MỤC LỤC
i
DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1: Tình hình HCRLHH và SS xảy ra tại trại lợn Tốn 2, Lục Ngạn, Bắc
Giang năm 2010 Error: Reference source not found
Bảng 4.2: Kết quả điều tra số lần phối giống sau dịch của những lợn cái trong đàn
xảy ra Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản được giữ lại để sản xuất con giống
Error: Reference source not found
Bảng 4.3: Kết quả điều tra về thời gian động dục lại của những lợn cái trong đàn
bị Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản được giữ lại sản xuất con giống 40
Bảng 4.4: Kết quả điều tra về tình trạng sinh sản sau dịch của những nái trong đàn
xảy ra Hội chứng hô hấp và sinh sản được giữ lại để sản xuất con giống Error:
Reference source not found
Bảng 4.5: một số chỉ tiêu và chất lượng đàn con của cái hậu bị trong đàn xảy
ra HCRLHH và SS được sản xuất con giống Error: Reference source not found
Bảng 4.6: Một số chỉ tiêu về khả năng sinh sản và chất lượng đàn con của nái chờ
phối giống trong đàn xảy ra HCRLHH và SS được giữ lại sản xuất con giống 45
Bảng 4.7: Một số chỉ tiêu về khả năng sinh sản và chất lượng đàn con của nái bị
bệnh (sảy thai, đẻ non, thai chết lưu ,) trong đàn xảy ra HCRLHH và SS được
giữ lại để sản xuất con giống 46
Bảng 4.8: So sánh khả năng tăng trọng của lợn con cai sữa trước và sau
HCRLHH và SS Error: Reference source not found
ii
DANH MỤC HÌNH
iii
DANH MỤC CHỬ VIẾT TẮT
HCRLHH và SS: Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản
PRRS: Porcine respriratory and reproductive syndromes
PRRSV: Porcine Repproductive and Repirstory syndromes virus
iv
Phần I
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO nước ta đã và đang
phát triển mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực, nghành nghề. Trong nông
nghiệp ngành chăn nuôi vẫn đang dẫn đầu và dần chuyển dịch cơ cấu từ chăn
nuôi truyền thống (chăn nuôi nhỏ lẻ, hộ gia đình) sang chăn nuôi quy mô trang
trại và đã cung cấp một lượng thịt lớn cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Lợn là loài được nuôi phổ biến nhất nước ta hiện nay và đã cung cấp
cho thị trường một lượng thịt lớn nhất chiếm tỷ lệ khoảng 70,4% - 76,8%.
Một vài năm gần đây, kinh tế toàn cầu đang lâm vào tình trạng khủng
hoảng, giá các mặt hàng leo thang, cùng thời điểm này dịch bệnh xảy ra hết
sức phức tạp trong đó đặc biệt là bệnh tai xanh (hay còn gọi là hội chứng rối
loạn hô hấp và sinh sản, PRRS).
Hội chứng hô hấp và sinh sản ở lợn là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy
hiểm ở lợn. Bệnh có tốc độ lây lan nhanh trên đàn lợn ở mọi lứa tuổi, tỷ lệ ốm
và tỷ lệ loại thải cao gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi của nhiều quốc gia
trên thế giới.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên phát hiện huyết thanh dương tính với PRRS
trên đàn lợn nhập khẩu từ Mỹ năm 1997. Sau nhiều năm không có dịch đến
đầu tháng 3 năm 2007 lần đầu tiên dịch bệnh đã bùng phát dữ dội tại tỉnh Hải
Dương, sau đó lan nhanh sang các tỉnh như Hải Phòng, Thái Bình, Hưng Yên,
Bắc Ninh, Bắc Giang và Quảng Ninh. Cho đến nay dịch đã bùng phát rộng
khắp trên ba miền của cả nước và gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cũng như
vấn đề về an ninh cho các địa phương này.
Cho đến nay dịch bệnh vẫn còn xảy ra và diễn biến phức tạp cho ngành
chăn nuôi lợn ở Việt Nam nói riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung.
