Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Vốn kinh doanh và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 99 trang )

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn là tiền đề vật chất để tiến hành hoạt động SXKD đối với bất kỳ doanh nghiệp
nào, là yếu tố mang tính chất quyết định đến sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để phát triển thì doanh nghiệp không những phải bảo toàn được nguồn vốn
đã bỏ ra mà phải phát triển được vốn đó. Thực tế cho thấy rằng không chỉ ở nước ta mà
nhiều nước trên thế giới, tình trạng sử dụng vốn lãng phí, kém hiệu quả đang diễn ra rất
phổ biến. Việc tổ chức và sử dụng vốn hiệu quả sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy việc nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng vốn
là vấn đề được tất cả các doanh nghiệp quan tâm.
Ngày nay với sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ cùng với sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt của thị trường, các doanh nghiệp muốn đứng vững trong nền
kinh tế thì nhu cầu về vốn cho việc mở rộng quy mô hoạt động ngày càng lớn. Sử dụng
một cách có hiệu quả vốn kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp không những duy trì được
lượng vốn đã bỏ ra mà còn không ngừng bù đắp thêm vốn cho quá trình tái sản xuất
mở rộng thông qua hiệu quả của việc sử dụng vốn mang lại. Nhờ đó, doanh nghiệp có
điều kiện đổi mới công nghệ tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản
phẩm, làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp vững vàng về mặt tài
chính. Nguồn vốn được sử dụng hợp lý sẽ là động lực để các doanh nghiệp phát triển
mạnh mẽ, đứng vững và giành thắng lợi trước các đối thủ cạnh tranh.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả tổ chức sử dụng vốn
kinh doanh và qua thời gian đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về Công ty Cổ phần Bánh kẹo
Hải Hà cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Tiến sĩ Đinh Văn Hải, vận dụng
lý luận vào thực tiễn công ty đồng thời từ thực tiễn làm sáng tỏ lý luận em xin đi trình
Nguyễn Thị Nhàn
1

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
bày luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Vốn kinh doanh và các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà”.


2. Mục đích nghiên cứu
Qua việc đi sâu nghiên cứu đề tài, trên cơ sở thực tế tình hình tổ chức sử dụng vốn
kinh doanh của công ty CP Bánh kẹo Hải Hà, tác giả luận văn nhằm đem những kiến
thức đã học về tài chính doanh nghiệp nói chung và vốn kinh doanh nói riêng ứng dụng
vào thực tế, củng cố và nâng cao kiến thức để có thể hiểu một cách sâu xa hơn, thực tế
hơn về công tác quản trị vốn trong doanh nghiệp. Đồng thời mong muốn được đóng
góp một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn
kinh doanh tại đơn vị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vốn lưu động và công tác quản lý, sử dụng
vốn lưu động. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là Công ty Cổ phần Bánh kẹo Hải Hà, với
các số liệu thực tế liên quan đến tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh trong 3
năm 2011, 2012, 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được xây dựng dựa trên nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Đầu
tiên, để xây dựng khung lý luận chung, ta sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp
thông tin từ giáo trình và các tài liệu tham khảo. Sau đó, các số liệu thu thập được tại
Công ty được phân tích dựa trên việc kết hợp phương pháp định tính và đối chiếu - so
sánh. Cuối cùng, áp dụng những kiến thức và kinh nghiêm có được qua khảo sát thực
tế để hoàn thiện đề tài.
5. Kết cấu luận văn: gồm 3 chương
Nguyễn Thị Nhàn
2

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
• Chương I: Lý luận chung về vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp
• Chương II: Thực trạng sử dụng vốn và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của Công ty CP Bánh kẹo Hải Hà
• Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

kinh doanh của Công ty CP Bánh kẹo Hải Hà
Quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một vấn đề phức tạp đòi
hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Với thời gian nghiên cứu không nhiều, điều
kiện tìm hiểu và trình độ kiến thức còn hạn chế, nên mặc dù có nhiều cố gắng nhưng
chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của thầy giáo tiến sĩ
Đinh Văn Hải và các thầy cô giáo trong khoa Tài chính doanh nghiệp đã tạo điều kiện
thuận lợi cho em hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Hà Nội, ngày … tháng năm 2014
Học viên thực hiện
Nguyễn Thị Nhàn
3

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
CHƯƠNG I- LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN KINH DOANH VÀ HIỆU QỦA SỬ
DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm và vai trò của vốn kinh doanh trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp
thuộc các loại hình sở hữu khác nhau, bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn
ngành nghề cũng như lĩnh vực kinh doanh. Nền kinh tế đang chứng kiến sự đa dạng về
hình thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Song về bản chất tất cả các hoạt
động đó đều tìm lời giải đáp cho ba câu hỏi cơ bản của nền kinh tế đặt ra đó là: "sản
xuất cái gì", "sản xuất như thế nào", và "sản xuất cho ai?"
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp có quyền tự do kinh
doanh. Họ tự xác định tính chất sản phẩm mà họ sẽ tạo ra, họ thương lượng về giá cả
mà họ sẽ trả hoặc nhận và tự xác định xem khách hàng của mình là ai. Các doanh
nghiệp luôn tự vạch ra các mục tiêu kết hợp với mục tiêu của toàn ngành do nhà nước

hoạch định và phải có những biện pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu đó. Có thể nói mọi
hoạt động của doanh nghiệp dưới bất kỳ hình thức nào về bản chất đều nhằm giải quyết
những vấn đề cơ bản của thị trường nhằm mưu cầu lợi nhuận.
Để thực hiện được vấn đề này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền vốn
nhất định để thực hiện các khoản đầu tư cần thiết ban đầu như chi phí thành lập doanh
nghiệp, chi phí mua nguyên vật liệu, trả lương, trả lãi tiền vay, nộp thuế Ngoài ra còn
đầu tư thêm công nghệ, mua sắm máy móc, thiết bị để tái sản xuất mở rộng, phát triển
doanh nghiệp. Vậy vốn là gì?
Nguyễn Thị Nhàn
4

