Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vận dụng tri thức liên môn trong giảng dạy triết học môn GDCD 10 THPT TRIỆU sơn 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.07 KB, 21 trang )

Phần I: Đặt vấn đề
1. Lí do chọn đề tài.
Nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân là một yêu cầu
cơ bản và quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Giáo dục công dân có vai trò to lớn trong việc trang bị cho học sinh
THPT- Những chủ nhân tương lai của đất nước một cách tương đối có hệ
thống những kiến thức phổ thông, cơ bản thiết thực của triết học duy vật
biện chứng, của lí luận chủ nghĩa xã hội và thời đại, về Nhà nước và
pháp luật, về đạo đức và lối sống có đạo đức, những quan điểm xây dựng
đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh, con người ấm no, hạnh phúc.
Đồng thời môn học bước đầu hình thành và bồi dưỡng tư tưởng khoa học
và cách mạng, phương pháp tư duy biện chứng trong cách phân tích,
đánh giá thế giới hiện thực, nhất là hiện tượng xã hội luôn luôn vận động
và biến đổi nhanh chóng đầy phức tạp. Đa dạng sự hình thành đúng dắn
về tư tưởng chính trị, đạo đức của mỗi người công dân và cộng đồng xã
hội. Văn kiện Đại hội VII chỉ rõ: : “Xác định rõ hơn mục tiêu thiết kế nội
dung, chương trình đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, lựa chọn
những nội dung có tính cơ bản, hiện đại. Tăng cường giáo dục công dân,
giáp dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân
tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước.
1
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và hiện đại vào quá trình
đào tạo… ”
Quán triệt nhiệm vụ đó ngành giáo dục và đào tạo thường xuyên quan
tâm, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên, thực hiện đổi mới nội dung và
phương pháp giảng dạy các môn của trường phổ thông, trong đó bộ môn
giáo dục công dân từng bước được coi trọng.
Song để làm được điều đó người giáo viên phải biết sử dụng khéo léo
các phương pháp dạy học, trong đó có vận dụng tri thức liên môn vào
giảng dạy triết học. Vậy cần vân dụng tri thức liên môn như thế nào để


đạt hiệu quả cao ?
Để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn giáo dục
công dân tôi thực hiện đề tài : “Áp dụng tri thức liên môn trong giảng
dạy triết học” Lớp 10.
2.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
2.1 Thực trạng.
Hồ Chí Minh nói “Lí luận rất cần thiết, nhưng nếu học tập không đúng
thì sẽ không có kết quả. Do đó trong học tập lí luận chúng ta cần nhấn
mạnh: Lí luận phải liên hệ với thực tiễn, thống nhất giữa lí luận và thực
tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác Lê Nin. Thực tiễn
không có lí luận hướng dẫn thì thực tiễn mù quáng. Lí luận mà không
liên hệ với thực tiễn là lí luận suông.”
2
Trong những năm qua do yêu cầu khách quan của sự phát triển khoa
học giáo dục, việc nâng cao chất lượng dạy và học đã có sự cải tiến về
nội dung và phương pháp dạy học nhằm đạt hiệu quả cao như phương
pháp dạy học nêu vấn đề, lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy tính
tích cực chủ động lĩnh hội kiến thức của học sinh, phương pháp trực
quạn đàm thoại…đã mang lại hiệu quả đáng mừng. Tuy nhiên nhiều
người nhận thức rằng môn Giáo dục công dân chỉ là môn phụ không thi
tốt nghiệp, đội ngũ giáo viên còn non trẻ chưa có bề dày. Đội ngũ giáo
viên một số chưa được đào tạo chính quy chuyên nghiệp mà là kiêm
nhiệm với môn giáo dục công dân, một số thuyên chuyển từ môn Lịch
sử, Ngoại ngữ, Văn học sang dạy (đặc biệt là ở cấp 2) nên họ không có
đủ thời gian đầu tư và cải tiến phương pháp dạy học cũng từ đó họ đánh
mất vị trí của môn mình trong quan hệ với môn khác trở thành “ môn
phụ ”.
2.2 Kết quả của thực trạng trên.
Chúng ta biết rằng môn giáo dục công dân, một khoa học được khái
quát từ thành tựu khoa học khác của hoạt động vật chất và tinh thần của