Bệnh lây lan nhanh và diễn biến phức tạp làm chết nhiều lợn chủ yếu là do
nhiễm trùng kế phát gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi và nền kinh tế nói chung.
1
Lợn ở các lứa tuổi đều có thể cảm nhiễm virus, tại các cơ sở chăn nuôi với
quy mô lớn bệnh thường lây lan rộng tồn tại lâu dài trong đàn nái. Do vậy thực tế
các biện pháp khống chế thanh toán dịch gặp rất nhiều khó khăn. Lợn nái thường
truyền mầm bệnh cho bào thai gây sẩy thai, thai chết lưu và lợn chết yểu với tỷ lệ
rất cao.
Việc nắm rõ tình hình, những di chứng để lại đối với đàn nái và đực giống
sau khi dịch xảy ra là một trong những khâu quan trọng trong công tác phòng
chống dịch nhằm giảm thiểu tổn thất không đáng do bệnh gây ra trong chăn nuôi.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế trên, chúng tôi tiến hành
thực hiện đề tài:
“Ảnh hưởng của hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản đến khả năng
sinh sản của đàn lợn sau dịch tại trại lợn Tốn 2, Lục Ngạn, Bắc Giang và
biện pháp phòng bệnh”
1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỂ TÀI
Xác định những di chứng sau dịch đối với những lợn cái trong đàn lợn
mắc hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản tại trại Tốn 2, Lục Ngạn, Bắc
Giang.
Trên cơ sở dữ liệu nghiên cứu đề xuất phương án phòng chống dịch
bệnh hiệu quả.
1.3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN ĐỀ TÀI
- Từ kết quả đạt được góp phần làm rõ tình hình hội chứng rối loạn hô
hấp ở đàn lợn nái hậu bị và nái sinh sản.
- Khẳng định những ảnh hưởng lâu dài của bệnh đến khả năng sinh sản
của lợn cái sau dịch.
- Kết quả của đề tài sẽ là cơ sở khoa học cho việc xây dựng những biện
pháp phòng chống dịch có hiệu quả giúp cho cơ sở sản xuất con giống nên
hay không nên tiếp tục giữ lại những nái khỏi bệnh lâm sàng, nái nghi lây
bệnh để làm giống.
2
Phần II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. HỘI CHỨNG RỐI LOẠN HÔ HẤP VÀ SINH SẢN - PRRS
2.1.1. Khái quát chung
Cho đến nay trải qua hơn 21 năm kể từ khi phát hiện ra hội chứng rối
loạn hô hấp và sinh sản trên đàn lợn tại Mỹ, dịch bệnh này đã lan tràn và để
lại hậu quả nghiêm trọng về kinh tế cho ngành chăn nuôi lợn trên thế giới.
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (Porcine Respirotory and
Reproductive Syndrome – PRRS) được ghi nhận đầu tiên trên thế giới năm
1987 ở Mỹ tại vùng Bắc của bang California, bang Iowa và Minnesota. Năm
1988 bệnh lan sang Canada. Sau đó bệnh lan sang Đức năm 1990, Hà Lan,
Tây Ban Nha, Bỉ và Anh 1991 và Pháp năm 1992.
Bệnh bùng phát và gây rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn mọi lứa tuổi
với các triệu chứng chủ yếu bỏ ăn hàng loạt, hắt hơi, sổ mũi, tăn tần số hô
hấp, thở khó, há mồm ra để thở. Lợn con thường có tỷ lệ chết cao, lợn lớn
thường có tỷ lệ chết thấp hơn nhưng thường bị bội nhiễm thêm các loại vi
khuẩn gây các bệnh khác đặc biệt là các bệnh về đường hô hấp. (Phạm Gia
Ninh biên dịch, 2000) [12]. Bệnh lây nhanh với các rối loạn đặc trưng ở lợn
nái sinh sản là sảy thai, thai chết lưu, thai gỗ, lợn sơ sinh chết yểu. Theo FAO,
PRRS là bệnh không lây truyền sang gia súc khác và con người.
