Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX vùng đồng bằng Sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.19 KB, 74 trang )

Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
LỜI NÓI ĐẦU
I. Sự cần thiết của đề tài.
Phát triển kinh tế hợp tác và HTX là đòi hỏi khách quan cũng như yêu cầu
chủ quan của mỗi hộ nông dân trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. HTX là
một loại hình tổ chức kinh tế đã tồn tại và phát triển ở hầu hết các nước trên thế
giới. Tại nhiều nước phong trào HTX phát triển rất mạnh, đã có những đóng góp
đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước và góp phần đắc lực vào sự ổn định
và công bằng xã hội.
ở nước ta, theo chủ trương của Đảng, từ những năm 1950 HTX đã hình thành
và phát triển mạnh trong những năm 1960 – 1962 ở miền Bắc; từ năm 1975 đến
1985 ở miền Nam. Phong trào Hợp tác hóa đã phát triển rộng khắp trong các
ngành kinh tế quốc dân, trong đó HTX nông nghiệp nổi lên rõ nét nhất và góp
phần tích cực giải phóng sức sản xuất, tạo công ăn việc làm, đặc biệt đã góp sức
người, sức của làm nên thắng lợi to lớn công cuộc chống Mỹ cứu nước. ở giai
đoạn phát triển cao của phong trào ( 1987- 1988 ), vùng đồng bằng Sông Hồng
đã thu hút trên 99% số hộ nông dân tham gia HTX.
Do chịu sự tác động của cơ chế tập trung, bao cấp và những nguyên tắc quản
lý không phù hợp, HTX nông nghiệp đã ngày càng bộc lộ hạn chế và không thể
phát triển được nh mong muốn. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế trong
nông nghiệp của Đảng và Nhà Nước; hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh
tế tự chủ, mô hình HTX cũ không còn phù hợp, đòi hỏi phải được đổi mới căn
bản để thích ứng với cơ chế quản lý mới.
Công cuộc đổi mới kinh tế đã mang lại những biến đổi cho nền kinh tế nông
nghiệp nh: kinh tế hộ phát triển, sức sản xuất được giải phóng, đời sống nông dân
được cải thiện. Bên cạnh những mặt đạt được đó là sự suy giảm của hệ thống
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
HTX nông nghiệp; do không đổi mới kịp thích ứng với cơ chế quản lý mới, ở
một số nơi trong vùng, HTX tồn tại chỉ còn là hình thức và chiếm khoảng 10% sè


HTX, thậm chí có nơi HTX tự giải thể. Sự suy giảm chất lượng HTX nông
nghiệp đã nảy sinh những khó khăn đối với quá trình sản xuất của kinh tế hộ
trong nền kinh tế thị trường, nhất là đối với những hộ nghèo, khó khăn.
Để kinh tế hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, việc đổi mới toàn diện
HTX nông nghệp là yêu cầu của thực tiễn khách quan, là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng đối với mô hình kinh tế XHCN cần xây dựng. Luật HTX ra đời ( 1/1/1997)
thể hiện cao nhất chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển HTX
trong nền kinh tế nhiều thành phần; khẳng định tầm quan trọng, vị trí, vai trò của
HTX nông nghiệp trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Việc chuyển đổi HTX cũ, thành lập HTX mới theo Luật HTX là vấn đề mới
và phức tạp. Trên thực tế mỗi địa phương có sự chuyển đổi khác nhau. Sau 5
năm thực hiện Luật HTX, về cơ bản HTX mới chỉ chuyển đổi về tổ chức, chưa
có sự chuyển biến rõ nét về nội dung hoạt động, đặc biệt hiệu quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh dịch vụ còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng phát triển kinh
tế trong thời gian qua. HTX chưa có sức cạnh tranh trên thị trường; lợi Ých mang
lại cho xã viên còn thấp, nhất là lợi Ých kinh tế tập thể.
Từ bối cảnh và thực trạng HTX nông nghiệp vùng đồng bằng Sông Hồng, để
giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc phát triển HTX thì việc nghiên
cứu đề tài ( Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
HTX vùng đồng bằng Sông Hồng ). Là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
II. Mục tiêu nghiên cứu.
1. Mục tiêu chung.
Nghiên cứu, phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của HTX nông
nghiệp; đánh giá, rót ra những mặt đạt được, mặt tồn tại, vướng mắc, khó khăn,
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở đó, làm rõ quan điểm, đề xuất
định hướng và giải pháp nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của
HTX nông nghiệp trong vùng.
2. Mục tiêu cụ thể.

Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về hình thức tổ chức và hoạt
động của HTX nông nghiệp vùng đồng bằng Sông Hồng.
Đánh giá thực trạng hoạt động của HTX nông nghiệp hiện nay, rót ra những
mặt được, mặt tồn tại, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.
Đề xuất định hướng và giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
của HTX nông nghiệp.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu kết cấu của đề tài.
1. Đối tượng nghiên cứu: Là các HTX nông nghiệp, bao gồm HTX
chuyển đổi theo Luật và HTX thành lập mới; mô hình HTX dịch vụ, HTX
kết hợp sản xuất, kinh doanh với dịch vụ.
2. Phạm vi nghiên cứu: Vùng đồng bằng Sông Hồng.
2.1. Phạm vi đề tài: Đề tài chỉ tập trung phân tích tình hình HTX
nông nghiệp, đặc biệt từ khi có Luật HTX đến nay.
2.2. Bố cục đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị đề tài
gồm 3 phần:
Phần I – Cơ sở khoa học của việc đổi mới và phát triển các HTX trong nông
nghiệp vùng đồng bằng Sông Hồng.
Phần II – Thực trạng tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp vùng đồng
bằng Sông Hồng.
Phần III – Phương hướng và một số giải pháp phát triển và nâng cao hiệu
quả hoạt động của HTX nông nghiệp vùng đồng bằng Sông Hồng.
Phần IV – Kết luận.
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
2.3. Phương pháp nghiên cứu.
2.3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu thu thập số liệu.
Qua nghiên cứu và thu thập số liệu ở 12 HTX của một số tỉnh trong vùng,
bao gồm:
- Hải dương - Thái Bình - Hà Tây
- Hải Phòng - Nam Định - Ninh Bình