con người sẽ luôn được bổ sung những tri thức mới về triết học, về sự
phát triển của xã hội và đời sống xã hội, về đường lối xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, về đạo đức và pháp luật.
Tri thức của triết học là loại tri thức có tính chất khái quát hóa, trừu
tượng hóa rất khó. Song những tri thức đó lại bắt nguồn từ thực tiễn đời
3
sống và phục vụ đời sống. Vì vậy khi học tập nghiên cứu triết học cần
phát huy tính tích cực trong suy nghĩ và hành động, đặc biệt là phải luôn
liên hệ tri thức triết học với các môn khoa học khác.
Tuy nhiên do nhận thức không đúng vai trò nhiệm vụ của bộ môn giáo
dục công dân nên giáo viên lên lớp bằng phương pháp thuyết trình, giáo
viên đọc, học sinh ghi hoặc “phát thanh sách giáo khoa” học sinh chỉ học
thuộc lòng kiến thức được truyền thụ, làm như vậy không tuân thủ khoa
học hiện đại lấy học sinh làm trung tâm nên mang lại hiệu quả thấp. Học
sinh nhận thức mơ màng đặc biệt là tri thức triết học.
Với đặc trưng của bộ môn Giáo dục công dân trong nhà trường THPT là
cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản, phù hợp với lứa tuổi học
sinh về các giá trị đạo đức, pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng,
hình thành và phát triển ở các em tình cảm, niềm tin, những hành vi thói
quen phù hợp với các giá trị đã học, giúp cho học sinh có sự thống nhất
cao giữa ý thức và hành vi. Vì vậy khi giờ lên lớp không sử dụng
phương pháp vận dụng tri thức liên môn vào giảng dạy mà chỉ dung
phương pháp đơn thuần giáo viên hỏi và học sinh trả lời tôi thấy học sinh
tiếp thu bài một cách cứng nhắc, tiết học trầm, học sinh thấy nặng nề,
mệt mỏi, bài giảng không sinh động, học sinh không hứng thú học. Việc
học sinh ghi nhiều, thụ đông trong việc tiếp thu tri thức nên việc nắm
bài không được tốt, vân dụng vào làm bài tập còn hạn chế, kết quả không
cao. Do vậy kiến thức của học sinh thiếu tính hệ thống, thiếu vững chắc,
học sinh chỉ nói lại những điều giáo viên đã cho ghi và ở trong sách giáo
4

khoa. Điều quan tọng là không phát huy được tính tích cực, chủ động
của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức. Sau khi dạy xong bài 3 “ Sự
vận động và phát triển của thế giới vật chất” ở lớp 10C1, 10C2, 10C3,
10C4, tôi đã làm phiếu trắc nghiệm học tập: cho học sinh xác định các
hình thức vận động và phân biệt khái niệm vận động trong triết học và
vận động theo cách hiểu thông thường. Qua kiểm tra kết quả:
Lớp 10C1 Tỉ lệ
%
10C2 Tỉ lệ
%
10C3 Tỉ lệ
%
10C4 Tỉ lệ
%
Sĩ số 53 48 50 53
Số HS
đạt giỏi
1 2 0 0 2 4 1 2
Số HS
đạt khá
14 26 10 21 19 38 18 34
Số HS
đạt TB
26 49 24 50 18 36 27 51
Số HS
đạt yếu
12 23 14 29 11 22 8 13
3. Mục đích, phạm vi, đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu.
5