Kể từ khi xuất hiện đến nay bệnh được gọi với nhiều tên gọi khác nhau.
Thời gian đầu do chưa xác định được nguyên nhân gây bệnh nên người ta gọi
là bệnh bí hiểm ở lợn (Mystery swine disease – MDS), một số tác giả khác
căn cứ vào bệnh tích tai nên gọi là bệnh tai xanh (Blue Ear Disease – BED)
hoặc căn cứ vào hậu quả dịch bệnh gây ra gọi là hội chứng hô hấp và sảy thai
ở lợn (Porcine endemic abortion and respiratory syndrome – PEARS)
Đến 1992 tại hội nghị quốc tế về hội chứng này tổ chức tại Minesota
(Mỹ), tổ chức thú y thế giới (OIE) đã thống nhất tên gọi là hội chứng rối loạn
3
hô hấp và sinh sản ở lợn (Porcine respiratory and reproductive syndrome –
PRRS). Kể từ đó cho đến nay tên này trở thành tên chính thức của bệnh.
2.1.2. PRRS virus
2.1.2.1. Phân loại
PRRS virus (PRRSV) thuộc họ Arteviriviridae, tên họ virus này được
bắt nguồn từ một loại virus trong họ đó là virus gây viêm động mạch ngựa
(Equine arteritis virus). Các thành viên trong họ arteriviridae chỉ bằng 1/2 bộ
gen của Coronaviridae và nát đặc trưng của chúng là bản sao mã giống nhau
của lớp Nidoviral.
Năm 1991, viện thú y Lelystad (Hà Lan) đã phân lập thành công virus
gây hội chứng rôi loạn hô hấp và sinh sản, sau đó là Mỹ, Đức. Ngày nay virus
được gọi là Lelystad virus để ghi nhớ sự kiện nơi đầu tiên virus được phân
lập. Tuy nhiên PRRSV vẫn là tên gọi phổ biến.
PRRSV có 2 chủng nguyên mẫu (Prototype), chủng Bắc Mỹ là virus
VR2332 và chủng Châu Âu là Lelystad virus (LV). Những nghiên cứu gần
đây còn cho thấy sự khác biệt về tính di truyền trong các virus phân lập được
từ các vùng địa lý khác nhau. Bàn thân về các virus trong cùng một nhóm
cũng có sự thay đổi về chuỗi nucleotit khá cao (đến 20%), đặc biệt là các
chủng virus thuộc dòng Bắc Mỹ.
Chính sự khác biệt và sự đa dạng về tính kháng nguyên, khả năng biến
đổi cấu trúc kháng nguyên của virus đã làm tăng thêm việc sản xuất vaccin
chống lại nó. Điều cần lưu ý nữa là ở một số quốc gia căn bệnh lưu hành ở
đàn lợn gồm cả hai dòng virus: Bắc Mỹ và Châu Âu.
Khả năng gây bệnh là một đặc tính sinh học quan trọng của mầm bệnh
nó phụ thuộc độc lực của chính nguyên nhân gây bệnh đó. Mầm bệnh có độc
lực càng cao thì khả năng gây bệnh càng lớn và ngược lại. Các kết quả nghiên
cứu về mầm bệnh cho thấy:
Virus gây bệnh PRRS chỉ gây cho lợn, lợn ở tất cả các lứa tuổi đều mắc
nhưng lợn con và lợn nái mang thai thường mẫm cảm hơn cả. Loài lợn rừng
4
cũng mắc bệnh đây có thể coi là nguồn dịch thiên nhiên. (Tô Long Thành,
2007)[16]
Về mặt độc lực, người ta thấy virus gây hội chứng rối loạn sinh sản và
hô hấp tồn tại dưới 2 dạng:
Dạng cổ điển: có độc lực thấp ở dạng này khi lợn mắc bệnh có tỷ lệ
chết thấp chỉ từ 1 – 5% trong tổng đàn.