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
Nhà kinh tế học người Anh William Petty đưa ra luận điểm đầu tiên về vốn: “ Lao
động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất”. Hiểu một cách đơn giản là nguồn
gốc của mọi của cải vật chất trong xã hội đều xuất phát từ nguồn lực của con người, đất
đai và tài nguyên thiên nhiên. Kế thừa những tư tưởng đó, Marx đã trình bày quan
điểm của mình về vốn “ Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá trình
sản xuất”. Với quan niệm đó, Marx mới chỉ đề cập đến khu vực sản xuất vật chất mới
tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Samuelson - Nhà kinh tế học theo trường phái “Tân cổ điển” đã kế thừa những
quan điểm của trường phái cổ điểm về các yếu tố sản xuất và phân chia các yếu tố đầu
vào của quá trình sản xuất ra thành ba loại chủ yếu là đất đai, lao động và vốn. Theo
ông, vốn là hàng hóa sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Như vậy, trong quan niệm
về vốn của mình Samuelson không đề cập đến các tài sản tài chính, các giấy tờ có giá
có thể mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp thông qua chuyển đổi, ông đã đồng nhất
vốn với tài sản cố định của doanh nghiệp.
Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hóa để sản xuất các hàng hóa khác; vốn tài chính
là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Như vậy, David Begg đã bổ sung vốn
tài chính vào định nghĩa vốn của Samuelson.

Từ những quan niệm trên, các tác giả đã thống nhất và đưa ra khái niệm về vốn
kinh doanh của doanh nghiệp: “Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng
tiền, là giá trị của toàn bộ tài sản được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh hay
một ngành nghề nhất định nhằm mục đích sinh lời”.
Vốn là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, không chỉ trong doanh
nghiệp mà còn trong toàn xã hội. Đối với mỗi doanh nghiệp, muốn tiến hành kinh
Nguyễn Thị Nhàn
5

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
doanh thì phải có vốn và trong nền kinh tế thị trường vốn là điều kiện tiên quyết có ý
nghĩa quyết định tới sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn là một phạm trù kinh tế cơ bản, vốn gắn kiền với nền tảng sản xuất hàng hoá.
Vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đấu và quá trình tiếp theo cho hoạt động kinh doanh.
Có thể hiểu: Vốn là một phạm trù kinh tế. Vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả giá trị
tài sản được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là giá trị
ứng ra ban đầu cho các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp nhằm mục tiêu
sinh lời.
1.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh được coi là quỹ tiền tệ đặc biệt không thể thiếu của doanh nghiệp
và VKD mang những đặc trưng chủ yếu sau:
• Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực tế của các tài sản hữu
hình và vô hình dùng để sản xuất ra sản phẩm. Vốn chính là biểu hiện về mặt giá trị
của các loại tài sản như: máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, nhân công,… trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song, chỉ những tài sản có giá trị và giá
trị sử dụng phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới được coi
là vốn.
Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục nên vốn kinh doanh của
doanh nghiệp cũng vận động không ngừng tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển của vốn.

Sự vận động của vốn kinh doanh trong doanh nghiệp được mô phỏng theo sơ đồ sau:
TLSX
T-H SX- H'- T' ( T' > T )
SLĐ
Nguyễn Thị Nhàn
6

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
Vòng tuần hoàn của vốn bắt đầu từ hình thái vốn tiền tệ (T), doanh nghiệp dùng
vốn này để đầu tư mua sắm vật tư hàng hóa (H) dưới dạng tư liệu lao động (TLLĐ) và
đối tượng lao động (ĐTLĐ) để phục vụ cho quá trình sản xuất. Qua quá trình sản xuất
vốn được chuyển thành hàng hóa (H’). Và cuối cùng sau khi tiêu thụ hàng hóa, lao vụ
dịch vụ thì vốn từ hình thái hiện vật chuyển sang hình thái tiền tệ (T’), trong đó T’ > T.
Khi đó kết thúc quá trình chu chuyển của vốn. Như vậy, do sự luân chuyển không
ngừng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn kinh doanh
của doanh nghiệp thường tồn tại dưới các hình thức khác nhau trong lĩnh vực sản xuất
lưu thông. Song, điểm xuất phát và điểm kết thúc của quá trình tuần hoàn đều được
biểu hiện giá trị bằng tiền.
• Vốn phải được tập trung tích tụ thành một lượng nhất định mới có thể phát huy
được tác dụng, mới có thể giúp doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải biết tận dụng và khai thác mọi nguồn vốn có thể
huy động để đầu tư vào hoạt động kinh doanh của mình.
• Vốn có giá trị về mặt thời gian. Nhất là trong nền kinh tế thị trường như hiện nay
thì điều này thể hiện rất rõ, vốn của doanh nghiệp luôn chịu ảnh hưởng của các nhân tố
như lạm phát, sự biến động của giá cả, tiến bộ khoa học kỹ thuật,…nên giá trị của vốn
tại các thời điểm khác nhau là khác nhau.
• Vốn phải gắn với chủ sở hữu: mỗi loại vốn bao giờ cũng gắn với một chủ sở hữu
nhất định. Người sử dụng vốn chưa chắc là người sở hữu vốn, do có sự tách biệt giữa
quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn. Điều này đòi hỏi mỗi người sử dụng vốn phải
có trách nhiệm với đồng vốn mình nằm giữ và sử dụng.

Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các loại tài sản hữu hình có hình thái vật
chất cụ thể mà còn được biểu hiện bằng các loại tài sản vô hình không có hình thái vật
Nguyễn Thị Nhàn
7

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
chất như lợi thế thương mại, bằng phát minh sáng chế, các bí quyết công nghệ, nhãn
hiệu được bảo hộ…
1.1.3. Phân loại vốn kinh doanh
Để hiểu rõ hơn về bản chất và đặc biểm của VKD cũng như giúp cho việc quản lý
và sử dụng vốn có hiệu quả cần phải phân loại vốn kinh doanh. Có nhiều cách phân
loại xong nếu căn cứ vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sự luân
chuyển vốn trong doanh nghiệp, vào mục đích sử dụng số tiền vốn mà doanh nghiệp có
thì được chia làm hai loại đó là vốn cố định (VCĐ) và vốn lưu động (VLĐ). Sự khác
nhau cơ bản đó là: nếu nhưu VCĐ tham gia vào quá trình sản xuất như tư liệu lao động
thì VLĐ là đối tượng lao động. Nếu như vốn lao động tạo ra thực thể của sản phẩm
hàng hoá thì VCĐ là phương thức để dịch chuyển VLĐ thành sản phẩm hàng hoá. Mặt
khác nếu như VLĐ được kết chuyển một lần vào giá trị của sản phẩm hàng hoá và thu
hồi được ngay sau khi doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá còn vốn cố định tham gia
nhiều vào quá trình sản xuất kinh doanh và kết chuyển vào giá trị sản phẩm hàng hoá
dưới hình thức khấu hao.
1.1.3.1. Vốn cố định của doanh nghiệp
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài
sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ
sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài
sản cố định của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng
trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định hữu hình và vô hình được
gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là số vốn đầu tư ứng trước vì số vốn này nếu
được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi

tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ của mình. Quy mô của vốn cố định nhiều
Nguyễn Thị Nhàn
8

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang
bị kĩ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng
ngược lại đặc điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng
quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Ta có thể khái
quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh
doanh như sau:
Một là: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, điều này do
đặc điểm của tài sản cố định được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ sản xuất quyết
định.
Hai là: Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần từng phần trong các chu kỳ
sản xuất, khi tham gia các chu kỳ sản xuất một bộ phận vốn cố định được luân chuyển
và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng
với phần hao mòn của tài sản cố định, một phần được cố định trong nó. Vốn cố định
được tách thành hai bộ phận. Bộ phận thứ nhất tương ứng với giá trị hao mòn của tài
sản cố định được chuyển vào giá trị sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao và được
tích luỹ lại thành quỹ khấu hao sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ. Quỹ khấu
hao dùng để tái sản xuất tài sản cố định. Trên thực tế khi chưa có nhu cầu đầu tư mua
sắm tài sản cố định các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng linh hoạt quỹ này để đáp
ứng nhu cầu kinh doanh của mình. Bộ phận thứ hai tức là phần còn lại của vốn tài sản
cố định ngày càng giảm đi trong những chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Ba là: Vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển sau nhiều chu kỳ sản xuất.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất, một bộ phận của vốn cố định được luân chuyển vào giá trị
sản phẩm, làm cho vốn đầu tư ban đầu vào giá trị tài sản cố định giảm xuống và tài sản
cố định hết thời hạn sử dụng, giá trị của nó được luân chuyển hết vào giá trị sản phẩm
đã sản xuất thì tài sản cố định mới hoàn thành một vòng chu chuyển.

Nguyễn Thị Nhàn
9

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
Trong các doanh nghiệp vốn cố định là một bộ phận vốn quan trọng chiếm tỷ
trọng tương đối lớn trong toàn bộ vốn đầu tư nói riêng, vốn sản xuất kinh doanh nói
chung. Quy mô của vốn cố định, trình độ quản lý và sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng
đến trình độ trang bị kỹ thuật của sản xuất kinh doanh. Từ những đặc điểm trên của
vốn cố định đòi hỏi trong việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý
hình thái hiện vật của nó là các tài sản cố định của doanh nghiệp. Vì điều này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Vốn lưu động của doanh nghiệp
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và lưu
thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện
thường xuyên liên tục. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần,
tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất.
Trong các doanh nghiệp tài sản lưu động sản xuất bao gồm các loại: nguyên nhiên
vật liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang đang trong quá trình dự
trữ sản xuất hoặc chế biến. Tài sản lưu động trong quá trình lưu thông bao gồm thành
phẩm chờ tiêu thụ, vốn bắng tiền, vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết
chuyển, chi phí trả trước. Tài sản lưu động nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu
động nằm trong quá trình lưu thông luôn thay đổi cho nhau, vận động không ngừng
nhằm làm cho quá trình sản xuất diễn ra thường xuyên, liên tục.
Trong quá trình sản xuất, khác với tài sản cố định, tài sản lưu động của doanh
nghiệp luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm. Và giá trị của nó cũng
được dịch chuyến một lần vào giá trị sản phẩm tiêu thụ. Đặc điểm này quyết định sự
vận động của vốn lưu động tức hình thái giá trị của tài sản lưu động là: khởi đầu vòng
tuần hoàn vốn, vốn lưu động từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật tư hàng hoá dự trữ.
Qua giai đoạn sản xuất, vật tư được đưa vào chế tạo bán thành phẩm và thành phẩm.
Nguyễn Thị Nhàn