Phương pháp vận dụng tri thức liên môn tgong giảng dạy triết học môn
Giáo dục công dân lớp 10 nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo và sự
hứng thú cho học sinh trong những giờ học môn Giáo dục công dân.
Phạm vi, đối tượng nghiên cứu .
Phần thứ nhất: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp
luận khoa học môn Giáo dục công dân 10.
Học sinh lớp 10.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Thông qua phương pháp vận dụng tri thức liên môn vào giảng dạy môn
Giáo dục công dân lớp10 để cho giờ học của học sinh đạt hiệu quả cao
nhất, học sinh hứng thú học tập.
Phần II: Nội dung.
1 Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.
1.1 Cơ sở lí luận.
Nhiệm vụ dạy và học là nhiệm vụ quan trọng trong nhà trường. Vậy làm
thế nào để hoạt động dạy và học đạt hiệu quả cao nhất đang là vấn đề đặt
6
ra đối với các nhà quản lí, những người làm công tác giáo dục. Từ năm
2000, việc thay đỏi nội dung chương trình sách giáo khoa và phương
pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học
sinh trong học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập. Đặc biệt năm học
2008- 2009 với chủ đề năm học do Bộ giáo dục và đào tạo đề ra là: “
Năm học ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới công tác quản lí tài
chính. Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.”
Với đặc trưng của mônGDCD ở trường THPT là trang bị cho học sinh
những kiến thức cơ bản về các giá trị đạo đức, pháp luật, đường lối, chủ
trương , chính sách của đảng. Trên cơ sở đó hình thành, phát triển cho
học sinh ý thức, hành vi của người công dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Chương trình môn Giáo dục công dân ở trường THPT được xây dựng

trên cơ sở các môn khoa học cơ bản như: Đạo đức học, Luật học, và
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Môn Giáo dục công dân còn tích hợp nhiều nội dung giáo dục xã hội
cần thiết cho các công dân trẻ tuổi như: giáo dục kỹ năng sống, giáo dục
môi trường, giáo dục giới tính- sức khỏe sinh sản vị thành niên, giáo dục
phòng tránh HIV/AIDS.
Chương trình môn Giáo dục công dân đảm bảo cân đối, hài hòa giữa yêu
cầu trang bị kiến thức với rèn luyện kỹ năng, hành vi, phát triển thái độ
tích cực cho học sinh. Môn Giáo dục công dân không những trang bị cho
7
học sinh kiến thức phổ thông, cơ bản, phù hợp với lứa tuổi học sinh về
các giá trị đạo dức, pháp luật, lối sống mà còn hình thành phát triển ở các
em những tình cảm, niềm tin, những hành vi và thói quen phù hợp với
những giá trị đã học, giúp học sinh có sự thống nhất cao giữa ý thức và
hành vi.
Với những đặc trưng trên nên việc đổi mới dạy học môn giáo dục công
dân cần thực hiện theo các định hướng sau:
Dạy học thông qua các hoạt động, dạy học hợp tác, dạy học dựa trên
cách tiếp cận kỹ năng sống, dạy học gắn với thực tiễn cuộc sống học
sinh.
Việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học
môn Giáo dục công dân nói riêng là vấn đề bức xúc ở các nhà trường
hiện nay. Nó càng trở thành mối quan tâm của các nhà sư pham. Mục
đích của việc đổi mới phương pháp dạy học là phát huy vai trò chủ thể
của học sinh, khả năng tư duy, sáng tạo trong hoạt động học của học
sinh.Vận dụng tri thức liên môn vào phần thứ nhất: công dân với việc
hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa hoc- phần triết học
GDCD 10 giúp học sinh hứng thú học tập, tránh sự nhàm chán, khô khan
khi học các kiến thức về triết học.