Dạng biến thể độc lực cao: gây nhiễm và chết nhiều lợn. Người và các
động vật khác không mắc bệnh, tuy nhiên trong các loài thủy cầm chân màng,
vịt trời lại mẫm cảm với virus. Virus gây bệnh rối loạn sinh sản và hô hấp có
thể nhân lên ở loài động vật này và chính là nguồn reo rắc mầm bệnh rất khó
khống chế.
2.1.2.2. Cấu trúc
Các nghiên cứu về cấu trúc virus cho thấy, virus PRRS có hình cầu, có
vỏ bọc ngoài với đường kính Virion 45 – 55 nm, Nucleocapsid có đường kính
30 – 35nm, là một ARN virus, với bộ gen là một phân tử ARN sợi đơn dương,
có những đặc điểm chung của nhóm Artervirus. Sợi ARN có kích thước
khoảng 15 kilobase, có 9 ORF (Open Reading Frame) mã hóa cho 9 protein
cấu trúc. Tuy nhiên có 6 phân tử protein chính thức có khả năng trung hòa
kháng thể bao gồm 4 phân tử glycoprotein, 1 phân tử protein màng (M), một
phân tử vỏ nhân virus (N), nhưng hoạt động trung hòa xảy ra mạnh với các
protein có khối lượng phân tử 45, 31 và 25 KD. (Tô Long Thành, 2007) [16]
2.1.2.3. Cơ chế
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, đích tấn công virus PRRS là các đại thực
bào. Đây là tế bào duy nhất có receptor phù hợp với cầu trúc hạt virus vì thế
virus hấp thụ và thực hiện quá trình nhân lên chỉ trong tế bào này và phá hủy
nó. Một tỷ lệ lớn đại thực bào trong phế nang phổi bị virus tấn công rất sớm.
(Nguyễn Bá Hiên va cs, 2007)[6]
Lúc đầu virus gây hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản có thể kích
thích các tế bào này nhưng sau 2 hoặc 3 ngày virus có thể giết chết chúng, các
5
virion được giải phóng và ồ ạt xâm nhiễm sang các tế bào khác. Ở giai đoạn
đầu quá trình xâm nhiễm của PRRSV dường như hiệu giá chống lại các virus
và các vi khuẩn không liên quan khác trong cơ thể tăng cao do sự kích thích
của đại thực bào trong hệ thống miễn dịch. Điều này rất dể gây ra sự nhầm lẫn
trong việc đánh giá mức độ miễn dịch đối với các bệnh truyền nhiễm ở cớ thể lợn.
Có thể nói rằng cơ chế gây bệnh PRRS tương tự như cơ chế gây bệnh
AIDS ở người và bệnh Gumbro ở gà. Nếu chỉ có virus PRRS câm nhập vào
cơ thể lợn thì lợn không biểu hiện triệu chứng nhưng do có hàng loạt các vi
khuẩn khác sẵn có trong các cơ quan hoặc xâm nhập từ bên ngoài vào sau khi
hệ thống miễn dịch của cơ thể bị suy giảm, hoạt động gây bệnh làm cho cơ
thể bị suy giảm, hoạt động gây bệnh làm cho cơ thể lợn xuất hiện hàng loạt
bệnh kế phát.
Có nhiều báo cáo về nhiễm trùng kế phát ở đàn lợn trong ổ dịch PRRS
đặc biệt là ở chuồng lợn nuôi sơ sinh. Tác nhân chủ yếu liên quan đến
nhiễm trùng kế phát là vi khuẩn: Haemophilus parasuis, Mycoplasma
hyopneumoniae, E.coli, Clostridium spp, Pestis virus, Bordetella
bronchiseptica, Streptococcus suis typ 2, Salmonella choleraesuis,
Pasteurella multocida, Actinobacillus …
Tại cơ quan sinh dục, vurus xâm nhập gây viêm buồng trứng, viêm
niêm mạc tử cung và âm đạo. Do vậy lợn nái nhiễm virus thường bị rối loạn
chu kỳ rụng trứng nên không thể phối giống được
Ở những lợn nái mang thai virus xâm nhập và gây ra rối loạn hô hấp
chính nguyên nhân này làm cho việc cung cấp oxy tới bào thai bị tối loạn dẫn
đến hiện tượng sảy thai, đẻ non, chết lưu, thai gố …
Ở lợn đực giống virus xâm nhập vào dịch hoàn gây viêm dịch hoàn, tuy
nhiên các dấu hiệu lâm sàng không thể hiện rõ.
