăng trưởng kinh tế xóa
đói giảm nghèo và tạo việc làm theo định hướng phát triển bền vững của đất
nước . Ngày nay hệ thống kế hoạch của nước ta đã phát triển mạnh mẽ góp
phần tạo nên những thành tựu to lớn cho đất nước. Đồng thời nó cũng đã bộc
lộ một số nhược điểm lớn cần khắc phục .Một trong vấn đề cần đổi mới đó
là công tác đổi mới lập kế hoạch .
Đổi mới lập kế hoạch có nghĩa là :
1. Đổi mới nhận thức công việc xây dựng và công việc tổ chức thực hiện
chiến lược dài hạn
2. Đổi mới nhận thức công việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
phát triển 5 năm
3. Đổi mới nhận thức và xây dựng kế hoạch hàng năm phục vụ phát triển
đất nước
2 . Ưu nhược điểm kế hoạch hóa ở việt nam trong thời gian qua
Cùng với đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế ở nước ta thì công tác kế
hoạch hóa nói chung và việc lập kế hoạch nói riêng đã được đổi mới từng
bước đóng góp đáng kể vào những thành công của công cuộc đổi mới đất
nước trong thời gian qua . Qua các bản kế hoạch của các tỉnh thành phố nhận
thấy được trong công tác lập kế hoạch đã có nhiều tiến bộ đáng kể
Tư duy trong công tác lập kế hoạch đã có những bứớc tiến bộ rõ rệt
,bước đầu hình thành mô hình kế hoạch định hướng gắn liền với việc vận

dụng nguyên tắc của thị trường. Phạm vi lập kế hoạch không còn đóng
khung trong khu vực kinh tế nhà nước như trước đây mà mở rộng ra toàn bộ
nền kinh tế với mọi thành phần tham gia. Bên cạnh đó trong phương pháp
xây dựng kế hoạch đã sử dụng các phương pháp mới có hiệu quả cao như
phương pháp mô phỏng ,phương pháp lồng ghép ,lập kế hoạch mang tính
chiến lược, lập kế hoạch dựa vào kết quả và có sự tham gia của các bên liên
quan. Mặt khác vai trò và vị trí của công tác lập kế hoạch cũng có nhiều thay
đổi, công tác lập không chỉ do một cơ quan chuyên trách thực hiện nữa mà
trở thành hoạt động toàn xã hội trên cơ sở huy động trí tuệ toàn dân
Như vậy có thể nói rằng công tác lập kế hoạch trong thời gian qua đã
có những chuyển biến tích cực, phù hợp với chủ trương đổi mới kế hoạch
hóa của Đảng và Chính Phủ. Tuy nhiên xét theo hướng phát triển bền vững
của nền kinh tế thì khách quan nhận thấy công tác lập kế hoạch nước ta hiện
nay còn một số nhược điểm cần khắc phục
Trong việc lập cũng đang trông chờ ỷ lại vào Nhà nước vẫn phổ biến
làm cho hoạt động của nền kinh tế còn thấp năng suất lao động chậm được
cải thiện. Mối quan hệ giữa các cơ quan lập kế hoạch của địa phương với
trung ương còn thấp,ít trao đổi kinh nghiệm để tạo điều kiện cho lập kế
hoạch của cả nước và địa phương
Quy trình lập kế hoạch còn có những bất cập ,nhất là kế hoạch hàng
năm. Việc xác định mục tiêu kế hoạch ít xác định chính sách và biện pháp.
Lập kế hoạch mà các bản kế hoạch không gắn với ngân sách dẫn đến ở nước
ta có rất nhiều nơi đầu tư dàn trải kém hiệu quả.Biểu hiện rõ nhất đó trong
lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, công trình thì chờ vốn giải ngân là hiện
tượng xảy ra phổ biến và trầm trọng
Yếu tố còn bất cập đó là mối quan hệ giữa kinh tế xã hội môi trường
tuy đã được quan tâm hơn nhưng trên thực tế việc lập kế hoạch vẫn chỉ chú
trong mang tính hình thứch chứ chưa xác định rõ ràng.
3. Yêu cầu về đổi mới đối với KHH ở Việt Nam
Xuất phát từ những tồn tại trong công tác lập kế hoạch như trên yêu