10

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
Kết thúc vòng tuần hoàn, sau khi hàng hoá được tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình
thái tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu của nó.
Các giai đoạn vận động của vốn được đan xen vào nhau các chu kỳ sản xuất được
lặp đi lặp lại. Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất.
1.1.4. Vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của mỗi doanh nghiệp. Một lượng vốn
để trang trải các chi phí như: chi phí thành, lập mua sắm tài sản, vật tư, nguyên nhiên
vật liệu và các chi phí tối thiểu theo quy định của pháp luật, phù hơp với từng ngành
nghề kinh doanh là điều kiện vô cùng quan trọng của các doanh nghiệp khi thành lập
doanh nghiệp và khi đó địa vị pháp lý của các doanh nghiệp mới được xác lập.
Vốn là cơ sở để doanh nghiệp duy trì và phát triển bình thường. Trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn cần một lượng vốn để có thể cung
cấp vật tư, hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu, dự trữ tồn kho, chi phí cho việc đầu tư tiêu
thụ sản phẩm, trả lương cho công nhân viên đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh được diễn ra liên tục. Không những thế vốn còn là cơ sở để doanh nghiệp mở
rộng năng lực sản xuất, đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận- mục đích cuối cùng và lâu dài và lâu
dài của các doanh nghiệp nhằm không ngừng nâng cao vị thế của mình trên thị trường.
Vốn cũng là điều kiện để doanh nghiệp mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất.
Khi doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đồng vốn không những được đảm bảo mà còn
sinh sôi nảy nở. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, thâm nhập vào
nhiều thị trường mà trước đây doanh nghiệp chưa có điều kiện.
Như vậy, vốn kinh doanh đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất
kinh doanh là tiền đề cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Nguyễn Thị Nhàn
11


Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu
phản ánh kết quả tổng hợp nhất trong quá trình sử dụng vốn cũng như trong hoạt động
kinh doanh hoặc kết thúc một chu kỳ đầu tư của một dự án. Việc tối thiểu hóa chi phí
vốn và tối đa hóa lợi ích sử dụng vốn đối với việc sản xuất kinh doanh trong một giới
hạn nguồn nhân tài sao cho phù hợp với lý thuyết, thực tiễn kinh tế hiệu quả.
Để đạt hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải khai
thác triệt để các nguồn lực sẵn có. Bởi ta đã biết việc sử dụng vốn kinh doanh có hiệu
quả là mục tiêu phấn đầu của mọi doanh nghiệp. Để nắm được kết quả đó hay để đo
lường được sự nỗ lực trong công việc sử dụng vốn ta thông qua một hệ thống các chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Trong nền KTTT tồn tại nhiều thành phần kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt như
hiện nay thì vấn đề tổ chức huy động và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề hết sức
quan trọng. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn SXKD luôn là vấn đề mà mỗi DN cần đặt
lên hàng đầu xuất phát từ các lý do sau:
• Trong nền kinh tế thị trường mục tiêu hoạt động của các DN kinh doanh
là lợi nhuận. Các doanh nghiệp có quyền độc lập, tự chủ và chịu trách nhiệm kinh
doanh có lãi. Muốn thực hiện được điều đó đòi hỏi các nhà quản trị tài chính doanh
nghiệp phải quản lý tốt vốn ở các khâu của quá trình sản xuất, thực hiện nghiên cứu thị
trường, tổ chức tốt việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sau mỗi chu kỳ sản xuất đồng
vốn phải được bảo toàn và phát triển đồng thời phải có lãi để tái đầu tư mở rộng sản
xuất. Muốn tối đa hoá lợi nhuận thì đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn SXKD.
Nguyễn Thị Nhàn
12

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9

• Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật làm cho năng suất
lao động cao hơn đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn ngày càng tăng để phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn có được nguồn vốn này, doanh nghiệp phải sử
dụng một cách có hiệu quả vốn kinh doanh để không những duy trì được lượng vốn đã
bỏ ra mà còn không ngừng bù đắp thêm vốn cho quá trình tái sản xuất mở rộng.
• Trong điều kiện cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên trị trường ngày càng gay
gắt, đòi hỏi các doanh nghiệp phải phát huy thế mạnh của mình, tạo ra lợi thế trong
cạnh tranh, đứng vững trong thị trường. Nguồn vốn được sử dụng hợp lý sẽ mang lại
hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận cao, và là động lực để doanh nghiệp phát triển mạnh
mẽ, đứng vững và giành thắng lợi trước các đối thủ cạnh tranh.
• Xu hướng chung của quốc tế là chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ đồng thời đẩy mạnh liên minh liên kết để
tạo thế lực cạnh tranh giành thị trường, mở đường cho SXKD phát triển. Hội nhập là
con đường tất yếu hiện nay của thế giới đã và đang bước sang một giai đoạn phát triển
cao hơn đó là nền kinh tế tri thức trong khi đó nước ta đang đứng trước ngưỡng của
của nó. Do đó yêu cầu về vốn và sử dụng vốn có hiệu quả cao càng cần thiết và quyết
định sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vai trò rất quan trọng cho sự tồn tại
và phát triển của tất cả các doanh nghiệp. Nhờ đó, doanh nghiệp sẽ duy trì được lượng
vốn đã bỏ ra và không ngừng bù đắp thêm vốn cho quá trình tái sản xuất mở rộng
thông qua hiệu quả của việc sử dụng vốn mang lại. Sử dụng hiệu quả VKD giúp cho
doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, nâng cao
chất lượng sản phẩm, làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp vững
vàng về mặt tài chính. Nguồn vốn được sử dụng hợp lý sẽ là động lực để các doanh
nghiệp phát triển mạnh mẽ, đứng vững và giành thắng lợi trước các đối thủ cạnh tranh.
Nguyễn Thị Nhàn
13