1.2 Cơ sở thực tiễn của vấn đề.
Môn Giáo dục công dân từ trước đến nay vẫn bị coi là môn phụ, nên
trong quá trình học tập học sinh không quan tâm, không trú trọng.
8
Trong quá trình học, học sinh có thói quen là tiếp nhận tri thức do giáo
viên truyền thụ một cách thụ động nên học sinh quen tính dựa dẫm, lười
suy nghĩ, hoặc có phát biểu thì lấy nội dung có sẵn trong sách giáo khoa
để trả lời, hoặc phó mặc cho giáo viên.
2 Các giải pháp thực hiện.
2.1 Quan niệm về vận dung tri thức liên môn trong giảng dạy triết học.
Vân dụng tri thức liên môn là phương pháp giáo viên sử dụng các tri
thức của khoa học cơ bản ( khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội ) vào bài giảng triết học.
Tại sao giảng triết học cần phải vận dụng tri thức của khoa học cơ bản ?
Dựa vào mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, các khái niệm,
các quy luật, các nguyên lí triết học đều được khái quát từ khoa học tự
nhiên.
Hệ thống tri thức của khoa học tự nhiên đã chứng minh cho các nguyên
lí triết học là đúng đắn.
Ví dụ: Nguyên lí “Vận động của triết học đã được khái quát từ những
hình thức vận động cơ bản của lĩnh vực vật chất.”
- Vận đông cơ học.
- Vận động vật lí.
- Vận động hóa học.
- Vận động sinh học
- Vân động xã hội.
9
Triết học đưa ra nguyên lí “ vận động ” không thể không khái quát từ
thực tiễn của các ngành khoa học cơ bản. Những hình thức vận động cụ
thể của nguyên tử, điện tử, các vật thể vĩ mô, các vật thể chất rắn, chất

lỏng, chất khí, vận động của các cơ thể sống, thực vật, động vật… tất cả
đều là những tư liệu quan trọng cho triết học khái quát.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử có liên quan đến nhiều khoa học xã hội.
Những nguyên lí và quy luật của triết học duy vật lịch sử được khái quát
từ những tư liệu cụ thể của khoa học xã hội. Do đó khi giảng các nguyên
lí của duy vật lịch sử không thể không dựa vào khoa học xã hội.
Ví dụ: Nguyên lí của sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội trong lịch
sử.
Giảng nguyên lí này phải dựa vào môn lịch sử phát triển của các chế độ
xã hội loài người như thế nào. Dựa vào môn Kinh tế học, Địa lí kinh tế
và kinh tế cụ thể để nêu lên sự biến đổi vật chất của các xã hội, trong đó
có phưng thức sản xuất là quan trọng.
2.2 Phương pháp vận dụng tri thức liên môn như thế nào ?
Vận dụng tri thức của các khoa học cụ thể vào triết học đòi hỏi phải có
sự chuẩn bị chu đáo vì đây là đưa một loai tri thức khác vào để minh
họa, chứng minh cho một luận điểm của triết học. Nếu chọn tri trức đó
không phù hợp sẽ có hại cho bài giảng.
Vậy cần phải làm gì ?.
Ví dụ: Giảng khái niệm vật chất, vận động, không gian, thời gian có liên
quan tới :
10
+ Vật lí học.
- Cấu trúc của nguyên tử, điện tử, hạt nhân nguyên tử nhắm giải thích vật
chất là vô cùng quan trọng, nguyên tử chưa phải là phần tử bé nhất vì
trong đó còn có những hạt proton, elêctrong và nơtrong.
- Vận động của vật chất phải dựa vào các dạng vận động của các cơ thể
ở các lĩnh vực vật chất.
+ Cơ học: Sự di chuyển trong không gian, thời gian của vật thể.
+ Vật lí học : sức hút, súc đẩy, sự giản nở, sự bay hơi, sự đông đặc, vận
động của nguyên tử, vận động của trái đất, các hành tinh.