cầu của sự phát triển bền vững trong giai đoạn tới đặt ra yêu cầu cấp bách
phải tiếp tục đổi mới kế hoạch trong đó có công tác lập kế hoạch ở nứớc
ta .Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ “Đổi mới hơn nữa công tác
kế hoạch hóa nâng cao chất lượng xây dựng các chiến lược ,quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội tăng cường thông tin kinh tế xã hội trong
nước và quốc tế, công tác kế tóan thống kê ứng dụng rộng rãi các thành tựu
khoa học công nghệ trong dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ
mô và doanh nghiệp. Trên tinh thần đó để thành công trong công cuộc xây
dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta cần có những yêu cầu chủ yếu sau:
Thứ nhất: Đó là tăng cường phân cấp giữa các cấp kế hoạch khác
nhau trong nền kinh tế
Thứ hai: Tăng cường cải tiến phương pháp lập kế hoạch
Thứ b: Đổi mới tư duy về công tác giám sát đánh giá,bổ sung và điều
chỉnh lập kế hoạch
Thứ tư : Đổi mới tư duy và phương pháp trong xác định mục tiêu
Thứ năm: Cần có sự thống nhất giữa các cơ quan và các cấp lập kế hoạch
4. Các nội dung đổi mới
Với những bất cập còn tồn tại thì công tác lập kế hoạch sắp tới của
nước ta cần có những bước chuyển biến mang tính đột phá và đồng bộ .Nội
dung của đổi mới có thể là
- Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển KTXH có sự tham gia
của cộng đồng
- Tăng cường các hệ thống chỉ tiêu phát triển như chỉ tiêu tăng trưởng kinh
tế ,phát triển xã hội ,bảo vệ môi trường,chỉ tiêu về vốn đầu tư …
- Tiếp tục mở rộng nội dung KH không chỉ phục vụ cho Đảng và Nhà
Nước mà còn phục vụ trong các doanh nghiệp
- Xây dựng phương pháp tính toán chính xác ,có độ tin cậy cao ,đánh giá
đúng thực trạng kinh tế Việt Nam và cần tăng cường các chỉ tiêu quốc tế để
so sánh và lập kế hoạch
- Cần có những bản kế hoạch cụ thể của từng địa phương trên cơ sở phân

tích sâu sắc đặc điểm về điều kiện tự nhiên,khí hậu, thế mạnh của từng vùng
- Đổi mới hệ thống thông tin xử lý và sự dụng thông tin, hệ thống thông tin
là một trong những yếu tố cơ bản quyết định chất lượng của KH vậy nên xây
dựng các trung tâm dữ liệu ở cấp Trung ương ,cấp địa phương và cấp cơ sở
- Củng cố bộ máy tổ chức và đặc biệt nâng cao trình độ cán bộ KH
Phần II : Thực trạng đổi mới công tác KHH
ở Việt Nam hiện nay
lý dự á Trung ương nghiên cứu tổng hợp thực hiện theo mục tiêu mà dự án đề
1: Các chính sách,chủ trương đổi mới trong công tác KHH ở Việt Nam
Các chính sách của Nhà Nước đối với công tác đổi mới KHH
+ Để triển khai đổi mới KHH thì Thủ tướng chính phủ đã ban hành
Chỉ thị số 33/TTg về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm
2006-2010 trong đó yêu cầu đổi mới cả nội dung lẫn phương pháp kế hoạch
trong thời gian tới
+ Quyết định 217/HĐBT chính sách đổi mới kế hoạch hóa và hạch
toàn kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với xí nghiệp quốc doanh do Hội đồng
bộ trưởng ban hành
+ Công văn số 2215 hướng dẫn công tác lập kế hoạch của bộ KH&ĐT
+ Luật NSNN sửa đổi
+ …
Các chủ trương đổi mới kế hoạch hóa của Nhà Nước ta trong thòi
gian qua đang tập trung vào các vấn đề như sau :
- Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển KTXH có sự tham
gia của cộng đồng
- Tăng cường các hệ thống chỉ tiêu phát triển như chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế ,phát triển xã hội, bảo vệ môi trường,chỉ tiêu về vốn đầu tư …
- Tiếp tục mở rộng nội dung KH không chỉ phục vụ cho Đảng và Nhà
Nước mà còn phục vụ trong các doanh nghiệp
- Xây dựng phương pháp tính toán chính xác, có độ tin cậy cao ,đánh
giá đúng thực trạng kinh tế Việt Nam và cần tăng cường các chỉ tiêu quốc tế

