Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đổi mới công tác kế hoạch hóa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.73 KB, 30 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu

Công tác Kế hoạch hoá ở Việt nam đã được tiến hành hơn 50 năm.
Trong thời gian đó công tác kế hoạch luôn là công cụ chủ yếu của nhà nước để
quản lý kinh tế - xã hội.
Với điều kiện mới của nền kinh tế, công tác quản lý kinh tế nói chung và
công tác kế hoạch nói riêng cũng thay đổi để đáp ứng yêu cầu đổi mới đó.
Việt Nam với chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, cùng với xu thế hội nhập khu vức và quốc tế, đã đặt
ra nhiệm vụ hết sức nặng nề, to lớn và quan trọng cho công tác kế hoạch hoá.
Đó là đổi mới công tác kế hoạch từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung,
phương pháp cđến cách thức chỉ đạo.
Đổi mới công tác kế hoạch là nhiệm vụ tất yếu trong quá trình phát triển
kinh tế.
Cũng chính vì vậy em đã chọn đề tài "Đổi mới công tác kế hoạch hoá ở
Việt Nam hiện nay"
Em xin trân thành cảm ơn PGS.TS Ngô Thắn Lợi đã giúp đỡ em hoàn
thành đề án này.
Bài viết được chia thành 3 phần:
Phần I: Cở sở lý luận về vai trò của kế hoạch hoá trong nền kinh tế
thị trường
Phần II) Sự cần thiết phải đổi mới công tác kế hoạch hóa ở Việt Nam
Phần III)Đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam trong thời gian tới
Nội dung
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I) Cở sở lý luận về vai trò của kế hoạch hoá trong
nền kinh tế thị trường.
I)Tổng quan về kế hoạch hóa


1)Bản chất của kế hoạch hóa
Các môn khoa học quản lý đã định nghĩa: Quản lý lá sự tác động của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm hướng đối tượng quản lý đi theo
một mục tiêu định sẵn. Quá trình quản lý có thể mô tả sơ lược bằng quy trình
kín sau đây:
Xác định mục tiêu Tổ chức Kiểm tra Điểu chỉnh Hạch
toán
Như vậy, Kế hoạch hóa nằm trong những chức năng cơ bản của quy
trình quản lý, là thể hiện ý đồ của chủ thể về sự phát triển trong tương lai của
đối tượng quản lý và các giải pháp để thực hiện. Nó xác định xem một quá
trình phải làm gì? Làm thế nào? Khi nào làm? Và ai sẽ làm?
Kế hoạch hóa vĩ mô nền kinh tế quốc dân là phương thức quản lý nền
kinh tế của nhà nước theo mục tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định
hướng phát triển kinh tế-xã hội phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất
định của một quốc gia và những giải pháp chính sách, những cân đối vĩ mô cần
thiết nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra một cách có hiệu qủa cao nhất. Một kế
hoạch toàn diện đặt ra những mục tiêu bao hàm tất cả mọi mặt trong nền kinh
tế quốc dân. Một kế hoạch từng phần sẽ đề cập đến một phần của nền kinh tế
quốc dân
Kế hoạch hóa không chỉ là lập kế hoạch mà còn là quá trình tổ chức,
thực hiện và theo dõi, đánh giá kết quả. Lập kế hoạch là lựa chọn một trong
những phương án hoạt động cho tương lai của toàn bộ hay từng bộ phận của
nền kinh tế. Còn tổ chức theo dõi và thực hiện được thể hiện bằng hệ thống các
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chính sách áp dụng trong thời kỳ kế hoạch xem như là những cam kết của
chính phủ đối với hệ thống kinh tế.
Bản chất là giống nhau nhưng vai trò của kê hoạch hóa thể hiện ở các
mức độ khác nhau trong hệ thống kinh tế thế giới.
2) Kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường

Đặc trưng cơ bản của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh
là tính chất đa thành phần kinh tế, sở hữu tư nhân dưới nhiều hình thức khác
nhau trong toàn bộ hệ thống kinh tế. Ở đây, thị trường chi phối các mặt hoạt
động của đời sống kinh tế-xã hội. Trong nền kinh tế thị trường này, kế hoạch
hóa thể hiện những cố gắng có ý thức của chính phủ để đạt được tăng trưởng
nhanh với mức việc làm cao và ổn định giá cả thông qua các chính sách tài
khóa và tiền tệ khác nhau của mình. Kế hoạch hóa giúp chính phủ ngăn chặn
được sự mất ổn định kinh tế trong khi vẫn đảm bảo kích thích tăng trưởng
nhanh. Những công cụ chính sách được sử dụng chủ yếu là công cụ trong lĩnh
vực tiền tệ, tài chính và các quan hệ ngoại thương. Các chính sách tăng chi tiêu
tài chính, điều chỉnh chi tiêu của chính phủ và tỷ lệ thuế được tăng cường đã
tạo việc làm nhiều hơn và thu nhập cao hơn cho dân cư. Lạm phát và giảm
phát được kiểm soát bằng chính sách tài chính, các cuốc điều chỉnh lãi suất hay
các nguyên tắc chỉ đạo về giá lương. Những biến động trong cán cân thanh
toán được xử lý bằng những điều chỉnh về thuế nhập khẩu, kiểm soát tỷ giá,
hạn ngạch thuế. Trong tất cả các phương pháp nói trên thì những công cụ của
chính sách là năng động và gián tịếp.
3) Kế hoạch hóa trong nền kinh tế mệnh lệnh
Thể hiện rõ nhất của cơ chế này là nền kinh tế Liên Xô cũ, những nền
kinh tế Xô Viết ở Đông Âu, kể cả Việt Nam trước cuộc cải cách kinh tế năm
1990. Ở các nước này cơ sở kinh tế để xây dựng và hoàn thiện là chế độ công
hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, Nhà Nước chuyên chính vô sản
không nhưng đóng vai trò điều hành chính trị mà còn khả năng điều tiết và
quản lý toàn diện, trực tiếp các vấn đề kinh tế. ở đây Chính Phủ đã thực hiện
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khống chế trực tiếp những hoạt động kinh tế thông qua quá trình đưa ra những
quyết định từ trung ương. Các mục tiêu cụ thể được định trước bởi các nhà kế
hoạch ở trung ương đã tạo nên cơ sở cho một nền kinh tế quốc dân toàn diện
và đầy đủ. Nguồn nhân lực vật lực chủ yếu và tài chính được phân phối không

phải theo giá thị trường và các điều kiện cung cầu mà phân phối theo nhu cầu
vật tư, lao động, vốn của kế hoạch tổng thể. Các nội dung trên khẳng định bản
chất kế hoạch hóa trong nền kinh tế mệnh lệnh là kế hoạch hóa trực tiếp.
4) Kế hoạch hóa phát triển trong khuôn khổ nền kinh tế hỗn hợp của
các nước thế giới thứ ba.
Đặc điểm của hầu hết các nền kinh tế này là sự tồn tại của một bối cảnh
thể chế trong đó một phần nguồn lực sản xuất do tư nhân sở hữu và điều hành
còn phần kia lại do nhà nước kiểm soát. Như vậy, có thể nhận biết hai thành
phần của kế hoạch hóa trong nền kinh tế hỗn hợp là:
- Kế hoạch hóa trực tiếp: Điều này thể hiện ở việc chính phủ sử dụng có
cân nhắc nguồn vốn trong và ngoài nước để thực hiện dự án đầu tư nhà nước
và để huy động, chuyển các nguồn lực khan hiếm vào các lĩnh vực có thể
mong đợi là đóng góp lớn nhất vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế lâu dài.
- Kế hoạch hóa gián tiếp:Chính phủ các nước đang phát triển đưa ra các
chính sách kinh tế để kích thích, hướng dẫn và trong một số truờng hợp còn
kiểm soát hoạt động kinh tế tư nhân nhằm đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa
nguyện vọng của doanh nghiệp tư nhân và mục tiêu chính phủ.
Như vậy kế hoạch hóa về mặt bản chất là giống nhau với mọi nền kinh
tế. Nhưng nội dung và hình thức biểu hiện là khác nhau trong các phương thức
sản xuất khác nhau. Cần phân biệt hai loại hình kế hoạch hóa sau đây:
- Thứ nhất: Kế hoạch hóa tâp trung. Đây là kế hoạch tập trung phân phối
nguồn lực bằng hệ thống các quyết định của các cấp lãnh đạo, nó thể hiện ở
tính chất pháp lệnh, tính hiện vật và tính cấp phát-giao nộp trong hệ thống chỉ
tiêu và chỉ đạo công tác kế hoạch.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Thứ hai: Kế hoạch hóa phát triển.Đây là sự tác động của chính phủ
vào nền kinh tế vĩ mô thông qua việc thiết lập một cách chủ động mối quan hệ
khả năng với mục đích nhằm đạt đuợc các mục tiêu đặt ra bằng việc sư dụng
hiệu quả nguồn tiềm năng hiện có. Kế hoạch phát triển được xem là công nghệ