Các tỉnh đồng bằng Sông Hồng có một dặc điểm chung:
- Trên 80% dân số sống bằng nghề nông, trong đó canh tác lúa nước là cây
trồng chính, nông dân cần cù lao động và kỹ thuật thâm canh cao. Thu nhập và
đời sống của nông dân dựa vào sản xuất nông nghiệp;
- Bình quân diện tích đất nông nghiệp cho hộ, khẩu rất thấp, khoảng 4000 –
4200 m2/hộ, nền kinh tế về cơ bản vẫn thuần nông tự cung, tự cấp, sản xuất hàng
hóa chưa phát triển;
- Do dặc điểm điều kiện tự nhiên, nông dân đồng bằng Sông Hồng có tinh
thần hợp tác và xây dựng HTX khá sớm, đã xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
dùng chung khá hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ thống thủy lợi, điện, giao thông nông
thôn và cơ sở vật chất khác phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân. Vì vậy,
phong trào HTX chung cả nước, nơi này, nơi khác có suy giảm, thậm chí có nơi
tan vì, song ở đồng bằng Sông Hồng phong trào HTX vẫn được giữ vững và phát
huy tác dụng cả về kinh tế và xã hội.
Tuy nhiên dưới tác động của cơ chế thị trường, quá trình đô thị hóa, cũng như
công tác chỉ đạo đã tác động không nhỏ đến hình thức tổ chức và hoạt động của
HTX, cụ thể:
- Tỉnh Hải Hưng nay là tỉnh Hưng Yên và Hải Dương và một số địa phương
của Hà Nội, Hà Tây, chủ trương đình chỉ hoạt động HTX cũ xây dựng HTX mới,
hình thành những HTX chuyên khâu
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
- Thành phố Hà Nội, Hải Phòng tốc độ đô thị hóa nhanh, nhu cầu nông sản
hàng hóa lớn và đa dạng, chất lượng, đồng thời do nhu cầu phát triển kinh tế hộ
đã hình thành HTX mới để bổ trợ nông dân sản xuất sản phẩm đáp ứng yêu cầu
thị trường.
Những đặc điểm trên là đặc thù chi phối đến hình thức tổ chức và mô hình
hoạt động của HTX nông nghiệp của vùng.
2.3.2. Thu thập thông tin.
a. Thu thập tình hình, số liệu về HTX đã công bố.

- Tình hình HTX nông nghiệp vùng đồng bằng Sông Hồng từ các cơ quan
TW
- Các công trình, báo cáo khoa học về HTX nông nghiệp
- Các tài liệu khác
b. Thu thập số liệu mới.
- Khảo sát và báo cáo hàng năm của một HTX trên các mặt
+ Tổ chức Hợp tác xã bao gồm:
Xã viên HTX, vốn góp xã viên
Tổ chức bộ máy quản lý và tổ đội sản xuất, dịch vụ
Vốn quỹ của HTX
+ Hoạt động của HTX
Các hoạt động sản xuất
Các hoạt động kinh doanh dịch vụ bao gồm: dịch vụ đầu vào, đầu ra
Các hoạt động khác
+ Phân phối lãi và sử lý lỗ trong HTX
- Phỏng vấn, tọa đàm đối với cán bộ quản lý nhà nước và HTX tập trung
vào các nộ dung
+ Việc thực hiện Luật HTX ở địa phương và của HTX
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
+ Hình thức tổ chức và hoạt động của HTX
+ Đánh giá chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với phát triển HTX
nông nghiệp, sự tác động của các chính sách, những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung
+ Những nhân tố tác động và nâng cao hiệu quả joạt động của HTX nông
nghiệp
+ Phương hướng và sự lựa chọn mô hình hoạt động của HTX ở địa phương
+ Thảo luận, hội thảo
+ Những kết quả HTX đạt được trong thời gian qua
+ Những tồn tại và khó khăn
+ Những giải pháp thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX nông

nghiệp trong vùng
c. Các chỉ tiêu tính toán.
- Chỉ tiêu quy mô HTX: gồm chỉ tiêu hộ xã viên, quy mô đất đai hộ xã viên,
vốn của HTX
- Chỉ tiêu bộ may gồm: số lượng cán bộ quản lý, số lượng cán bộ chuyên
môn, trình độ văn hóa, chuyên môn; sơ đồ về tổ chức bộ máy quản lý; hệ thống
tổ chức đội, tổ;
- Các chỉ tiêu về kết quả hoạt động gồm: mức độ đáp ứng các dịch vụcho hộ
xã viên; doanh thu dịch vụ, sản xuất kinh doanh; lãi, lỗ của các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ;
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
PHẦN I – CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN
CÁC HTX TRONG NÔNG NGHIỆP VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG
HỒNG.
I. HTX nông nghiệp và vai trò của HTX nông nghiệp trong hệ thống
nông nghiệp Việt Nam.
1. Khái niệm HTX .
Theo Điều 1 của Luật HTX ( tháng 03/1996 ) thì HTX được định nghĩa như
sau: HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi Ých
chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập gia theo quy định của pháp luật để
phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có
hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống,
góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
2. Đặc trưng, nghĩa vụ và nguyên tắc tổ chức HTX nông nghiệp.
2.1. Đặc trưng của HTX nông nghiệp.
Tính chất tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi của nông dân giúp đỡ lẫn
nhau phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. Tự chủ trong sản xuất kinh doanh,
có tư cách pháp nhân, bình đẳng trước pháp luật. Quan hệ giữa kinh tế hộ và
HTX nông nghiệp là mối quan hệ gắn bó bổ sung cho nhau cùng phát triển. Việc