để so sánh và lập kế hoạch
- Cần có những bản kế hoạch cụ thể của từng địa phương trên cơ sở phân
tích sâu sắc đặc điểm về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thế mạnh của từng vùng
- Đổi mới hệ thống thông tin xử lý và sự dụng thông tin, hệ thống thông
tin là một trong những yếu tố cơ bản quyết định chất lượng của KH vậy nên
xây dựng các trung tâm dữ liệu ở cấp Trung ương ,cấp địa phương và cấp cơ sở
- Củng cố bộ máy tổ chức và đặc biệt nâng cao trình độ cán bộ KH
2. Thực trạng đổi mới kế hoạch hóa ở Việt Nam
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế công tác KHH
đã được đổi mới từng bước, đóng góp đáng kể vào những thành công của
công cuộc đổi mới của đất nuớc trong thời gian 20 năm: Quá trình đổi mới
đã có những kết quả chủ yếu sau:
- Đã có sự đổi mới tư duy trong công tác KHH nhờ đó đã hình thành
bứớc đầu mô hình KH định hướng gắn liền với việc vận dụng nguyên tắc
của thị trường. Phạm vi kế hoạch hóa không còn đóng khung trong khu vực
kinh tế Nhà Nước như trước đây nữa mà mở rộng toàn bộ nền kinh tế với
mọi thành phần kinh tế tham gia. Công tác KHH không còn của là công tác
của cơ quan chuyên môn nữa mà là hoạt động trên cơ sở của toàn dân
- Đổi mới về phương thức lập kế hoạch. Trong thời gian dần dần chúng
ta đã giảm thiểu các chỉ tiêu pháp lệnh,chuyển từ chỉ tiêu hiện vật sang chỉ
tiêu giá trị
- Trong thời gian qua đã có những bản kế hoạch bước đầu thử nghiệm
phương pháp mô phỏng, phương pháp lồng ghép, phương pháp lập kế hoạch
có sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan
-Công tác điều hành KH có nhiều đổi mới đã có sự tham gia tích cực
của các địa phương
-Công tác đào tạo đã có những chuyền biến tích cực ,đã xây dựng hệ
thống đào tạo cán bộ KH ở các trường đại học như Khoa Kế hoạch & phát
triển của Trường đại học kinh tế quốc dân
Như vậy có thể nói công tác kế hoạch trong thời gian qua đã có những

chuyển biến tích cực phù hợp với chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà
Nước tuy nhiên nhận thấy rằng vẫn còn tồn tại những yếu kém như
- Vẫn còn tình trạng trông chờ ỷ lại các cơ quan Trung ương và Nhà
Nước dẫn tới kế hoạch hóa ở địa phương vẫn chưa phát huy được chức năng
và nhiệm vụ của mình
- Trong việc dự báo cho kế hoạch vẫn còn yếu chưa phản ánh kịp thời
những thay đổi và diễn biến của trong nứoc và nứoc ngoài làm cho nhiều lúc
mất đi những cơ hội đáng tiếc trong hoạt động của nền kinh tế như công tác
dự báo lượng gạo trong năm qua …
- Bên cạnh đó việc áp dụng các công cụ phương pháp mới vào KH còn
chậm ,mới thí nghiệm, thí điểm chưa phổ biến rộng rãi đặc biệt KH ở địa
phương vẫn còn áp dụng nhiều phưong pháp cũ
- Kế hoạch trong thời gian qua vẫn chưa gắn với ngân sách nhiều dẫn
tới tình trạng đầu tư dàn trải kém hiệu quả như trong xây dựng cơ bản
- Sự thiếu cán bộ chuyên trách kế hoạch ở các tỉnh còn thiếu trầm trọng
như sở KH&ĐT Hà Tĩnh chỉ có 1 cán bộ chuyên ngành KH ,Đà Nẵng cũng
chỉ có 2 cán bộ chuyên trách nhưng các bộ này còn kiêm nhiệm nhiều nhiệm
vụ khác, các tỉnh khác cũng tình trạng tương tự
a. Đổi mới công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta.
Với cách đặt vấn đề như trên, cần thấy rằng: Kế hoạch hóa là một
trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước nhằm
đạt tăng trưởng lâu bền và đảm bảo định hướng XHCN. Vì thế đổi mới công
tác kế hoạch từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung, quy trình lập và
điều hành cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo kế hoạch là một nội
dung cơ bản của quá trình đổi mới công tác kế hoạch. Bản chất, nội dung
của kế hoạch hóa hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường.
Trong cơ chế thị trường TBCN, sự can thiệp của Nhà nước luôn mang
tính chất tư sản và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm

bảo đảm môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp
tư sản, cho sự bền vững của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Trong cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì
sự can thiệp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vào nền kinh tế lại nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động, thực hiện mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN là cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Cơ chế đó đảm
bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích
XHCN theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn
doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản: Một là, nhà nước
XHCN là nhân tố đóng vai trò "nhân vật trung tâm" và điều tiết nền kinh tế
vĩ mô. Hai là, cơ chế thị trường (CCTT) là nhân tố trung tâm của nền kinh
tế, đóng vai trò "trung gian" giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Trong nền KTTT vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, sự quản lý can thiệp vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với yêu cầu của
các quy luật kinh tế thị trường. Nhà nước phải sử dụng chủ yếu các công cụ,
biện pháp kinh tế, luật pháp, quy hoạch, kế hoạch định hướng, chính sách kinh
tế - xã hội và khả năng, sức mạnh kinh tế của Nhà nước để tác động tới thị
trường, điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp cho phù hợp.
Cơ chế thị trường có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Về mặt tích cực:
nó là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển; nó
có tác dụng kích thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi
mới kỹ thuật, công nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng;
nó có tác dụng lớn trong tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lý
kinh doanh giỏi. Trên cơ sở đó, CCTT kích thích sản xuất và lưu thông hàng
hóa phát triển Về mặt tiêu cực: trên thị trường chứa đựng tính tự phát,
chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà
sản xuất, kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu: môi trường bị hủy hoại,
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, phá sản, thất nghiệp, phân hóa xã hội

cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội không được
bảo đảm, tệ nạn xã hội gia tăng, thậm chí có người làm ăn bất hợp pháp, trốn
lậu thuế, làm hàng giả. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận mà các nhà sản xuất,
kinh doanh không làm những ngành nghề ít lợi nhuận. Để hạn chế những
khuyết tật đó, đòi hỏi Nhà nước phải quản lý nền KTTT. Nhà nước quản lý
nền kinh tế thị trường bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch định hướng, bằng
các công cụ, chính sách, biện pháp kinh tế CCTT chịu sự tác động rất
mạnh của các quy luật kinh tế thị trường, do đó sự can thiệp vĩ mô của nhà
nước phải phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường.
Tình hình đó đặt ra cho nền KTTT định hướng XHCN phải xử lý hài
hòa 3 vấn đề sau đây: Một là, giải quyết tốt vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã
hội, sao cho vừa đảm bảo cho các chủ thể KTTT có được lợi nhuận cao, vừa
tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế.
Hai là, kết hợp những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên tắc của
KTTT, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua
quỹ phúc lợi xã hội Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là
chính. Thứ ba, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi nhà nước phải
có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu
và lớp người nghèo ; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu
nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, do vậy nội dung kế hoạch
không được phép chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế nhà nước mà
phải mang tính tổng thể toàn nền kinh tế. Việc đổi mới này sẽ tác động một
cách sâu sắc đến tính dân chủ và công khai của kế hoạch. Ngay từ lúc dự
thảo nội dung kế hoạch, các mục tiêu và biện pháp không nên và không cần
phải giữ bí mật. Nhà nước cần tăng cường khung khổ pháp lý, hạn chế tối đa
mọi can thiệp mang tính áp đặt, trực tiếp và chuyển sang hình thức tác động
gián tiếp và khuyến khích. Như vậy, những công cụ thường được áp dụng
trong nền kinh tế kế hoạch hóa trước kia phải được thay bằng những công
cụ, chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Liên