của sự lựa chọn các hoạt động hợp lý và tối ưu. Trong đó chủ yếu là:
- Lựa chọn, sắp xếp nguồn lực khan hiếm.
- Đưa ra các định hướng phát triển.
- Xác định các cơ chế chính sách điều tiết vĩ mô.
Sự khác nhau cơ bản giữa kế hoạch hóa tập trung và kế hoạch hóa phát
triển thể hiện: Một bên là tính cưỡng chế còn bên kia là tính thuyết phục. Với
kế hoạch phát triển việc đặt ra kế hoạch nhằm xác định những mục tiêu chiến
luợc có liên quan trực tiếp đến sự phát triển trong tương lai của nền kinh tế đất
nước, mục tiêu của kế hoạch hóa phát triển chỉ là cố gắng ngăn chặn để cho
nền kinh tế khỏi đi lạc với mục tiêu tăng trưởng ổn định bằng những công cụ
chính sách năng động và gián tiếp thì kế họach hóa tập trung không chỉ tạo ra
một loạt các mục tiêu cụ thể thể hiện quá trình phát triển kinh tế mong muốn
mà còn cố gắng thực hiện kế hoạch của mình bằng việc khống chế trực tiếp
những hoạt động trực tiếp của toàn bộ nền kinh tế.
Ở Việt Nam hiện nay đang hướng tới việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống kế hoạch phát triển. Tuy vậy, xuất phát từ tính chất quá độ của một nền
kinh tế hỗn hợp nên trong nội dung của kế hoạch phát triển ở nước ta vẫn còn
bao hàm dung lượng nhất định của kế hoạch hóa tập trung. Trên một mức độ
nhất định tính chất pháp lệnh, tính chất phân bổ trực tiếp, khống chế cụ thể vẫn
tồn tại. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, dung lượng các
vấn để trên sẽ giảm trong công tác kế hoạch hóa Việt Nam. Đó cũng chính là
những yêu cầu đổi mới của công tác kế hoạch hóa.
II) Sự cần thiết của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
1) Sự cần thiết của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
1.1) Sự thất bại của thị trường
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vào những thập niên 70-80, hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung của
nhiều nước đang phát triển có xu thế rơi vào giai đoạng khủng hoảng. Trước
tình hình đó các nhá kịnh tế học phương tây bắt đầu công khai sử dụng cơ chế

thị trường như một công cụ chủ yếu để nâng cao hiệu quả và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Lý luận và thực tiễn đã đưa ra những kết luận khách quan về
những ưu thế và thất bại của thị trường.
Những thất bại sau đây là lý do tồn tại của kế hoạch hóa
- Những quyết định của thị trường không đem lại những kết quả tốt
nhất khi có những khác nhau trong khả năng sinh lợi của xã hội và tư nhân.
Trên thực tế khả năng sinh lợi của xã hội có thể nâng cao hơn hoặc thấp hơn
khả năng sinh lời tư nhân do tác động của ngoại ứng.
- Sự tồn tại độc quyền và phát triển mạnh của độc quyền trong nền kinh
tế phát triển. Một nhà độc quyền sẽ sản xuất ít hơn và đặt giá cao hơn các
doanh nghiệp cạnh tranh.
- Thị trường tự do không đem lại mức tiết kiệm cao như xã hội mong
muốn. Những thị trường hàng hóa và thị trường các yếu tố sản xuất được tổ
chức sơ sài và sự tồn tại của giá cả bị xuyên tạc làm người sản xuất và người
tiêu dùng thiếu những thông tin cần thiết để hành động sao cho sản xuất và
phân phối có hiệu quả.
- Thất bại của thị trường trong việc đặt giá cho các nhân tố sản xuất dẫn
đến những chênh lệch lớn trong việc đánh giá của xã hội và tư nhân đối với các
dự án đầu tư.
Do đó nếu không có sự can thiệp của Chính Phủ thì thị trường bị xem là
dẫn đến sự phân phối sai lầm những nguồn lực hiện tại và tương lai, hoặc là
dẫn đến một cái gì đó không phù hợp với lợi ích xã hội lâu dài.
Như vậy sự tồn tại các khuyết tật thị trường đã đặt ra yêu cầu phải có sự
can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Nhưng không phải tất cả sự can thiệp
nào của chính phủ cũng giải quyết và khắc phục được các khuyết tất của thị
trường. Vì vậy muốn bảo đảm tính hiệu qủa và tránh các hậu quả phụ của sự
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
can thiệp Chính Phủ, điều quan trọng là phải có sự tổ chức tốt sự can thịệp của
mình. Đó chính là kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường.