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
Còn nếu sử dụng không có hiệu quả thì không những làm doanh nghiệp ngày càng mất

vốn mà còn có thể dẫn tới phá sản doanh nghiệp.
Từ những ý nghĩa trên mà công tác quản lý và sử dụng vốn là một trong những
nội dung quan trọng trong công tác quản lý doanh nghiệp. Để đánh giá đúng đắn tình
hình quản lý và sử dụng VKD của doanh nghiệp ta cần đi sâu nghiên cứu các chỉ tiêu
đánh giá tình hình tổ chức và hiệu quả sử dụng VKD trong các doanh nghiệp.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn SXKD của doanh nghiệp người ta có thể sử
dụng một số chỉ tiêu sau:
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Vòng quay toàn bộ vốn trong kỳ =
Số vốn sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu suất sử dụng vốn hay tài sản của doanh nghiệp trong
kỳ, nó thể hiện rằng cứ một đồng vốn đem vào đầu tư trong kỳ sẽ mang lại mấy đồng
doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Nói chung vòng quay toàn bộ vốn càng lớn thể hiện hiệu
suất sử dụng vốn càng cao.
Lợi nhuận trước (sau) thuế
- Tỉ suất lợi nhuận vốn =
Số vốn sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư vào hoạt động
SXKD của doanh nghiệp, nó cho ta thấy rằng trong kỳ cứ sử dụng một đồng vốn vào
hoạt động SXKD thì sẽ mang lại mấy đồng lợi nhuận (trước thuế hoặc sau thuế).
Nguyễn Thị Nhàn
14

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
Song để đánh giá được chính xác hơn về hiệu quả sử dụng vốn để từ đó đưa ra
được biện pháp tối ưu, trọng tâm nhất, sát thực nhất, ta cần nghiên cứu hiệu quả sử
dụng của từng loại vốn.
1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn cố định.
Để kiểm tra, đánh giá về hiệu quả sử dụng VCĐ người ta thường sử dụng một hệ

thông các chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích sau:
• Chỉ tiêu tổng hợp:
Các chỉ tiêu tổng hợp phản ảnh mặt chất của việc sử dụng VCĐ.
- Hiệu quả sử dụng VCĐ:
Nó phản ánh bình quân cứ một đồng VCĐ được sử dụng sẽ tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
Doanh thu(Doanh thu thuần) trong kỳ
Hiệu suất sử dụng VCĐ =
VCĐ bình quân trong kỳ
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm là kết quả thu được do sử dụng VCĐ vào SXKD sản
phẩm hàng hóa.
VCĐ bình quân trong kỳ là số bình quân giữa giá trị còn lại của TSCĐ đầu kỳ và
cuối kỳ.
- Hàm lượng VCĐ:
Nó phản ánh để tạo ra được một đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao
nhiêu đồng VCĐ.
Số VCĐ bình quân trong kỳ
Hàm lượng VCĐ =
Nguyễn Thị Nhàn
15

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
Doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ
- Tỷ suất lợi nhuận trên VCĐ:
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng VCĐ bỏ ra trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế.
Lợi nhuận (trước) sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận trên VCĐ =
VCĐ bình quân trong kỳ
Lợi nhuận ở đây chỉ tính đến khoản thu nhập do có sự tham gia trực tiếp của

TSCĐ tạo ra.
• Chỉ tiêu phân tích
- Hệ số hao mòn TSCĐ: Phản ảnh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh
nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu.
Số tiền khấu hao lũy kế.
Hệ số hao mòn TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Hệ số này càng cao chứng tỏ TSCĐ đã cũ và cần được đầu tư đổi mới.Ngược lại
hệ số này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp rất quan tâm tới đầu tư máy móc thiết bị.
- Hiệu suất sử dụng TSCĐ: phản ánh cứ mỗi đồng TSCĐ được sử dụng trong kỳ
tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
Doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
Nguyễn Thị Nhàn
16

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
- Tỷ suất đầu tư TSCĐ: phản ánh mức độ đầu tư vào TSCĐ trong tổng giá trị tài
sản của doanh nghiệp. Nói một cách khác là trong một đồng giá trị tài sản của doanh
nghiệp có bao nhiêu đồng được đầu tư vào TSCĐ.
Giá trị còn lại của TSCĐ
Tỷ suất đầu tư TSCĐ = x 100%
Tổng tài sản
- Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp:
Phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị từng loại, nhóm TSCĐ trong tổng số giá trị
TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp doanh nghiệp đánh
giá mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ của doanh nghiệp. Dựa vào kết cấu này mà
doanh nghiệp có biện pháp đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh
nghiệp.