sản xuất hàng hóa nông sản và dịch vụ của HTX còng nh của nông hộ được tiến
hành theo yêu cầu của thị trường xã hội.
2.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX.
Điều 7 Luật HTX quy định 5 nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX,
đó là: Tự nguyện gia nhập và ra khái HTX. Tất cả nông dân và những người lao
động có đủ điều kiện theo quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTX nông
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
nghiệp, đều có thể trở thành xã viên HTX nông nghiệp. Xã viên có quyền ra khái
HTX theo quy định chung và điều lệ của từng HTX nông nghiệp.
Quản lý dân chủ và bình đẳng: Xã viên HTX nông nghiệp có quyền tham
gia quản lý, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của HTX và có quyền ngang nhau
trong biểu quyết.
Tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX nông nghiệp tự chịu trách nhiệm
về kết quả hoạt động dịch vụ và sản xuất kinh doanh, tự quyết định về phân phối
thu nhập, bảo đảm HTX và xã viên cùng có lợi.
Việc chia lãi phải bảo đảm kết hợp lợi Ých của xã viên và sự phát triển của
HTX: sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi được trích một phần để đưa
vào các quỹ của HTX, phần còn lại chia cho xã viên theo vốn góp, công sức
đóng góp, theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX và do Đại hội xã viên quyết
định.
HTX và phát triển cộng đồng: Xã viên phải phát huy và nâng cao ý thức
hợp tác trong HTX và trong cộng đồng xã hội, hợp tác giữa các HTX trong nước
và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của HTX nông nghiệp.
* Quyền của HTX nông nghiệp.
Căn cứ vào Luật HTX, Nghị định của Chính phủ tại Điều 4 củ thể hóa
thành 12 quyền của HTX nông nghiệp, HTX nông nghiệp có quyền tự chủ kinh
doanh và tổ chức quản lý các hoạt động của mình như các loại hình doanh nghiệp
khác, cụ thể:

Lựa chọn hoạt động dịch vụ, sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực
nông,lâm, thủy sản và các nghành nghề sản xuất kinh doanh, dịch vụ khác theo
nhu cầu lợi Ých của xã viên và khả năng của từng HTX nông nghiệp.
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
Quyết định hình thức và cơ cấu tổ chức dịch vụ, sản xuất kinh doanh của HTX
nông nghiệp.
Xuất khẩu, nhập khẩu, liên doanh liên kết với các tổ chức cá nhân ở
trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Thuê lao động trong trường hợp xã viên không đáp ứng được yêu cầu
dịch vụ sản xuất kinh doanh của HTX theo quy định chung của pháp luật.
Quyết định kết nạp xã viên mới, giải quyết việc xã viên ra HTX, khai trừ
xã viên theo điều lệ của từng HTX nông nghiệp.
Quyết định việc phân phối thu nhập, xử lý các khoản lỗ của HTX.
Ngoài ra, HTX còn các quyền khác theo Luật HTX và các quyền liên quan theo
quy định của pháp luật.
* Nghĩa vụ của HTX.
Điều quan trọng nhất là HTX phải hoạt động theo pháp luật và chịu trách
nhiệm về các khoản công nợ và các nghĩa vụ khác bằng toàn bộ tài sản vốn liếng
thuộc sở hữu của mình; thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đối với xã viên, bảo
đảm các quyền của xã viên, chăm lo giáo dục, cung cấp thông tin để mọi xã viên
tích cực tham gia xây dựng HTX nông nghiệp. Tại điều 5 Nghị định số 43/CP
ngày 29/03/1997 đã xác lập cụ thể về nghĩa vụ của HTX nh sau:
HTX phải hoạt động đúng ngành nghề đăng ký kinh doanh.
Thực hiện đúng chế độ kế toán thống kê, chế độ kiểm toán của Nhà
nước, chịu sự kiểm tra, thanh tra của các cơ quan chức năng theo Luật quy định.
Nộp thuế và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo Luật định.
Bảo đảm các quyền của xã viên và thực hiện các cam kết kinh tế đối với
xã viên.
Thực hiện các nghĩa vụ đối với các hoạt động trực tiếp hay thuê

Ngoài ra phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ khác theo Luật.
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
3. Vai trò của HTX nông nghiệp trong hệ thống nông nghiệp Việt
Nam.
Quá trình diễn biến và thực trạng phong trào hợp tác hóa của đất nước ta
trên 40 năm qua đã trải qua những bước thăng trầm khác nhau và để lại những
kết quả tuy còn khiêm tốn nhưng cũng đã khái quát được vai trò của HTX nông
nghiệp trong nông thôn nước ta.
Trước hết, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đã góp phần quan trọng
trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp nông thôn đặc biệt
là khai hoang, phục hóa xây dựng thủy lợi, cải tạo đồng ruộng.
Sản xuất trong các HTX nông nghiệp tuy có thăng trầm qua các giai đoạn
nhưng nhìn tổng thể cả hai thời kỳ lớn ( 1958 – 1980 và 1981 đến nay ) nền nông
nghiệp đã đạt được những bước phát triển nhất định: sản lượng lương thực tăng
do thâm canh tăng vụ, khai hoang phục hóa, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
Đặc biệt HTX nông nghiệp đã đóng góp quan trọng sức người sức của cho
sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chế độ phân phối bình
quân bao cấp ở thời điểm cụ thể cần thiết của HTX trong thời chiến đã tạo ra sự
ổn định trong nông thôn.
Cùng với sự phát triển của các HTX, bộ mặt nông thôncó những tiến bộ
mới. Cơ sở hạ tầng được nâng cấp, phục hồi, xây dựng mới.
Hình thành một đội ngũ cán bộ cơ sở. Một bộ phận của đội ngũ này sẽ là
những hạt nhân gánh vác trách nhiệm đổi mới HTX sau này.
Trong giai đoạn hiện nay, HTX nông nghiệp có hai vai trò cụ thể là: HTX
nông nghiệp là con đường đưa nông nhân đến giàu có văn minh;
Mô hình HTX cũ đã kìm hãm kinh tế nông nghiệp nông thôn. Việc giải
phống tình trạng đó bắt đầu từ Chỉ thị 100 ( 1981 ) và Nghị quyết 10 ( 1988 ) đã
soi sáng, đưa nông dân trở thành người chủ mới. Sức sản xuất được giải phóng,
Chuyên đề thực tập Khoa