1.2) Huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm
Nguồn lực của nền kinh tế rất hạn chế, người ta không thể phí phạm
những nguồn nhân lực lành nghề và nguồn tài chính hạn chế vào đầu tư sản
xuất phi hiệu quả. Do đó dự án đầu tư phải được lựa chọn không những trên cơ
sở phân tích năng xuất từng phần, mà còn tùy theo bối cảnh của một chương
trình phát triển tổng thể và những mục tiêu lâu dài. Kế hoạch hóa là phương
thức thích hợp để lựa chọn và phối hợp những dự án đẩu tư nhằm chuyển
những nhân tố khan hiếm vào các lĩnh vực sản xuất có hiệu quả nhất.
Thị trường cạnh tranh tự do có xu hướng hạn chế đầu tư, chuyển đầu tư
nhiều hơn sang lĩnh vực xã hội ít mong muốn, không tính đến những lợi nhuận
phụ thêm có được từ một chương trình đầu tư dài hạn đã được điều phối có kế
hoạch.
1.3) Thái độ, tâm lý của dân cư
Sự công bố cụ thể về những mục tiêu xã hội và kinh tế quốc gia dưới
dạng một kế hoạch phát triển cụ thể có những ảnh hưởng quan trọng về thái độ
hay tâm lý đối với dân cư.
Khi chính phủ có được những bản kế hoạch khả thi và hợp lý, sẽ động
viên tốt hơn sự quan tâm và tham gia của các bộ phận khác nhau trong xã hội
vào việc thực hiện mục tiêu chung của toàn nền kinh tế, nó có thể tập hợp dân
chúng đằng sau chính phủ để tiến hành những chương trình quốc gia lớn. Bằng
sự ủng hộ của quần chúng, Chính Phủ thông qua kế hoạch hóa huy động được
tổng hợp nguồn lực của xã hội, yêu cầu mọi công dân cùng nhau làm việc để
xây dựng đất nước.
Kế hoạch kinh tế được coi là công cụ tốt nhất để đảm bảo động lực cần
thiết vượt qua những lực cản của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa truyền thống
trước một yêu cầu chung đòi hỏi tiến bộ xã hội và cuộc sống ấm no cho mọi
người.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.4) Viện trợ và thu hút đầu tư nước ngoài

Muốn huy động được vốn viện trợ nước ngoài, kể cả song phương và đa
phương một cách có kết quả, chính phủ các nước thường phải có những kế
hoạch phát triển rõ ràng với những mục tiêu cụ thể và những dự án đầu tư được
xây dựng theo những tịêu thức quy định.
Với những kế hoạch của mình, các nước nhận viện trợ có cơ sở tốt hơn
để thuyết phục những nhà tài trợ rằng số tiền vốn họ vay sẽ được sử dụng một
cách có mục đích trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân.
Trong một chừng mực nhất định việc mô tả dự án tỷ mỉ và cụ thể trong
khuôn khổ một kế hoạch phát triển toàn diện càng nhiều bao nhiêu thì mong
muốn của các nước đang phát triển về việc tìm kiếm viện trợ nước ngoài bằng
mọi giá cũng nhiều bấy nhiêu.
2)Vai trò và chức năng của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
Kế hoạch hoá phát triển là kế hoạch ở tầm vĩ mô, kế hoạch mang tính
hướng dẫn và thể hiện dứới dạng các chính sách phát triển. Một kế hoạch như
vậy sẽ phải thực hiện được các chức năng cơ bản sau đây:
2.1) Chức năng điều tiết, phối hợp, ổn định kinh tế vĩ mô
Trên phương diện kinh tế vĩ mô, hoạt động kế hoạch hóa phải hướng tới
mục tiêu chính: Ổn định giá, bảo đảm công ăn việc làm, tăng trưởng và cân đối
cán cân thanh toán quốc tế. Các mục tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau,
sự thiên lệnh hay quá nhấn mạnh vào mục tiêu nào sẽ ảnh hưởng xấu đến việc
đạt được mục tiêu khác và cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến cân bằng tổng thể kinh
tế. Chức năng này của kế hoạch hóa thể hiện ở:
- Hoạch định kế hoạch chung tổng thể của nền kinh tế, đưa ra và thực thi
các chính sách cần thiết bảo đảm các cân đối kinh tế nhằm sử dụng tổng hợp
nguồn lực, phát huy hiệu quả tổng thể kinh tế-xã hội, thúc đẩy tăng trưởng
nhanh theo phương thức thống nhất, bảo đảm tính chất xã hội của các hoạt
động kinh tế.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Bảo đảm mồi trường kinh tế ổn định và cân đối. Tạo những điều kiện