+ Hóa học: sự hóa hợp của các chất vô cơ, sự phân giải các chất.
+ Sinh học : Sự đồng hóa, dị hóa, sự trao đổi chất giữa cơ thể và môi
trường, sự đột biến gien…
+ Xã hội học : Sự vận động của lực lượng sản xuất trong đó có công cụ
lao động biến đổi từ thô sơ đến hiện đại.
Giảng các quy luật cơ bản của phép biện chứng cũng đưa ra các tri thức
cụ thể để minh họa:
Quy luật mâu thuẫn:
+Toán học: mâu thuẫn số âm và số dương
Phép nhân và phép chia
+ Vật lí học: mâu thuẫn sức hút và sức đẩy.
Mâu thuẫn giữa điện âm và điện dương.
+ Hóa học: mâu thuẫn giữa sự hóa hợp và phân giải.
+ Sinh học: mâu thuẫn giữa di truyền và biến dị
11
Mâu thuẫn giữa đồng hóa và dị hóa.
+ Xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
Mâu thuẫn giữa thống trị và bị trị.
Mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dung.
Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Quy luật lượng đổi chất đổi.
Vận dụng tri thức liên môn:
- Toán học: Sự tăng lên về số lượng (bằng con số) đến một giới hạn
nhất định (độ) thì sẽ có sự biến đổi về chất.
Sự thay đổi các đại lượng trong hình học cũng tạo nên sự biến đổi về
chất. Ví dụ: hình chữ nhật chiều dài 20cm, chiều rộng 10cm người ta
tăng và giảm chiều rộng theo hai phía. Nếu tăng chiều rộng từ 10cm lên
20cm thì hình chữ nhật sẽ trở thành hình vuông, chất mới là hình vuông.
Nếu giảm chiều rộng từ 10cm xuống 0cm nó sẽ biến thành đường thẳng,
chất mới là đường thẳng.

- Quá trình học ngoại ngữ chính là quá trình tích lũy về lượng (tích lũy
từ ngữ) chuẩn bị cho sự nhảy vọt, biến đổi về chất.
- Hóa học:
O +O → O
2
(Oxi)
O
2
+ O → O
3
(Ozon)
C
2
H
4
+ H
2
→ C
2
H
6
(etan)
C
3
H
6
+ H
2
→ C
3

H
8
(propan)

C
4
H
8
+ H
2
→ C
4
H
10
(butan)
12
Lịch sử:
Phong trào cách mạng Việt Nam qua các cao trào (1930-1931); (1939-
1945); 1954 chiến thắng và hòa bình ở miền Bắc, năm 1975 giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là quá trình phát triển liên tục về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Giảng về nguyên lí sự phát triển của thế giới.
Vận dụng các tri thức liên môn để minh hạo cho sự phát triển của thế
giới.
Cơ sở tự nhiên như:
+ Thuyết thiên văn: sự hình thành của vũ trụ.
+ Thuyết cấu tạo nguyên tử.
+ Thuyết tế bào.
+ Thuyết Oparin về hình thành sự sống.
+ Thuyết tiến hóa sinh vật của Đac Uyn về quá trình tiến hóa của sinh