KTNN&PTNT
hình thức tổ chức sản xuất được cải thiện có hiệu quả, mở đường đưa nông dân
đến giàu có, văn minh. Thực tế ở nước ta, HTX đang làm nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh tùy theo điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội từng vùng, từng địa phương, nông
dân với nhiều trình độ khác nhau nên các hình thức tổ chức HTX còng phong
phú và hình thức xã hội hóa lực lượng sản xuất chính là các HTX. HTX nông
nghiệp có vai trò quan trọng như vậy, nên xuất phát từ lợi Ých của chính mình,
nông dân sẽ tự nguyện, cùng với sự phát huy về vốn, đào tạo từ phía nhà Nước sẽ
phát huy tính tích cực của người nông dân và HTX hỗ trợ nông dân tăng trưởng
kinh tế, tăng thu nhập, nhất là trong tình trạng hiện nay, nông dân đang trong mơi
trường sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường. Vì các lý do trên HTX có khả
năng hỗ trợ nông dân như lo dịch vụ đầu vào, dịch vụ đầu ra, công nghệ sinh
học, bảo vệ thực vật là điều được thị trường trong và ngoài nước đảm bảo góp
phần cải thiện và không ngừng nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn.
HTX nông nghiệp giúp nông dân giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế thị
trường trong đó có sự cạnh tranh quyết liệt không chỉ có ưu điểm mà còn có
nhiều khuyết tật mà xã hội phải đương dầu và nông dân Ýt nhiều cũng chịu ảnh
hưởng. Sự phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng lên đòi hỏi các hiệp hội phải
dứng ra giải quyết, giúp đỡ. Tùy theo các điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân mà
mỗi HTX có hình thức phù hợp như cho vay vốn hoặc đứng ra bảo lãnh làm giúp
thủ tục vay vốn, hỗ trợ về kỹ thuật, mở rộng ngành nghề, tập huấn khuyến nông,
tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm và giúp xã viên vươn lên khỏi cuộc sống đói
nghèo.
4. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển HTX nông nghiệp
những năm qua.
Công cuộc hợp tác hóa ở miền Bắc được thực hiện ngay sau ngày giải
phóng, bắt đầu từ năm 1954 (trong nông nghiệp), đến năm 1960 được xác định là
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
“ cơ bản hoàn thành” theo tinh thần Nghị quyết của BCH TW 8 ( khóa II ) –

1958 và sau đó là nghị quyết TW 16 (khóa II) vào năm 1959 về mở rộng hợp tác
hóa ở miền Bắc để đến năm 1960 căn bản hoàn thành hợp tác hóa.
Nhờ có hợp tác hóa bộ mặt nông thôn miền Bắc đã có những đổi thay đáng kể và
đóng góp sức người sức của cho công cuộc giải phống miền Nam và thống nhất
đất nước.
Song mô hình tổ chức HTX kiểu tập thể hóa triệt để các loại tư liệu sản xuất
trong thời gian này tự nó chứa đựng những khuyết tật cơ bản, là nguyên nhân sâu
xa dẫn đến phát sinh những hạn chế, tiêu cực trong các HTX ngay từ giai đoạn
đầu, nhưng chúng ta lại cho rằng những tiêu cực Êy là do chế độ quản lý chưa
hoàn thiện, rằng chúng ta đã có chế độ sở hữu (công hữu) tiên tiến, chỉ cần hoàn
thiện chế độ quản lý thì sẽ phát huy tính ưu việt của mô hình HTX. Nhận rõ các
hạn chế đó, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành cuộc vận động cải tiến quản lý
HTX vòng một, vòng hai, vận động dân chủ áp dụng điều lệ mẫu HTX. Nội dung
các cuộc vận động đó được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng:
- NQ TW 12 khóa III tháng 2/1961 bàn về phướng phát triển HTX.
- Nghị quyết TW 5 khóa III 7/1962 về vận động xây dựng HTX theo tiêu
chuẩn 4 tốt.
- Nghị quyết 20 Bộ Chính trị tháng 2/1963 về vận động, cải tiến kỹ thuật
trong các HTX.
- Nghị quyết TW 8 tháng 4/1963 về đầu tư.
- Nghị quyết 179 của BCT tháng 3/1970 về vận động thi hành Điều lệ
HTX bậc cao và vận động về dân chủ trong HTX.
- Chỉ thị 208 của Ban bí thư.
- Nghị quyết 61 – CP, ngày 05/04/1967
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
Qua ba lần thực hiện cải tiến quản lý, những tiêu cực trong các HTX tuy có
giảm ở mức độ nhất định nhưng về cơ bản chưa khắc phục được. Bởi vì những
cuộc vận động Êy vẫn chưa thay đổi những nội dung cơ bản của mô hình HTX
cũ mà chỉ mang tính cải tiến chắp vá.

Sau năm 1975 chiến tranh kết thúc đất nước hoàn toàn được giải phóng,
chúng ta đã áp dụng máy móc mô hình HTX của miền Bắc vào miền Nam và
hình dung chủ nghĩa xã hội sẽ được hình thành trên cơ sở phát triển nhanh mô
hình HTX Êy. Nhưng thực tiễn nhiều năm qua cho thấy sự không thành công,
những bất cập của HTX mô hình cũ dần bộc lộ ra ngày càng rõ rệt làm cho các
HTX càng lúng túng khó khăn và suy giảm.
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (5/4/1988) ra đời đã giải quyết một cách
toàn diện và căn bản những mâu thuẫn, những vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Tính
cách mạng của nghị quyết 10 là thừa nhận sự tồn tại kinh tế hộ xã viên và chuyển
nông nhgiệp sang sản xuất hàng hóa, đa dạng hóa quan hệ sở hữu trong HTX,
thực hiện phân phối theo lao động và vốn góp HTX chuyển dần sang làm dịch
vụ cho hộ xã viên đã làm thay đổi căn bản về tổ chức quản lý HTX. Cụ thể là:
HTX nông nghiệp thực hiện hóa giá những tư liệu sản xuất mà HTX thấy sử
dụng chung ko có hiệu quả như công cụ, trâu bò, máy móc để bán lại cho xã
viên, giao khoán ruộng đất cho hộ sử dụng ổn định. Những nội dung đổi mới cơ
bản đó đã thực sự tác động mạnh mẽ đến nông dân xã viên, khuyến khích nông
dân phát huy cao tinh thần tự chủ trong sản xuất, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc
đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển đạt thành tích to lớn hơn 10 năm
qua; đồng thời cơ chế mới cũng tác động đến mô hình tổ chức quản lý của các
HTX nông nghiệp kiểu cũ làm cho một bộ phận HTX mạnh dạn đổi mới để thích
ứng với cơ chế mới và tiếp tục tồn tại, phát triển. Phần đông các HTX nông
nghiệp rơi vào tình trạng lúng túng, bất cập với cơ chế mới, đã chở thành hình
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
thức, không được xã viên ủng hộ, thậm chí một bộ phận lớn bị tan rã, nhất là các
tập đoàn sản xuất nông nghiệp (93% tan rã).
Tổng kết hơn 10 năm thực hiện đổi mới, Nhà nước ta đã chủ trương luật
pháp hóa những kết quả đạt được đối với HTX nhằm tạo khung pháp lý cho loại
hình tổ chức kinh tế HTX kiểu mới hoạt động, do vậy Luật HTX đã được ra đời
ngày 20/03/1996, Luật đã xác định rõ mô hình HTX kiểu mới và các nội dung