quan chặt chẽ với những điểm trên là vấn đề quy hoạch. Quy hoạch được coi
là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch. Nhưng ở nước ta vấn đề quy hoạch
cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Cần phải phân biệt rõ 2 loại quy hoạch: quy
hoạch sử dụng không gian (bao gồm cả quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
đô thị) và quy hoạch phát triển ngành. Thời gian qua, quy hoạch sử dụng
không gian, đặc biệt là quy hoạch đô thị chưa được chú ý đúng mức, quy
hoạch sử dụng đất thì lại không ổn định. Điều này đã gây lãng phí cho cả
Nhà nước lẫn mọi người dân. Quy hoạch phát triển ngành lại được chú ý quá
mức, gần như ngành nào cũng có và hầu hết quy hoạch ngành lại được xác
định trong điều kiện "tĩnh" và "đóng cửa", không tính được đầy đủ những
biến động trên thị trường thế giới. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều
doanh nghiệp, nhiều sản phẩm được hình thành theo quy hoạch không thể có
sức cạnh tranh trên thị trường nếu không được Nhà nước bảo hộ. Tư duy về
quy hoạch cần đổi mới theo hướng tăng cường công tác quy hoạch đô thị,
quy hoạch sử dụng đất, chỉ quy hoạch những ngành mang tính hệ thống toàn
vùng hoặc toàn quốc (đường giao thông, điện, viễn thông ), những ngành
mang tính kinh doanh chỉ nên dừng ở mức dự báo cung cấp thông tin kinh
tế, khoa học công nghệ để các doanh nghiệp tự làm. Cần nâng cao chất
lượng công tác quy hoạch: Bản chất quy hoạch là cụ thể hóa chiến lược về
mặt không gian và thời gian. Quy hoạch lãnh thổ bám sát nguyên tắc phân
cấp, việc xây dựng và thực hiện quy hoạch của cấp nào thì dựa chủ yếu vào
tiềm lực của cấp đó, chính quyền cấp trên có trách nhiệm phối hợp điều hòa
quy hoạch của chính quyền cấp dưới trực tiếp. Quy hoạch sử dụng đất, đặc
biệt là quy hoạch đô thị là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước và các cấp
chính quyền. Việc quy hoạch đô thị cần được tiến hành một cách công khai
và ổn định, hạn chế các hiện tượng tiêu cực hoặc lạm dụng để đầu cơ trong
thị trường bất động sản. Quy hoạch tổng thể ngành được áp dụng cho những
ngành mang tính chiến lược và tính hệ thống toàn quốc (điện, giao thông,
bưu chính viễn thông) có tính đến sự tham gia của các thành phần kinh tế và
những biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thực hiện

quy hoạch. Quy hoạch phát triển của các ngành khác có sản phẩm và dịch vụ
mang tính thương mại, phụ thuộc vào biến động thị trường trong nước và thế
giới, tiến bộ khoa học kỹ thuật chỉ nên dừng ở mức độ định hướng, dự báo,
hạn chế tối đa việc sử dụng nguồn ngân sách để đầu tư cho các dự án ở
những lĩnh vực này. Cần có quy chế công bố công khai các quy hoạch để các
thành phần kinh tế đóng góp ý kiến, tham khảo và tích cực thực hiện.
Xu thế phân cấp trong quản lý ngày càng tỏ ra có hiệu quả trong thực
tế. Cần phân cấp quản lý nhà nước theo nguyên tắc "những hoạt động gắn
liền với quyền lợi người dân do chính quyền cấp gần dân nhất chăm lo,
chính quyền cấp trên chỉ thực hiện những nhiệm vụ có quy mô lớn mà cấp
dưới không thực hiện được hoặc những việc mang tính liên vùng".
Việc xác định mục tiêu trong lập kế hoạch ở cả Trung ương lẫn địa
phương theo kiểu năm sau phải cao hơn năm trước, mục tiêu nào cũng đều
muốn đạt mức cao trong khi tiềm lực có hạn cần được thay đổi một cách cơ
bản. Kế hoạch phải căn cứ vào hiện thực, phân tích quan hệ cung - cầu và
khả năng cạnh tranh trên thị trường (trong nước và quốc tế) để tính tốc độ
tăng trưởng, từ đó xác định mục tiêu. Việc xác định các mục tiêu phải đi
kèm với xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu, nghĩa là phải có sự "trả
giá", có khi phải hạ thấp yêu cầu mục tiêu này cho việc đạt mục tiêu khác
cao hơn.
Việt Nam đã gia nhập ASEAN, AFTA, ký kết Hiệp định Thương mại
với Mỹ, quá trình toàn cầu hóa đang ngày càng gia tăng trên toàn thế giới, sự
liên kết giữa thị trường trong nước và thị trường thế giới ngày càng gắn bó,
nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra sức ép
ngày càng cao đối với mọi quốc gia, mọi doanh nghiệp. Việc nhận thức đầy
đủ những vấn đề này sẽ buộc những nhà hoạch định chính sách phải đặt ra
những mục tiêu kế hoạch trong bối cảnh chung, trong môi trường "động" và
"mở cửa". Không chấp nhận những thách thức này, chắc chắn nền kinh tế sẽ
không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu, dẫn đến bất ổn định trong xã hội.
Trên cơ sở đổi mới về xác định mục tiêu và công cụ, quá trình xây