- Chỉ tiêu về kết cấu nguồn vốn đầu tư cho TSCĐ: là tỷ trọng từng nguồn VCĐ so
với tổng nguồn VCĐ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này giúp cho người quản lý có biện
pháp khai thác, mở rộng nguồn vốn. Mặt khác có để kiểm tra theo dõi tình hình thanh
toán chi trả các khoản nợ vay có đúng hạn hay không.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ trong các doanh nghiệp, ta có thể sử dụng các
chỉ tiêu sau:
• Tốc độ luân chuyển VLĐ: được đánh giá và xác định hai chỉ tiêu
- Số lần luân chuyển VLĐ: chỉ tiêu này phản ánh số vòng quay vốn được thực
hiện trong một thời kỳ nhất định. Nó được xác định như sau:
M
L =
Nguyễn Thị Nhàn
17

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
VLĐ
Trong đó:
VLĐ : VLĐ bình quân trong năm.
L: Số lần luân chuyển (số vòng quay) của VLĐ trong năm.
M: Tổng mức luân chuyển vốn trong năm.
- Kỳ luân chuyển vốn: Phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay VLĐ.
360
K =
L
Trong đó:
K: Kỳ luân chuyển VLĐ
L : Số vòng quay VLĐ
• Hàm lượng VLĐ (hay còn gọi là mức đảm nhận VLĐ): là số VLĐ cần có để đạt
được một đồng doanh thu.

Công thức xác định:
VLĐ bình quân trong kỳ.
Hàm lượng VLĐ =
Doanh thu thuần trong kỳ.
- Tỷ suất lợi nhuận : Chỉ tiêu này phản ánh một đồng VLĐ được sử dụng có thể
tại ra bao nhiêu đồng lợi nhuận (trước hoặc sau thuê thu nhập). Mức tỷ suất lợi nhuận
càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao và ngược lại.
Công thức xác định:
Lợi nhuận (trước hoặc sau thuế thu nhập)
Nguyễn Thị Nhàn
18

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
Tỷ suất lợi nhuận VLĐ =
VLĐ bình quân trong kỳ
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp
1.4.1. Các nhân tố khách quan
• Cơ chế quản lý và các chính sách vĩ mô của Nhà nước
Nhà nước tạo ra môi trường hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp tồn tại và
phát triển đồng thời định hướng hoạt động cho các doanh nghiệp thông qua các chính
sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, khi có một sự thay đổi trong chính sách kinh tế như các
chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đầu tư… cũng có thể ảnh
hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng VKD của doanh nghiệp.
• Môi trường kinh tế
Một doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường luôn gắn liền hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình với sự vận động của nền kinh tế. Khi nền kinh tế có biến động thì
hoạt động của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng. Do vậy mọi nhân tố có tác động đến
việc tổ chức và huy động vốn từ bên ngoài đều ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp. Các nhân tố này ở một mức độ nào đó tác động trực tiếp hoặc gián

tiếp lên hoạt động sản xuất kinh doanh, đến công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn
tại doanh nghiệp:
- Lãi suất trên thị trường: lãi suất trên thị trường tác động đến chi phí huy động
vốn. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu chi phí sử dụng vốn giảm thì sẽ
làm tăng lợi nhuận từ đó làm tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn.
- Mức độ lạm phát của nền kinh tế: Lạm phát ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp thông qua giá nguyên liệu đầu vào, và giá thành phẩm đầu ra.
Nguyễn Thị Nhàn
19

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
Nền kinh tế có lạm phát cao sẽ làm cho sức mua của đồng tiền giảm sút doanh nghiệp
phải ứng ra một lượng vốn lớn hơn để có những tài sản tương đương như cũ, khi đó
năng lực vốn đã bị giảm. Mặt khác, trong thời kì lạm phát sức mua đồng tiền giảm, thu
nhập người dân điều chỉnh chậm gây khó khăn cho doanh nghiệp trong vấn đề tiêu thụ
sản phẩm. Vì vậy, nếu như doanh nghiệp không có biện pháp quản lý tốt có thể dẫn tới
tình trạng mất vốn, có thể làm cho doanh nghiệp trên bờ vực phá sản. Ngoài ra, lạm
phát còn ảnh hưởng đến công tác trích khấu hao. Do khấu hao được tính trên giá trị sổ
sách tại lúc đem vào sử dụng nên giá trị khấu hao có thể không đủ để tái tạo TSCĐ
mới.
• Các điều kiện tự nhiên và thiên tai như bão lụt, hỏa hoạn… làm tài sản của
doanh nghiệp bị tổn thất, gây khó khăn cho rất nhiều doanh nghiệp và ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng vốn của doanh. Đặc biệt là các doanh nghiệp có sản phẩm chịu tác
động môi trường như: ngành xây dựng, ngành nông nghiệp.
• Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật
Ngày nay tiến bộ khoa học công nghệ phát triển không ngừng, việc áp dụng
những thành tựu đạt được vào hoạt động sản xuất kinh doanh có vai trò vô cùng quan
trọng. Làn sóng chuyển giao công nghệ đã trở nên toàn cầu hoá, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp nâng cao trình độ của mình. hoa học công nghệ sẽ là cơ hội những cũng
là thách thức đối với doanh nghiệp, làm tăng hao mòn vô hình và đòi hỏi công tác đầu

tư đổi mới tài sản.
1.4.2. Các nhân tố chủ quan.
• Trình độ quản lý doanh nghiệp
Để có hiệu quả cao trong công tác quản lý thì bộ máy quản lý phải thực sự gọn và
thực hiện tốt các chức năng của mình, đồng thời phải phối hợp tốt với nhau trong quá
trình thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Mặt khác, trong quá trình tổ chức hạch
Nguyễn Thị Nhàn
20