hoạt động của nó.
Từ đại hội Đảng VI đến nay Nhà nước đã có những chính sách đổi mới như:
Khẳng định phát triển ngành kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong các ngành
và trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế HTX được khẳng định
cùng với nền kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, dồng thời
thừa nhận sự tồn tại của kinh tế HTX phải đi đôi với sự phát triển đa dạng các
hình thức KTHT từ thấp đến cao, HTX là bộ phận nòng cốt của KTHT.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, KTHT với bộ phận nòng cốt là các HTX sản
xuất nông nghiệp được nhận thức lại và đổi mới trên cơ sở Nghị quyết 10 của Bộ
chính trị ngày 05/04/1988 về: Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp theo hướng:
“HTX, tập đoàn sản xuất (TĐSX) là tổ chức kinh tế tự nguyện của nông dân lập
ra dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự hướng dẫn, giúp đỡ của Nhà nước, hoạt động
theo nguyên tắc tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh,
có tư cách pháp nhân, bình đẳng trước pháp luật với các đơn vị kinh tế khác, có
trách nhiệm phát huy tính ưu việt của quan hệ sản xuất XHCN”. Trên tinh thần
đó, Đảng chủ trương phải tổ chức lại sản xuất trong các HTX nông nghiệp thành
kinh tế tự chủ, tự quản: điều chỉnh một bước quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý
giữa các HTX với các hộ xã viên; đổi mới quan hệ phân phối – xóa bỏ chế độ
phân phối theo công điểm, xác định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, được
khuyến khích làm giàu. Xác định kinh tế HTX có nhiều hình thức từ thấp đến
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
cao, mọi tổ chức sản xuất – kinh doanh do người lao động tự nguyện góp vốn,
góp sức, đựoc quản lý theo nguyên tắc dân chủ đều là HTX.
Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ V khóa VII ( 06/1993) về tiếp tục đổi mới
và phát triển kinh tế – xã hội nông thôn đã làm rõ thêm kinh tế HTX được đổi
trên cơ sở phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên. Kinh tế hộ xã viên với
tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ, được khuyến khích phát triển và phát huy cao độ
tính tự chủ, sáng tạo trong kinh tế HTX, Nghị quyết ghi: “Tiếp tục đổi mới các
HTX theo hướng phát huy hơn nữa tiềm năng to lớn và vị trí quan trọng lâu dài

của kinh tế hộ xã viên, đồng thời làm tốt công tác quy hoạch, hướng dẫn sản
xuất, phát triển kinh doanh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ mà từng
hộ xã viên không làm được hoặc không có hiệu quả, cùng với chính quyền địa
phương chăm lo sự nghiệp phúc lợi xã hội. Thực hiện đúng nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ, cùng có lợi trong tổ chức, quản lý và phát triển kinh tế HTX
nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm về các loại hình kinh tế mới xuất hiện để hướng
dẫn, giúp đỡ hoạt động có hiệu quả, thực sự vì lợi Ých của công dân, phát triển
đúng hướng”.
Cùng với nghị quyết TW 5, Luật Đất đai mới gia đời, trong đó khẳng định
việc nhà nước giao ruộng đất cho hộ nông dân sử dụng ổn định lâu dài không chỉ
tạo thêm động lực cho kinh tế hộ nông dân mà còn làm rõ định hướng đổi mới
HTX nông nghiệp và phát triển các hình thức KTHT mới ở nông thôn phù hợp
với trình độ phát triển của lược lượng sản xuất.
Đại hội giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã xác định: “KTHT với nhiều
hình thức phong phú và đa dạng từ thấp đến cao, phù hợp với nguyên tắc tự
nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ, kết hợp được sức mạnh của tập thể và sức
mạnh của hộ xã viên, làm cho KTHT trở thành một thành thành phần kinh tế
vững mạnh, cùng với kinh tế quốc doanh trở thành xương sống của nền kinh tế
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
quốc dân” (Nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
của Đảng, NXB Chính trị quốc gia – trang 11 và 45).
Có thể nói rằng quá trình đổi mới về tư duy và nhận thức đối với kinh tế tập
thể, kinh tế HTX và KTHT với nòng cốt là các HTX đều bắt nguồn từ tổng kết
thực tiễn, tôn trọng quy luật phát triển khách quann của sự vật vì lợi Ých thiết
thực của đông đảo nhân dân lao động nên đã đề ra định hướng đúng để đổi mới
kinh tế này phát triển theo hướng tất yếu của nó.
II. Kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của HTX nông nghiệp trên thế
giới.
Với sự phát triển của kinh tế nông trại, trong nông nghệp, nông thôn các

nước trong khu vực đã hình thành và phát triển các hình thức HTX, các hiệp hội
sản xuất. Dưới đây là một số hình thức tổ chức HTX nông nghiệp.
1. HTX nông nghiệp Nhật Bản.
ở Nhật Bản, HTX nông nghiệp thực sự trở thành hình thức tổ chức hoạt
động kinh tế của nông dân và đã thu hót 91,2% số nông trại gia đình. Thực hiện
Luật HTX năm 1947 và các chính sách cơ bản về HTX được Chính phủ Nhật
Bản ban hành năm 1967. Hệ thống HTX nông nghiệp quốc gia với 2 loại hình:
HTX tổng hợp (HTX đa mục đích) và HTX chuyên ngành ( HTX đơn mục đích).
Xã viên tham gia HTX có 2 loại: xã viên chính và xã viên không chính thức.
- Xã viên chính thức là người làm nông nghiệp bao gồm nông dân, chủ
trang trại gia đình
- Xã viên không chính thức là những người làm dịch vụ kinh tế kỹ thuật,
phục vụ nông nghiệp, những người góp vốn kinh doanh cùng HTX.
1.1. Về HTX nông nghiệp tổng hợp: HTX có chức năng, nhiệm vụ:
- HTX cung ứng cho nông dân xã viên về tư liệu sản xuất, vật tư kỹ thuật
nông nghiệp và hàng tiêu dùng. Hoạt động này được thực hiện theo hình thức
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
cung cấp hàng hóa với đơn đặt hàng và thanh toán với hệ thống giá cả thống nhất
và hợp lý.
- HTX thực hiện hoạt động tín dụng, bao gồm nhận tiền gửi của xã viên
theo kỳ hạn và không kỳ hạn, cho xã viên vay vốn với lãi suất thấp. Chính phủ
coi hoạt động tín dụng của HTX như là đại lý tín dụng của Chính phủ; đồng thời
Chính phủ bù lỗ cho HTX về chênh lệch lãi suất tiền gửi và tiền cho vay.
- Tiêu thụ nông sản cho xã viên. HTX thu gom nông sản cho xã viên đưa
vào chế biến và tiêu thụ ở thị trường trong và ngoài nước. Mạng lưới HTX nông
nghiệp đã chi phối 95% thị trường gạo của nhật, 25% thị truờng rau quả, 16% thị
trường thịt
- Tổ chức dịch vụ bảo hiểm cho xã viên
- Tổ chức hoạt động dịch vụ hướng dẫn giáo dục nông dân, tư vấn về quản