dựng nội dung kế hoạch cần đổi mới theo hướng xác định các mục tiêu phải
được làm cùng với xác định biện pháp tương ứng, công cụ chính sách đầu tư
ngày càng giảm và công cụ chính sách khuyến khích ngày càng tăng nhằm
phát huy hết tiềm năng của cả xã hội (ví dụ: chính sách khuyến khích các
hoạt động xã hội hóa ở các lĩnh vực giáo dục, y tế, đã làm giảm đáng kể
gánh nặng cho ngân sách nhà nước).
Việc xây dựng Chiến lược kinh tế - xã hội do Hội đồng Nghiên cứu
chiến lược thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng; chiến lược có thời hạn 10-
15 năm nhưng được điều chỉnh vào giữa kỳ; dự thảo chiến lược được công
bố công khai và được các tầng lớp xã hội, đặc biệt là các nhà trí thức và
quản lý tham gia đóng góp ý kiến. Mục tiêu chiến lược không được mang
tính chủ quan, duy ý chí, những mâu thuẫn giữa các mục tiêu cần được phân
tích và xử lý thông qua việc xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu nhằm
đưa ra những biện pháp cụ thể cho từng thời kỳ. Nội dung chiến lược phải
đảm bảo tính hệ thống, tính đồng bộ giữa các ngành, các vùng trong phát
triển kinh tế.
Xây dựng kế hoạch định hướng phát triển 5 năm. Kế hoạch 5 năm cụ
thể hóa chiến lược. Kế hoạch 5 năm xác định một số chỉ tiêu cơ bản định
hướng cho sự phát triển của đất nước, xác định những lĩnh vực mà nền kinh
tế sẽ ưu tiên tập trung phát triển, xác định nguyên tắc hoạch định và xây
dựng chính sách cụ thể để toàn bộ nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
Do nội dung kế hoạch ngày càng có tính định hướng, dự báo cao nên vai trò
của kế hoạch 5 năm ngày càng quan trọng.
Một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch 5 năm là
những dự báo phát triển về khả năng biến động của những yếu tố quốc tế, xu
thế hội nhập khu vực và quốc tế, của tiến bộ khoa học và công nghệ trên thế
giới, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của một số ngành chủ chốt trên thị
trường Việt Nam cũng như trên thị trường quốc tế. Kế hoạch 5 năm cần tập
trung nguồn lực vào một số ít mục tiêu quan trọng của thời kỳ, những mục
tiêu khác có thể chỉ cần đạt đến một mức độ tối thiểu cần thiết.