6
2.1.2.4. Dịch tể
- Chất chứa virus
Virus có trong dịch mũi, nước bọt, phân, nước tiểu , máu, tinh dịch, hơi thở,
sữa và sữa đầu của lợn ốm hoặc lợn mang trùng và phát tán ra môi trường.
Tình hình của lợn đực giống cũng được là nguồn phát tán mầm bệnh,
virus ở tinh dịch cũng có thế lây sang bào thai.
Ở lợn mẹ mang trùng virus có thể lây qua bào thai từ giai đoạn giữa
thai kỳ trở đi và virus cũng được đào thải qua nước bọt và sữa.
Lợn trường thành có thể đào thải virus trong vòng 14 ngày trong khi
đó lợn con và lợn choai có thể đào thải virus tới 1 – 2 tháng.
- Con đường truyền lây
Virus có khả năng phát tán thông qua hình thức vận chuyển lợn mang
trùng có thể đi theo chiều gió (có thể đi xa 3km) bụi, giọt nước, dụng cụ bảo hộ
lao động nhiễm trùng, dụng cụ thụ tinh nhân tạo và có thể là chim hoang dã …
Lợn mẫm cảm với PRRSV theo nhiều đường: miệng, mũi, tiêm truyền
phúc mạc và âm đạo …
Virus có thể bài thải qua nước bọt, nước tiểu, tinh dịch, sữa, phân.
Virus bài thải qua nước tiểu đến 43 ngày, nước mũi, nước mắt 14 ngày, tinh
dịch 43 ngày. Trong cơ thể vật chủ, virus tồn tại lâu (phát hiện được virus từ
mẫu họng sau 157 ngày làm thí nghiệm).
Virus truyền lây theo chiều dọc trong suốt giai đoạn giữa đến giai đoạn
cuối của thời kỳ mang thai và truyền ngang qua tiếp xúc trực tiếp giữa thú
nhiễm bệnh và thú mẫn cảm cũng như truyền lây từ tinh dịch của lợn nhiễm bệnh.
Truyền lây gián tiếp thông qua dụng cụ, thiết bị chăn nuôi: thức ăn,
nước uống, ủng, dày dép, quần áo bảo hộ, thùng bảo quản lạnh, kim tiêm …
và các phương tiện vận chuyển có mang virus PRRS là một đường lây lan cơ
học tiềm năng. Virus có thể theo gió tới 3 km do đó virus có thể phát tán rất
rộng thông qua lợn ốm, lợn mang trùng.
7
Trong các đường lây nhiễm trên đường lây nhiễm qua tinh trùng là
nguy hiểm hơn cả vì trong chăn nuôi lợn công tác thụ tinh nhân tạo là phổ
biến hiện, trong khi đó công tác kiểm dịch tinh dịch vận chuyển tinh dịch có
nhiều bất cập. Vận chuyển, mua bán lợn bệnh ra ngoài vùng có dịch. Nếu một
con đực giống bị nhiễm thì chỉ tính trong một lần khai thác tinh đã lây bệnh
cho 40 – 50 con lợn nái. (Nguyễn Văn Thanh, 2007)[17]
2.2. TRIỆU CHỨNG
Theo ghi nhận của nhiều nghiên cứu về các triệu chứng lâm sàng của
lợn mắc hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản cho thấy lợn bệnh thường có
các triệu chứng đầu tiên là sốt cao, bỏ ăn, mẫn đỏ da, thở khó, táo bón hoặc ỉa
chảy và một số triệu chứng khác tùy thuộc vào bệnh kế phát và từng loại lợn.