lý sản xuất và tổ chức đời sống.
1.2. HTX chuyên ngành (đơn mục đích)
Loại hình HTX nông nghiệp này có những đặc thù riêng. Đối với một số sản
phẩm ở những khu vực chuyên môn hóa sản xuất nh chăn nuôi, làm vườn, nuôi
ong. Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của HTX này là: cung ứng thiết bị vật tư
chuyên dùng cho xã viên và thu mua, tiêu thụ sản phẩm chuyên ngành cho các hộ
nông dân, xã viên nh: sữa, trứng, thịt, mật ong.
Hệ thống HTX nông nghiệp tổng hợp và chuyên ngành ở Nhật Bản được tổ chức
theo 3 cấp: HTX cấp cơ sở (xã, thị trấn), Liên hiệp HTX nông nghiệp tổng hợp
hoặc chuyên ngành cấp quận, tỉnh, thành phố, Liên hiệp hoặc liên đoàn cấp trung
ương.
- HTX nông nghiệp cấp cơ sở bao gồm các loại hình tổng hợp và chuyên
ngànhlà hình thức KTHT của các hộ nông dân, trang trại tự nguyện tổ chức ra
trên địa bàn lãnh thổ nhất định. HTX nông nghiệp cấp cơ sở, có cơ sở vật chất kỹ
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
thuật phục vụ sản xuất, kinh doanh như: hệ thống máy móc phục vụ sản xuất
nông nghiệp, xưởng, nhà máy chế biến nông sản, kho bảo quản nông sản, xưởng
sửa chữa máy móc, các cửa hàng cung ứng vật tư, kỹ thuật sản xuất, cửa hàng
tiêu thụ nông sản và hàng hóa phục vụ đời sống nông dân, xã viên.
- Liên hiệp HTX nông nghiệp cấp quận, tinh, thành phố có chức năng thực
hiện dịch vụ trực tiếp cho HTX cơ sở và các hộ nông dân, xã viên, có mối liên hệ
với Liên hiệp HTX quốc gia
- Liên hiệp HTX nông nghiệp quốc gia; Liên hiệp và Liên đoàn HTX nông
nghiệp tổng hợp và chuyên ngành toàn quốc là tổ chức đại diên cho các Liên
hiệp và các Liên đoàn HTX nông nghiệp cấp tỉnh và cấp cơ sở có chức năng chủ
đạo hoạt động tổ chức HTX nông nghiệp trong cả nước về các mối quan hệ với
chính quyền trong các vấn đề liên quan đến chính sách nông nghiệp, nhằm bảo
vệ quyền lợi của nông dân, xã viên
2. HTX nông nghiệp Hàn Quốc.

ở Hàn Quốc, HTX nông nghiệp được thành lập vào năm 1961 và là tổ chức
tự nguyện của nông dân. HTX nông nghiệp đã trải qua nhiều gia đoạn.
- Thành lập HTX cơ sở (năm 1960) với mục tiêu thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp phát triển, giúp hộ nông dân nghèo tiếp cận với cơ hội sản xuất mới, để
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi ở nông thôn, giúp các hộ nông dân tiêu thụ sản
phẩm
- Hình thành tập đoàn các HTX tổng hợp (1961 – 1968) trên cơ sở liên kết
các HTX theo 3 cấp: Liên đoàn HTX nông nghiệp quốc gia, Hiệp hội HTX (cấp
tỉnh, thành phố); HTX cơ sở (thôn, làng)
- Mở rộng quy mô HTX cấp cơ sở (1969 – 1974)
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của HTX (1975 –
1980)
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
- Đổi mới quản lý các HTX từ cấp cơ sở đến TW (từ 1980 – 1987)
- Từ năm 1988 – 1993 thực hiện dân chủ hóa trong các HTX, tạo cơ hội
nhiều hơn để nông dân tham gia hưởng lợi từ cải cách kinh tế
- Từ 1994 đến nay: tiếp tục cải cách quản lý HTX phù hợp tình hình mới.
Từ giữa những năm 1970 nhờ phát triển phong trào làng mới (Sacmaul
Dong) các HTX nông nghiệp đạt được tiến bộ lớn trong việc xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật và hoạt động kinh doanh đã có những cố gắng lớn trong sù thay đổi
mạnh mẽ các hoạt động phát triển nông thôn. Các hoạt động của HTX nông
nghiệp tập trung vào:
- Hướng dẫn trồng trọt, chăn nuôi cho hộ nông dân, xã viên HTX cung cấp
các thông tin kỹ thuật và các điều kiện mới theo yêu cầu của nông dân
- Hoạt động nghiên cứu: HTX thực hiện nghiên cứu hiệu quả các hoạt
động kinh doanh của HTX. Kết quả nghiên cứu dược sử dụng cho việc xây dựng
kế hoạch kinh doanh của HTX và đề ra các biện pháp chính sách để quản lý trang
trại và kinh tế nông thôn
- Hoạt động kinh doanh tiêu thụ: HTX đã thiết lập các phương tiện vận