Nội dung của kế hoạch 5 năm bao gồm một số chương trình trọng
điểm của Nhà nước và quan trọng hơn cả là một hệ thống cơ chế chính sách.
Chính vì vậy, việc xây dựng kế hoạch 5 năm cần được thực hiện theo một
quy trình mới với sự phối hợp chặt chẽ và phân công cụ thể giữa các cấp,
giữa các bộ và có sự tham gia của các tầng lớp và tổ chức trong xã hội.
Hệ thống kế hoạch 5 năm của toàn nền kinh tế bao gồm kế hoạch cấp
quận huyện, cấp tỉnh và cấp quốc gia.
Hệ thống kế hoạch hàng năm ở tầng vĩ mô: Kế hoạch hàng năm vừa là
bộ phận vừa là công cụ để điều hành thực hiện kế hoạch định hướng phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm. Trong mối quan hệ với kế hoạch 5 năm, kế
hoạch hàng năm chủ yếu chỉ mang nội dung phân bổ các nguồn lực, đặc biệt
là nguồn lực tài chính để thực hiện một phần mục tiêu của kế hoạch 5 năm,
do vậy kế hoạch hàng năm không nên đưa ra mục tiêu mang tính tổng quát.
Về nguyên tắc, hệ thống kế hoạch kinh tế quốc dân trong nền kinh tế thị
trường không bao gồm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên trong quá trình chuyển đổi, Nhà nước còn nắm vị trí độc quyền
hoặc chủ đạo ở một số ngành then chốt, vì thế kế hoạch kinh tế quốc dân
trong giai đoạn này vẫn có mối quan hệ gắn bó với kế hoạch của những
Tổng công ty chủ chốt ở những ngành này (ví dụ: Dầu khí, Điện lực, Bưu
chính viễn thông ). Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại của Việt
Nam tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định cho
nền kinh tế trong thời gian tới và cũng sẽ có tác động rất lớn đến việc tính
toán trong xây dựng và điều hành kế hoạch. Do vậy, các ngân hàng thương
mại lớn và những Tổng công ty này cần phải định kỳ báo cáo về kế hoạch và
tình hình sản xuất kinh doanh của mình để Chính phủ có những thông tin
cần thiết phục vụ cho việc lập và điều hành kế hoạch. Điều hành kế hoạch
cần dựa trên cơ sở thông tin báo cáo và mô hình phân tích dự báo hàng quý.
Phối hợp kết quả này với ý kiến chuyên gia sẽ cho phép Nhà nước, các cấp
xác định thời điểm, mức độ, phạm vi và cách thức can thiệp một cách hợp lý
vào nền kinh tế.

Đổi mới công tác kế hoạch hóa ở địa phương và ở các ngành. Nội
dung kế hoạch của các địa phương cần phản ánh đúng sự phân cấp quản lý
nhà nước về kinh tế. Kế hoạch của các ngành, địa phương phải phù hợp với
kế hoạch chung của cả nước. Bên cạnh nhiệm vụ xây dựng quy hoạch phát
triển của mình, các ngành, các địa phương cần hỗ trợ cho việc lập và điều
hành kế hoạch kinh tế quốc dân bằng cách cung cấp các thông tin, dự báo và
những kiến nghị cho việc xây dựng các chính sách kinh tế.
Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và các ngành trong việc
dự báo tình hình thị trường trong nước và quốc tế cũng như phân tích, đánh
giá thực trạng trong nước, bao gồm tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đảm bảo các điều kiện và tiền đề cho việc đổi mới công tác kế hoạch
hóa: Đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và sử dụng thông tin. Xác định các
loại thông tin báo cáo cần thiết, thống nhất biểu mẫu các loại thông tin báo
cáo; xác định hệ thống tổ chức bộ máy thu thập và xử lý thông tin; khắc
phục tình trạng "thương mại hóa" thông tin một cách vô nguyên tắc, xác
định rõ trách nhiệm cung cấp các loại thông tin đối với những cơ quan có
liên quan; thiết kế cụ thể các nguồn thông tin và địa chỉ cần phân phối thông
tin nhằm hỗ trợ cho công tác kế hoạch hóa; xác định rõ ràng những thông tin
mật không công bố.
Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế. Dự báo
và phân tích chính sách được thực hiện độc lập ở nhiều cơ quan; tập trung
vào dự báo ngắn hạn; xác định một số mô hình không phức tạp không cần có
độ chính xác quá cao nhưng phải kịp thời xử lý được những thông tin để
phân tích giúp cho việc điều hành một cách nhanh nhạy.
Nâng cao chất lượng bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ. Hoàn
thiện bộ máy kế hoạch ở Trung ương và địa phương, thực hiện chương trình
đào tạo và bồi dưỡng cán bộ kế hoạch một cách cơ bản.
Công tác kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải nâng cao vai
trò của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tham mưu tổng hợp của nền kinh