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
toán, những bộ phận thực hiện nhiệm vụ quản lý và sử dụng vốn, công tác kế toán phải
phát hiện ra những tiềm năng và những tồn tại trong sử dụng vốn để từ đó có những
biện pháp phát huy và khai thác những tiềm năng và những thành tựu về vốn của doanh
nghiệp đồng thời có những biện pháp khắc phục và hạn chế những tồn tại để nâng cao
hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
• Trình độ tổ chức sản xuất:
Công tác quản lý sản xuất cũng có tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu công tác tổ chức sản xuất tốt sẽ làm cho quá
trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và sẽ giảm được những khoản ứ đọng vốn
của doanh nghiệp như hàng tồn kho, nguyên vật liệu dự trữ Từ đó nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
• Tay nghề của người lao động:
Nếu công nhân trong doanh nghiệp có trình độ tay nghề cao đáp ứng được yêu cầu
của dây truyền công nghệ sản xuất thì máy móc của doanh nghiệp sẽ được sử dụng tốt
và do đó nâng cao được năng suất và chất lượng sản phẩm, qua đó nâng cao được hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại trình độ tay nghề của công
nhân thấp không đáp ứng được yêu cầu sản xuất thì máy móc thiết bị sẽ không được
tận dụng hết khả năng, gây lãng phí do hao mòn và làm giảm chất lượng, năng suất lao
động qua đó giảm hiệu quả sử dụng vốn.
• Chế độ lương và cơ chế khuyến khích người lao động:

Đây là những nhân tố tác động đến ý thức, thái độ làm việc của người lao động, có
ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm…từ
đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Bên cạnh tiền lương tiền thưởng người lao
động còn được hưởng các chế độ khác như BHXH, BHYT theo quy định của Nhà
nước. Để tiền lương, tiền thưởng thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế thì các doanh
Nguyễn Thị Nhàn
21

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
nghiệp cần thưởng, phạt nghiêm minh nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh của doanh nghiệp.
• Công nghệ, kỹ thuật sản xuất
Ngày nay khoa học công nghệ phát triển với tốc độ cao làm cho làn sóng chuyển
giao công nghệ ngày càng gia tăng. Điều đó đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp ứng
dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất kinh doanh, là điều
kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang gặp khó khăn về vốn, vì thế
khi quyết định đầu tư mua máy móc thiết bị doanh nghiệp phải lựa chọn mua loại nào
vừa hiện đại vừa phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tránh
sự lãng phí do không sử dụng hết công suất của máy móc thiết bị do không phù hợp
giữa trình độ tay nghề của công nhân và các cán bộ quản lý với sự hiện đại của máy
móc, làm giảm hiệu quả sử dụng đồng vốn đầu tư.
Bên cạnh những thuận lợi do sự phát triển của khoa học công nghệ còn phải kể
đến những bất lợi của nó. Vì vậy, chế độ chính trị có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu tố văn hóa-xã hội như phong tục tập quán,
thói quen sở thích của người tiêu dùng mà doanh nghiệp phục vụ cũng gây ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố
khách quan khác như rủi ro kinh doanh, lợi thế thương mại
• Chu kỳ sản xuất kinh doanh

Chu kỳ sản xuất là yếu tố rất quan trọng gắn liền và có ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi lẽ, độ dài của chu kỳ sản xuất
có ảnh hưởng trực tiếp đến lượng sản phẩm dở dang, đến việc sử dụng công suất của
máy móc thiết bị, đến tình hình luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp. Nếu chu
Nguyễn Thị Nhàn
22

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh
nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Ngược lại, nếu chu kỳ sản xuất
kinh doanh doanh nghiệp dài thì doanh nghiệp cần nhiều thời gian để thu hồi vốn, do
đó hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giảm.
• Đặc điểm sản phẩm
Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng và tạo ra doanh thu cho doanh
nghiệp, qua đó nó là cơ sở để xác đinh lợi nhuận doanh nghiệp. Nếu sản phẩm là mặt
hàng tiêu dùng thiết yếu, giá trị nhỏ thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thu nhanh qua đó sẽ
giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh, hơn nữa máy móc thiết bị có giá trị không lớn
nên doanh nghiệp có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài, có
giá trị lớn và được sản xuất hàngloạt theo dây truyền thì doanh nghiệp thu hồi vốn
chậm. Do đó, doanh nghiệp cần căn cứ vào đặc điểm sản phẩm để có kế hoạch sử dụng
vốn hợp lý và hiệu quả.
1.5. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
trong nước, quốc tế - bài học cho Việt Nam và công ty CP bánh kẹo Hải Hà
Nâng cao hiệu quả vốn kinh doanh là điều mà bất kỳ doanh nghiệp nào đều mong
muốn. Và để thực hiện được mục tiêu này thì việc cần thiết là nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn cố định và vốn lưu động.
Đối với bộ phận vốn cố định giá trị lớn, thời gian chuyển dịch lâu dài thì giải pháp
chung đó là huy động công suất cao, hạn chế máy móc dư thừa và cải tiến công nghệ.
Giải pháp tốt hơn và mang lại hiệu quả nhanh hơn đó là việc nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn lưu động. Chương trình nâng cao hiệu quả vốn lưu động gồm các bước:

• Chỉ thị và truyền đạt: một chương trình tối ưu hóa hiệu quả vốn lưu động nên bắt
đầu đầy mạnh mẽ tại mở đầu chỉ thị của hội đồng quản trị, giám đốc tài chính và
giám đốc điều hành. Quản lý cao cấp nên xác định một cách rõ ràng rằng nâng cao
Nguyễn Thị Nhàn
23

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
hiệu quả sử dụng vốn lưu động là ưu tiên trong toàn doanh nghiệp và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn lưu động có liên quan mật thiết đến hoạt động của từng cá nhân và
toàn doanh nghiệp.
• Cộng tác phối hợp hoạt động trong toàn doanh nghiệp: vì vốn lưu động có liên quan
đến rất nhiều bộ phận trong doanh nghiệp giám đốc tài chính nên hợp tác cùng với
lãnh đạo của các bộ phận khác để cùng nhấn mạnh mục tiêu nâng cao hiệu quả vốn
lưu động trong hệ thống, phân tích và nội quy hoạt động của họ.
• Xác định khoản mục tối ưu hóa và hướng đến chúng một cách vững chắc: có rất
nhiều khoản mục trong doanh nghiệp có thể giúp cải thiện hiệu quả vốn lưu động
như: quản lý hiệu quả hàng tồn kho, dự báo độ lớn từng loại vốn cố lưu động riêng
biệt và cải thiện việc quản lý từng khoản mục vốn lưu động. “Đơn vị phải hiểu được
mức vốn nào là hiệu quả và sử dụng chúng một cách nhất quán” Nnamdi Lowrie,
chủ tịch mảng tư vấn tại Deloitte Consulting LLP người chuyên nghiên cứu về hoạt
động tài chính.
• Đánh giá hiệu quả của lượng vốn đã sử dụng: lượng vốn này nên được xây dựng
trong mục tiêu của chương trình tối ưu hóa và được dùng như một cơ cấu phản hồi
cố định để phòng kế hoạch và phân tích tài chính và bộ tài chính có thể đo lường
hiệu quả và đánh giá tác động ví dụ chi phí sử dụng vốn. Phân tích giữ vai trò quan
trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Ví dụ, những phân tích
này có thể được sử dụng để xác định lượng vốn cần thiết để tài trợ cho quá trình sản
xuất.
• Sắp xếp những động lực với việc cải thiện hiệu quả: để duy trì được hiệu quả sử
dụng vốn lưu động thì nên có những động lực tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản

lý được tập trung và thay đổi. Động lực nên được tạo dựng sẵn sàng trong toàn bộ
công ty một cách vô hình nhưng liên kết với hoạt động của đơn vị và toàn bộ chế độ
Nguyễn Thị Nhàn
24

Học Viện Tài Chính_Lớp Cao học 2012/C9
đãi ngộ song song với tính linh hoạt để điều chỉnh theo các yếu tô bên ngoài mà có
thể tác động mạnh mẽ đến vốn lưu động.
Như chúng ta đều biết, trong nền kinh tế thị trường, sức mạnh cạnh tranh của một
sản phẩm hay của một doanh nghiệp được tạo nên bởi nhiều yếu tố, trong đó việc sử
dụng vốn có hiệu quả như là một yếu tố tổng hợp nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính khi trả lời phỏng vấn tờ thời báo Kinh tế Việt Nam,
tính đến 31/7/2013 tổng thu ngân sách nhà nước mới đạt 429.165 tỷ đồng, bằng 52,6%
dự toán. Một trong những nguyên nhân tác động trực tiếp tới việc thực hiện chỉ tiêu tài
chính - ngân sách này là việc gần 25 nghìn doanh nghiêph ngừng hoạt động tính dến
30/6/2013. Ước cả năm 2013, như báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội Khóa XIII,
Kỳ họp thứ 6 đang diễn ra, thu ngân sách chỉ đạt 96,9% kế hoạch, điều đó càng thấy
được khó khăn của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng còn ở phía
trước. Cũng theo Bộ trưởng Bộ Tài chính với chính sách thuế giá trị gia tăng, thu nhập
doanh nghiệp và thu nhập cá nhân mới được sửa đổi, bổ sung, ngành tài chính dự kiến
sẽ giảm thu ngân sách nhà nước năm 2013 và 2014 hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm,
và số tiền này "sẽ góp phần tạo thêm nguồn vốn cho doanh nghiệp đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh". Trước bối cảnh như vậy, chúng ta càng thấy tác dụng quan trọng của
việc sử dụng đồng vốn trong xã hội nói chung, trong từng doanh nghiệp nói riêng cần
phải tiết kiệm và hiệu quả như thế nào?
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp,
giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín trên thị trường, cải thiện đời sống người lao động,
tạo điều kiện để doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nhờ đó,
doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vào công nghệ hiện đại

để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, đào tạo đội ngũ cán bộ chất lượng tay
nghề cao Vì vậy, càng khó khăn, càng phải sử dụng vốn hiệu quả như là một đồi hỏi
Nguyễn Thị Nhàn
25

×