thuận lợi về cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, xã hội, bảo vệ môi trường, tạo tiền
đề hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế lành mạnh.
- Bảo đảm sự công bằng xã hội giữa các vùng, các tầng lớp dân cư bằng
kế hoạch sử dụng ngân sách và các chính sách điều tiết.
- Kế hoạch hóa còn thể hiện chức năng điều tiết nền kinh tế phù hợp với
xu thế hội nhập, toàn cầu hóa ngày càng tăng. Để thực hiện chức năng này
KHH phải xây dựng những chính sách chuyển giao công nghệ thuận lợi tìm ra
được hướng “đi tắt đón đầu” giúp cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao,
rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến khác
2.2) Định hướng phát triển kinh tế-xã hội
Đây là chức năng thể hiện bản chất của kế hoạch trong nền kinh tế thị
trường và chính nó không làm cho công tác kế hoạch hóa không bị lu mờ trong
cơ chế thị trường. Chức năng này thể hiện ở:
- Công tác kế hoạch hóa phải xây dựng được các chiến lược và quy
hoạch phát triển toàn bộ nền kinh tế cũng như quy hoạch phát triển theo
nghành, vùng lãnh thổ, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn. Kế hoạch đưa ra
hệ thống mục tiêu phát triền vĩ mô về kinh tế-xã hội, xây dựng các dự án, các
chương trình, tìm các giải pháp và phương án thực hiện, dự báo khả năng,
phương hướng phát triển, xác định các cân đối lớn…nhằm thực hiện chức năng
dẫn dắt, định hướng phát triển, xử lý kịp thời các mất cân đối xuất hiện trong
nền kinh tế thị trường.
- Chức năng định hướng còn thể hiện ở việc chuyển từ cơ chế kế hoạch
hóa tâp trung theo phương thức” giao nhận” với hệ thống chằng chịt các chỉ
tiêu pháp lệnh của Nhà Nước sang cơ chế kế hoạch hóa gián tiếp, định hướng
phát triển. Các chỉ tiêu mà Nhà Nước cần giám sát và quản lý chủ yếu là những
giá trị ở tầm vĩ mô và tất nhiên nó mang tình định hướng, không cứng nhắc và
không áp đặt.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.3) Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế-xã hội

Nội dung chủ yếu của chức năng này bao gồm việc: Chính Phủ thông
qua các cơ quan chức năng thường xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện
các tiến độ kế hoạch, thực hiện và tuân thủ các cơ chế, thể chế, chính sách hiện
hành áp dụng trong thời kỳ kế hoạch. Đánh giá kết quả của việc thực hiện các
chính sách, các mục tiêu đặt ra. Phân tích hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế-
xã hội bảo đảm các luận cứ quan trọng cho việc xây dựng các kế hoạch của
thời kỳ tiếp sau.
III) Sự khác biệt giữa kế hoạch hóa tập trung và kế hoạch hóa
trong cơ chế thị trường
Vai trò và chức năng của hệ thống kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
được thể hiện rõ hơn khi so sánh với hệ thống kế hoạch trong nên kinh tế tập
trung
Cơ chế KHH tập trung Cơ chế thị trường
- KH mang tính chủ quan duy ý
chí: xuất phát từ ý muốn chủ quan
của nhà nước, không căn cứ vào
tiềm lực thực tế và không gắn với
nhu cầu thực sự của nền KTQD
- KH gắn với thị trường: định hướng sự
phát triển dựa trên cơ sở đánh giá đúng
thực trạng (khả thi), nhận thức được qui
luật (khoa học), nắm bắt được nhu cầu
(thực tiễn), vì thế kế hoạch vững chắc
hơn
KH thay thế cho thị trường, vì sự
tồn tại của thị trường sẽ phá vỡ
những cân đối cứng mà KH đã đề
ra.
- KH bổ sung hỗ trợ cho thị trường: thị
trường chỉ giải quyết vấn đề ngắn hạn,