vật tuân theo các quy luật:
- Biến dị và di truyền.
- Chọn lọc tự nhiên.
- Chọn lọc nhân tạo.
- Sự đột biến gien.
+ Quá trình lao động chuyển hóa từ vượn thàng người: Nguồn gốc của
loài người: từ loài vượn. Mốc đánh dấu vượn trở thành người là: xuất
13
hiện hai bàn tay, từ đó con người đã có sự biến đổi về chất. Với hai bàn
tay đó con người đã tạo ra công cụ sản xuất tác động vào thiên nhiên để
tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu của mình. Sau đó xuất hiện ngôn
ngữ ( tín hiệu thứ hai) óc con người phát triển đã làm tăng khả năng khai
thác và cải biến giới tự nhiên.
+ Phê phán quan điểm duy tâm tôn giáo.
- Các truyện thần thoại Trung Hoa: Chuyện “ Bàn Cổ ”. Bàn Cổ tạo ra
đất, Phục Hi tạo ra muôn loài vật. Nữ Oa nặn đất sét và thổi linh hồn vào
đó, tạo ra con người.
- Thần thoại Hi Lạp.
Thần “Giép” dùng đất sét năn ra con người, thần “A phi na” tạo ra sự
sống và muôn vật.
- Thần thoại Ai Cập.
Thần “ Khô Man ” cũng lấy đất sét nặn ra con người.
- Kinh thánh Thiên Chúa Giáo: Chúa tạo ra trời, đất, sông, biển, núi
non, các loài vật, con người trong 7 ngày. Nặn ra người dàn ông đầu tiên
là Ađam. Sau đó lấy xương sườn của Ađam tạo ra người đàn bà là Eva.
Sau đó họ sinh con đẻ cái trên mảnh đất đầy hoa và lương thực.
Cơ sở xã hội như:
+ Lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất từ thô sơ đến hiện đại.
- Công cụ lao động bằng đá.
- Công cụ bằng sắt, đồng, hợp kim.

- Cối xay bằng sức gió.
14
- Cối xay bằng máy hơi nước.
- Công cụ bằng phương tiện nguyên tử, điện tử, tin học.
2 Những biện pháp tổ chức thực hiện.
- Phải xác định rõ chủ đề của bài giảng có liên quan tới loại tri thức
khoa học cụ thể nào ?
Tri thức khoa học cụ thể đó bản thân người giáo viên đã có và cái chưa
có cần trang bị mới.
- Khi trích dẫn các tư liệu khoa học cụ thể phải có nguồn trích chính
xác. Mức độ sử dụng tri thức cụ thể vừa phải ( không quá nhiều và cũng
không quá ít). Dùng đúng chỗ và đúng lúc.
- Tránh khuynh hướng dài dòng quá say sưa đi vào các chi tiết sẽ làm
loãng những kiến thức cần cung cấp cho học sinh. Đối các tri thức học
sinh chưa học cần phải tránh để khỏi gây sự phức tạp cho bài giảng.
- Cần có những thông tin mới, hiện đại, tính cập nhật, tính thời sự
nhằm hấp dẫn đối tượng.
Tóm lại: phương pháp vận dụng tri thức liên môn là phương pháp mới
hiện nay đối với triết học. Sử dung phương pháp đó có cơ sở khoa học
của nó, chứ không phải sự áp đặt, sự “tùy tiện” ngẫu hứng. Sử dụng
phương pháp này có hiệu quả đối với bài giảng. dung phương pháp vận
dung tri thức liên môn là phương tiện đi đến nội dung.
15
Phần 3 Kết luận.
Kết quả nghiên cứu.
Trong quá trình giảng dạy tôi đã áp dụng phương pháp vận dụng tri thức
tri thức liên môn vào giảng dạy triết học ở các lớp 10C1, 10C2, 10C3,
10C4 tôi thấy bài giảng sinh động, không cứng nhắc, học sinh tích cực
tham gia ý kiến xây dựng bài theo hướng chủ động, không khí thoải mái
học sinh bớt đi mệt mỏi khi học các kiến thức về triết học, khắc phục

được tình trạng độc thoại của giáo viên, giờ học với sự định hướng,
hướng dẫn của giáo viên, học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức bài học,
tiếp thu bài học nhanh, củng cố khắc sâu đơn vị kiến thức đã học, học
sinh hứng thú học. khắc phục được tính lười, ỷ lại của học sinh, kiến
thức được hình thành có hệ thống, vững chắc bởi đó là kiến thức do các
em tìm ra. Tránh khuynh hướng về tuyên truyền thuyết minh có phần coi
nhẹ tri thức của môn học, sự thiên lệch này có ảnh hưởng không tốt đến
chất lượng giáo dục.
Kết quả cụ thể: Sau khi dạy xong bài 3 “ Sự vận động và phát triển của
thế giới vật chất” ở lớp 10C4, 10C5, 10C6, 10C7, tôi đã làm phiếu trắc
nghiệm học tập: cho học sinh xác định các hình thức vận động và phân
biệt khái niệm vận động trong triết học và vận động theo cách hiểu
thông thường. Qua kiểm tra kết quả:
16
Lớp 10C4
Tỉ lệ
%
10C5
Tỉ lệ
%
10C6
Tỉ lệ
%
10C7 Tỉ lệ %
Sĩ số 53 48 50 53
Số HS
đạt giỏi
3 6 2 4 4 8 4 9
Số HS
đạt khá