tế quốc dân, phát huy vai trò của các Bộ và Tổng công ty theo một phương
pháp luận thống nhất. Công tác kế hoạch hóa cũng không chỉ được thực hiện
bởi những người trong ngành Kế hoạch, mà cần được sự chú ý và tham gia
của nhiều tầng lớp trong xã hội, đặc biệt của những nhà doanh nghiệp,
những nhà khoa học. Việc điều hành thực hiện kế hoạch không phải là công
việc riêng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc một Bộ nào khác mà nó phải
được thực hiện thông qua sự phối hợp một cách thống nhất và tương hợp
giữa các bộ, ngành và các địa phương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ
tướng Chính phủ.
3 Đánh giá đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam
1. Những mặt được
Đất nước ta trong thời gian gần đây có sự phát triển mạnh mẽ cả về
kinh tế lẫn văn hóa giáo. Cũng là kết quả của sự nỗ lực rất lớn của toàn thể
nhân dân và chính quyền trong đó phần nào công tác lập kế hoạch đã có
những đổi mới nhất định
Cụ thể :
Thứ nhất: Trong bản kế hoạch đã có sự phối hợp đồng bộ của các bên
liên quan như kế hoạch phát triển kinh tế x ã h ội năm 2008 bên cạnh các cơ
quan nòng cốt như sở tài chính sở nội vụ còn có sự tham gia nhiệt tình của
nhân dan,các trung tâm đầu tư …
Mặt khác quan hệ giữa các cấp làm kế hoạch đã mềm hơn so với trước
đây. Các quyết định trước đây thường mang tính mệnh lệnh áp đặt giữa các
cấp kế hoạch mà dần dần chú trọng sử dụng phương pháp và hướng dẫn từ
trên xuống nhiều hơn. Đây là điểm đổi mới quan trọng trong việc lập kế
hoạch hiện nay
Thứ 2: Trong lập kế hoạch gần đây đã có chú trọng vào các lĩnh vực văn
hóa xã hội ,môi trường như xóa đói giảm nghèo ,dịch vụ,giao thông ,dân số
….mặc dù các chỉ tiêu này đưa vào vẫn còn nặng về số lượng nhưng phần
nào đó đã thể hiện được sự thay đổi tích cực trong c ông t ác lập kế hoạch
Thứ 3: trong các bản kế hoạch hi ện nay đã được xây dựng mang tính

định hướng điều này được thể hiện trong bản kế hoạch 5 năm và bản kế
hoạch hàng năm như định hướng phát triển ngành công nghiệp bằng những
chính sách thu hút đầu tư trong n ư ớc v à n ư ớc ngo ài v ào nh ững khu c
ông nghi ệp tr ọng đi.Thực tế đã chứng minh cho sự đổi mới của lập kế
hoạch đó là tốc độ tăng trưởng của n ư ớc tan n ă m 2007 là 8.5% giá trị sản
2. Những mặt còn hạn chế
Công tác lập kế hoạch trong thời gian qua đã có những thành tựu nhất
định nhưng vẫn còn một số vấn đề còn bất cập chưa phù hợp với xu thế đổi
mới kế hoạch hóa hiện nay cụ thể nh ư
Thứ nhất : Chất lượng của các bản kế hoạch vẫn còn thấp .Nội dung
bản kế hoạch còn máy móc theo những khuôn mẫu nhất định thiếu đi những
nét sáng tạo .Cụ thể như phần đánh giá thực trạng vẫn còn đánh giá một cách
chung chung chưa đi vào cái cốt lõi của vấn đề . còn phần giải pháp thì chưa
ra các giải pháp mang tính ứng dung mà chủ yếu giải pháp mang tính lý
thuyết .Ngoài ra phần giải pháp phải có phần dự báo cụ thể cho thời kỳ sau
Bản kế hoạch vẫn còn là bàn kế hoạch treo là vì lẽ đó tức là tính ứng dụng
chưa cao
Thứ hai :Quá trình xây dựng kế hoạch thiếu đi tính sát thực .Hầu hết
các bản kế hoạch đều được xây dựng từ những nguồn thông tin được cung
cấp qua những báo cáo thực hiện từ các đơn vị trong tỉnh .Mà báo cáo này
không phải khi nào cũng phản ánh tình hình thực tế . khi xây dựng kế hoạch
còn thiếu hệ thống thông tin khác như ý kiến người dân … nên thường dẫn

×