riêng lẻ, vì lợi ích cục bộ. KH có cái nhìn
dài hạn, mang tính đón bắt, vì lợi ích
chung, toàn cục.
- KH mang tính mệnh lệnh: giao - KH mang tính định hướng: Hoạt động
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chỉ tiêu và cấp phát nguồn lực,
đồng thời chỉ định cả địa chỉ tiêu
thụ.
như bộ khung làm cơ sở để hoạch định
các chính sách đòn bẩy và các biện pháp
gián tiếp để thực hiện định hướng
- KH thiếu tính linh hoạt: vì là
pháp lệnh nên mang tính cứng
nhắc, mọi sự điều chỉnh KH chỉ là
hình thức.
- KH mang tính linh hoạt. Khi các điều
kiện thị trường thay đổi thì KH cũng sẽ
có sự điều chỉnh theo.
Phần II) Sự cần thiết phải đổi mới công tác kế hoạch hóa ở
Việt Nam
Quá trình hơn 50 năm kế hoạch hóa ở nước ta có thể chia thành 2 thời
kỳ lớn:
Thời kỳ đầu từ 1955-1985 là thời kỳ áp dụng cơ chế kế hoạch hóa pháp
lệnh (cũng còn gọi là cơ chế kế hoạch hóa tập trung). Trong đó, từ:1955-1975
áp dụng cho miền Bắc và từ 1975-1985 mở rộng ra cả nước. Trong những năm
cuối của thời kỳ này, cũng đã có một số đổi mới, nhưng về cơ bản, vẫn là kế
hoạch hóa pháp lệnh. Phải đến thời kỳ từ năm 1986 đến nay, sau đại hội lần
thứ VI của Đảng khẳng định đường lối đổi mới, công tác kế hoạch hóa mới
thực sự được từng bước đổi mới theo cơ chế thị trường

I) Cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam
Trong thời kỳ 1955 đến 1985 Cơ chế kế hoạch hóa pháp lệnh đã quán
triệt đường lối cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế với ý nghĩa kế hoạch là
cương lĩnh thứ hai của Đảng. Nó có những đặc điểm sau:
- Kế hoạch hóa phân bổ nguồn lực phát triển cho các mục tiêu đối với
hai thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể.
- Cơ chế kế hoạch hóa tâp trung theo phương thức “giao-nhận” với hệ
thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà Nướ, giao đến tận các cơ sở
kinh doanh theo cách bao cấp cả “đầu vào” lẫn “đầu ra” trong quá trình sản
xuất kinh doanh.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cơ chế kế hoạch hóa mang nặng tính chất hiện vật và mang nặng tính
khép kín trong từng ngành, từng vùng lãnh thổ.
Với cơ chế này, chúng ta đã thực hiện thành công các mục tiêu khôi
phục, cải tạo và phát triển kinh tế xã hội sau 1954, thực hiện có kết qủa mục
tiêu phát triển kinh tế và kháng chiến chống Mỹ dành thắng lợi mùa xuân năm
1975, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Tuy vậy, sau năm 1975, tình hình kinh tế-xã hội của đất nước có nhiều
thay đổi. Chính từ yêu cầu của vấn đề sản xuất, đời sống và hiệu quả kinh tế đã
nảy sinh những dấu hiệu đổi mới của công tác kế hoạch hóa vào những năm
đầu thập niên 80.
II) Đổi mới cơ chế kinh tế ở Việt Nam
1) Đường lối đổi mới kinh tế
Nhận thức những mặt hạn chế của cơ chế cũ Đại hội đảng lần thứ VI
(12-1986) đã xác định đường lối đổi mới kinh tế với nội dung cơ bản: phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà Nước quản lý
nền kinh tế nhằm định hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường
và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế, đảm bảo sự hài hòa giữa phát

triển kinh tế và phát triển xã hội.
Công tác kế hoạch hóa trong nền kinh tế chuyển đổi như vậy không thể
là kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh mà nó phải được chuyển đổi sang một mô
hình mới với những nét đặc trưng sau đây:
- Một là chuyền từ cơ chế kế hoạch hóa phân bổ nguồn lực sang cơ chế
kế hoạch hóa khai thác nguồn lực phát triển và định hướng sử dụng các nguồn
lực đó theo mục tiêu đối với tất cả thành phần kinh tế.
- Chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa pháp lệnh, trực tiếp sang cơ chế, chính
sách phù hợp và khuyến khích nhằm đạt được mục tiêu.
- Chuyển từ kế hoạch hóa mang tính khép kín trong từng ngành, vùng,
lãnh thổ sang cơ chế kế hoạch hóa theo chương trình mục tiêu với sự kết hợp
12

×