chuyển thuận tiện cho các vùng sản xuất và tiêu dùng cung cấp cho các xã viên
các dịch vụ tiêu thụ sản phẩm: thông tin thị trường, đóng gói sản phẩm, tài chính
- Hoạt động cung ứng vật tư sản xuất, đời sống
HTX cung cấp đầu vào cho sản xuất và hàng hóa tiêu dùng cần thiết cho các
trang trại và hợp lý hóa tiêu dùng của xã viên. Các HTX còn thành lập các trung
tâm thiết bị máy móc sản xuất ở thị trấn, tỉnh và trên toàn quốc để giả quyết các
khó khăn về cơ giới hóa sản xuất.
- Hoạt động tín dụng: HTX thực hiện kinh doanh tín dụng để huy động và
cung cấp tiền vốn cho yêu cầu phát triển nông nghiệp và huy động có hiệu quả
vốn vào việc kinh doanh của HTX. Hoạt động tín dụng bao gồm ủy thác, gửi tiền
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
trong nước và quốc tế của NAFC, chương trình tín dụng tương hỗ của HTX cơ
sở chủ yếu phục vụ xã viên HTX, các dịch vụ đảm bảo tín dụng cho nông dân.
Hoạt động tín dụng là một trong những thành công nhất của HTX nông nghiệo
Hàn Quốc.
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm: HTX nông nghiệp thực hiện nhiều dịch
vụ bảo hiểm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn.
- Tăng thu nhập phi nông nghiệp: tăng thu nhập phi nông nghiệp của hộ
nông dân, xã viên bằng cách sử dụng lao động nhàn rỗi để khai thác thêm các
nguồn tài nguyên sẵn có ở nông thôn. Các HTX nông nghiệp còn cung cấp cơ hội
làm việc trong các nhà máy cho nông dân, khuyến khích phát triển công nghiệp
thủ công.
Ngoài các hoạt động trên, HTX nông nghiệp còn tổ chức giáo dục, nâng
cao năng lực của nông dân trẻ, trình độ quản lý nông trại, phát triển văn hóa nông
thôn, phát triển mối quan hệ với cộng đồng.
3. HTX nông nghiệp ở Indonexia.
Chính phủ Indonexia rất quan tâm đến KTHT và HTX, HTX được coi là
thành viên kinh tế không thể tách rời các chương trình phát triển toàn quốc.
Nhiều chính sách của Chính phủ ban hành nhằm thúc đẩy tổ chức hoạt động của

HTX nông nghiệp, nâng cao vai trò của các HTX ở cấp cơ sở, tạo điều kiện cho
xã viên tham gia mạnh hơn vào việc phát triển kinh tế nông thôn, hỗ trợ nông
dân phát triển sản xuất và tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Do chính sách
khuyến khích của Chính phủ, số lượng HTX và số xã viên không ngừng tăng lên.
Năm 1979, cả nước có 17.430 HTX với 7,610 triệu xã viên; năm 1983 tăng lên
23.352 HTX và 11.053 triệu xã viên
ở Inonexia, HTX chủ yếu phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp với 2 mô
hình chủ yếu: HTX dịch vụ tổng hợp và HTX dịch vụ chuyên ngành.
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
- HTX dịch vụ tổng hợp: HTX thực hiện cung cấp vốn cho xã viên, huy
động tiền nhàn dỗi của nhân dân, cung ứng vật tư nông nghiệp, thu gom chế biến
và tiêu thụ sản phẩm, bảo hiểm sản xuất nông nghiệp cho hộ xã viên. Tất cả
những hoạt động trên nhằm phuc vụ lợi Ých của xã viên, nông dân
- HTX nông nghiệp dịch vụ chuyên ngành, bao gồm: HTX trồng trọt (cây
dài ngày, cây ăn quả), HTX chăn nuôi (chăn nuôi bò sữa, gà )
Chính phủ đặc biệt quan tâm, hỗ trợ việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý
HTX. Hàng năm, số cán bộ quản lý HTX dược đào tạo, bồi dưỡng khá lớn: 7.900
người năm 1979, năm 1983 tăng lên 18.800 người. Quy mô hoạt động của HTX
không ngừng tăng lên từ 162 tỷ rubi năm 1979 lên 2.039 tỷ năm 1983.
4. HTX nông nghiệp Thái Lan
Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh
tế của Thái Lan. Nền tảng hình thành HTX nông nghiệp được phôi phai từ 1915
và sau đó HTX đầu tiên được thành lập năm 1916. Năm 2000, Thái Lan có tổng
số 5.610 HTX với trên 8 triệu xã viên. Trong đó, HTX nông nghiệp là 3.546
HTX với 4,95 triệu xã viên, còn lại là các HTX phi nông nghiệp.
Các HTX nông nghiệp hoạt động trên cơ sở sự phối hợp của hệ thống “ba
cấp”: các HTX cơ sở, cấp tỉnh và cấp Nhà nước. Tại cấp Nhà nước, tổ chức này
mang tên “Cục phát triển HTX nông nghiệp Thái Lan”. Cục phát triển HTX có
vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ, hỗ trợ sự phát triển của các HTX trong cả

nước.
Về nội dung hoạt động HTX nông nghiệp rất đa dạng và phong phú. Mỗi
HTX đều có rất nhiều loại dịch vụ đáp ứng nhu cầu của các xã viên, đặc biệt là
hoạt động tín dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của các xã viên và chế
biến, tiêu thụ sản phẩm. Nơi tiêu thụ sản phẩm của HTX, các trung tâm mua, bán
nông sản đã đem lại quyền lợi thiết thực cho xã viên trong việc cạnh tranh giá cả.
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
Chính phủ, đặc biệt Nhà vua Thái Lan rất quan tâm đến vấn đề phát triển
HTX, nhiều chính sách phát triển HTX được ban hành:
- Miễn thuế đối với sản phẩm nông nghiệp.
- Cho phép HTX trực tiếp suất khẩu sản phẩm ra nước ngoài.
- Mở các khóa bồi dưỡng, huấn luyện về kỹ thuật, quản lý cho cán bộ,
công nhân kỹ thuật HTX không thu phí.
- Hỗ trợ kinh phí (đối với một số hộ) để xaay dựng các công trình thủy lợi
vừa và nhỏ đến các HTX; hàng năm các xã viênchỉ phải đóng lệ phí duy trì, bảo
dưỡng.
- Cho phép xây dựng các trung tâm thu mua nông sản để người dân bán
được các sản phẩm với giá cao nhất.
- Đất đai thuộc quyền sở hữu của từng hộ xã viên và HTX.
Những bài học kinh nghiệm
Từ việc tổ chức, hoạt động của mô hình HTX nông nghiệp ở một số nước
nêu trên, có thể rót ra một số kinh nghiệm như sau:
• Mục đích chủ yếu của HTX là phục vụ sản xuất nông nghiệp của các hộ
gia đình xã viên chứ không phải kinh doanh kiếm lời; người góp cổ phần vào
HTX nông nghiệp chủ yếu là để tăng sức mạnh, tổ chức những dịch vụ tốt hơn
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của từng hộ. Lợi Ých chủ yếu để lôi kéo
người nông dân vào HTX chính là lợi Ých được hưởng dịch vụ chứ không phải
là góp cổ phần vào HTX để được chia nhiều lãi theo cổ phần;
• Hoạt động của HTX nông nghiệp thực hiện chức năng chủ yếu của mình