18 34 14 29 19 38 20 38
Số HS
đạt TB
27 51 28 58 22 44 25 47
Số HS
đạt yếu
5 9 4 8 5 10 4 6
Với đặc trưng của bộ môn Giáo dục công dân là dạy học phải gắn với
thực tế cuộc sống, với những vấn đề của xã hội. tri thức của triết học là
loại tri thức có tính chất khái quát hóa, trừu tượng hóa rất cao. Song
những tri thức đó lại bắt nguồn từ thực tiễn đời sống và phục vụ dời
sống. Vì vậy khi học tập, nghiên cứu cần phát huy tính tích cực trong
suy nghĩ và hành động. Để làm được điều đó cần phải có sự chuẩn bị chu
đáo vì đây là đưa loại tri thức khác vào để minh họa, chứng minh cho
luận điểm của triết học. Nếu chọn tri thức không phù hợp sẽ có hại cho
bài giảng đồng thời để phát huy tối đa mặt tích cực của phương pháp,
cần sử dung tri thức khoa học cụ thể, vừa phải, đúng lúc, đúng chỗ
17
Áp dụng phương pháp vận dụng tri thức liên môn trong giảng dạy triết
học là bước chuyển biến tích cực. Nó đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo theo tinh thần của văn kiện đại hội
Đảng lần thứ VII đặt ra cho ngành giáo dục. Vì thế đòi hỏi sự cố gắng
cùa cả ngành giáo dục và đào tạo, của các thầy cô giáo đang trực tiếp
giảng dạy bộ môn này. Muốn đưa bộ môn Giáo dục công dân tìm thấy
xứng đáng thì mỗi cá nhân chúng ta góp phần nhỏ bé cùa mình vào việc
nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn.
Trên đây là kinh nghiệm của bản thân về sử dụng tri thức liên môn trong
giảng dạy triết học, môn giáo dục công dân 10, những kinh nghiệm này
được đúc rút từ thực tế bộ môn và thông qua các tiết dự giờ của đồng
nghiệp cũng như trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Rất mong được

sự đóng góp của các đồng chí, đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm
2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
18
Trần Thị Hiền
Mục lục.
PhầnI. Đặt vấn Trang1
1. Lí do chọn đề tài Trang 1
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Trang 1
2.1 Thực trạng Trang 1
2.2 Kết quả của thực trạng trên Trang 2- 3
3 Mục đích, phạmvi, đối tượng nghiên cứu Trang 3- 4
19
Phần II Nội dung trang 4
1 Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn trang4
1.1 Cơ sở lí luận trang 4- 5
1,2 Cơ sở thực tiễn trang 5
2. Các giải pháp thực hiện. Trang 5
2.1. Quan niệm về vận dung tri thức liên môn… Trang 5
2.2.Phương pháp vận dụng tri thức liên môn … Trang 5- 8
3. Những biện pháp tổ chức thực hiện Trang 8
C Kết luận Trang 8- 10
20
Tài liệu tham khảo
- Sách giáo khoa, GDCD 10 của Nhà xuất bản giáo dục.

- Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn GDCD 10 của nhà xuất bản
Đại học sư phạm
- Bồi dưỡng thường xuyên chu kì III.
- Một số phương pháp dạy học của Nhà xuất bản Đại học sư phạm
21

×