là làm dịch vụ cho sản xuất của các hộ gia đình, tạo điều kiện cho các hộ gia đình
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
nông đân sản xuất tốt hơn, còn việc sản xuất nông nghiệp là do từng gia đình tổ
chức trên đất đai của họ, HTX không trực tiếp can thiêp;
• Phát triển đa dạnh các hình thức HTX, từ HTX từng khâu, từng việc,
chuyên ngành đến HTX đa chức năng (HTX dịch vụ, kinh doanh tổng hợp).
Hướng chung là phát triển HTX nông nghiệp đa chức năng (phổ biến ở Nhật
Bản, Hàn Quốc và Thái Lan);
• Để tổ chức HTX nông nghiệp thành công, hoạt động của HTX thực sự
phát huy hiệu quả, phụ thuộc vào các yếu tố sau:
1. Vai trò chỉ đạo, hỗ trợ của Nhà nước.
Hầu hết các Nhà nước đều chú trọng đến HTX nông nghiệp, coi việc phát
triển HTX nông nghiệp là chiến lược quan trọng để phát triển kinh tế xã hội nông
thôn;
- Về quản lý Nhà nước đối với HTX: HTX được coi là một loại hình
doanh nghiệp, bởi vậy, Chính phủ đều tiến hành việc quản lý HTX và quản lý
theo cách riêng của mình thông qua một cơ quan do Nhà nước chỉ định. ở một số
nước Châu Á và trong khu vực, họ chủ trương khuyến khích phát triển HTX với
dự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước thông qua việc hướng dẫn, công bố các chính
sách tạo điều kiện cho HTX ra đời, hoạt động và phát triển. Để làm công tác này
phải hình thành một số bộ phận chuyên quản lý HTX do Nhà nước chỉ định như
ở Thái Lan, Indonexia, có Cục phát triển HTX nông nghiệp thuộc Bộ nông
nghiệp.
- Chính phủ giúp đỡ, hỗ trợ HTX:
Chính phủ coi việc giúp đỡ, hỗ trợ HTX là trách nhiệm và thực hiện thông
qua những chính sách hỗ trợ nh:
+ Đầu tư phát triển KH – KT, xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các HTX.
+ Cho vay lãi xuất thấp và trợ giúp khi có thiên tai
Chuyên đề thực tập Khoa

KTNN&PTNT
+ Có chế độ ưu đãi về thuế
+ ưu tiên cung cấp vật tư kỹ thuật
+ Cho quyền trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu
+ Hỗ trợ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX
+ Sử dụng và thông qua các HTX để thực hiện các dự án phát triển
+ Cho phép thành lập các tổ chức hỗ trợ HTX
2. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và hiểu biết cho mọi
người về HTX.
3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX:
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý HTX được xem là yếu tố quyết
định đến thành công và hiệu quả hoạt động của HTX.
Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ (bao gồm: chủ nhiệm, các cán bộ quản lý,
nghiệp vụ của HTX) phải thường xuyên được đào tạo lại và bồi dưỡng mới đáp
ứng yêu cầu. Để làm việc này, ngoài phần hỗ trợ của Nhà nước, các HTX đều có
quỹ đào tạo, bồi dưỡng riêng. Để thúc đẩy cán bộ HTX đem hết năng lực, năng
động sáng tạo trong công việc, ngoài việc chăm lo công tác đào tạo, bồ dưỡng
HTX còn có chế độ đãi ngộ (trả công, khen thưởng) thỏa đáng.
4. Mở rộng và tăng hiệu quả hoạt động dịch vụ của HTX trên cơ sở:
- Từ nhu cầu dịch vụ hiện có của từng xã viên và phát hiện, mở rộng nhu cầu
mới
- Thực hiện sự liên kết giữa HTX với HTX, HTX liên hiệp HTX cấp vùng và
Liên hiệp HTX cấp TW để tăng cường sức mạnh của tổ chức HTX. Trên cơ sở
khơi thông đầu vào đặc biệt khơi thông, mở rộng đầu ra, bảo đảm tiêu thụ sản
phẩm cho xã viên có hiệu qủa
- Hoàn thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng, các phương tiện liên lạc, thông tin, ở
các thị trấn, thị tứ và các trung tâm thương mại
Chuyên đề thực tập Khoa
KTNN&PTNT
- Chính phủ các nước có chính sách hỗ trợ HTX trong việc tiêu thụ sản

phẩm, chính sách đầu tư sản xuất, các chính sách ưu đãi về thuế và trợ giá đối
với HTX.
PHẦN II. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HTX
NÔNG NGHIỆP VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
I. Khái quát tình hình HTX vùng đồng bằng Sông Hồng.
1. HTX nông nghiệp trước khi có Luật HTX
Cùng với phong trào HTX nông nghiệp miền Bắc, HTX nông nghiệp vùng
dồng bằng Sông Hồng xuất hiện từ năm 1955. Sau một thời gian ngắn thí điểm
đã nhanh chóng đưa phong trào phát triển rộng khắp, chỉ sau 2 – 3 năm đã hoàn
thành việc xây dựng HTX nông nghiệp bậc cao theo mô hình hợp tác hóa đồng
nhất với tập thể hóa. Xét về tổng thể, mô hình đó đã tồn tại hơn 40 năm, trong dó
có hơn 20 năm chiến tranh và sau này có hơn 10 năm đổi mới.

×