2.2.1. Lợn nái mang thai
Trong tháng đầu tiên nhiễm virus, lợn biếng ăn từ 7 – 14 ngày, sốt cao
từ 39 – 40
o
C . Sẩy thai thường vào giai đoạn cuối. Tai chuyển màu xanh trong
thời gian ngắn. Đẻ non, động dục giả (3 – 5 tuần sau thụ tinh), đình dục hoặc
chậm động dục lại sau khi đẻ. Ho có dấu hiệu của viêm phổi.
Các triệu chứng chủ yếu là tím âm hộ, sẩy thai, chết lưu, thai gỗ hàng
loạt, đẻ non, lợn đẻ ra yếu ớt, tỷ lệ tử vong cao. Tỷ lệ thai chết tăng lên theo
độ tuổi của thai: thai dưới 2,5 tháng tuổi tỷ lệ chết 20%, thai trên 2,5 tháng tỷ
lệ chết thai là 93,75% (Phạm Ngọc Thạch và cs, 2007)[18]
2.2.2. Lợn nái nuôi con
Lợn biếng ăn, lười uống nước, mất sữa và viêm vú đây là triệu chứng
điển hình ở đối tượng lợn này. Lợn đẻ sớm khoảng 2 – 3, da biến màu lờ đờ
hoặc hôn mê, thai dỗ (thai chết trong 3 – 4 tuần cuối của thai kỳ ). Lợn con
chết ngay sau khi sinh, nếu còn sống thì yếu ớt, chết yểu, tai chyển màu xanh
và duy trì trong vài giờ.
Pha cấp tính kéo dài trong đàn đến 6 tuần, điển hình là đẻ non, tăng tỷ
lệ thai chết hoặc yếu, tăng thai gỗ, thai chết lưu trong giai đoạn 3 tuần cuối
trước khi sinh. Ở một vài đàn, con số này có thể lên tới 30% số lợn con được
8
sinh ra. Tỷ lệ chết ở đàn con có thể lên tới 70% ở tuần thứ 3 – 4 sau khi xuất
hiện triệu chứng. Rối loạn sinh sản có thể kéo dài 4 – 8 trước khi trở lại bình
thường. Ảnh hưởng dài lâu của PRRS tới việc sinh sản là rất khó đánh giá,
đặc biết đối với những đàn có tình trạng sức khỏe kém. Một số đàn có biểu
hiện tăng số lần phối giống lại, sẩy thai.
2.2.3. Lợn đực giống
Triệu chứng chủ yếu là viêm dịch hoàn, bìu dái nóng đỏ (chiếm 95%),
dịch hoàn sưng đau, lệch vị trí (85%), giảm tính hưng phấn khi giao phối. (Lê
Văn Năm, 2007)[13].
Lợn đực giống giảm hứng phấn hoặc mất tính dục, lượng tinh dịch ít
chất lượng tinh dịch kém, thể hiện nồng độ tinh trùng (C) thường dưới 80.10
6
,
hoạt lực tinh trùng (A) < 0,6, sức kháng của tinh trùng (R) < 3000, tỷ lệ kỳ
hình (K) tăng trên 10%, tỷ lệ sống của tinh trùng giảm xuống còn dưới 70%
và độ nhiễm khuẩn tăng cao trên 20.10
3
. Lợn đực giống rất lâu mới hồi phục
được khả năng sinh sản. (Nguyễn Văn Thanh và cs, 2007)[17].
2.2.4. Lợn con theo mẹ
Thể trạng gầy yếu, triệu chứng phát ra đột ngột, đường huyết hạ thấp
do không bú mẹ, mi mắt sưng, có dử màu nâu, trên da xuất hiện những đám
phồng rộp. (Nguyễn Văn Thạch và cs, 2007)[18]
Lợn con thường tiêu chảy và hàng loạt và rất nặng, phân dính đầy xung
quanh hậu môn. Đây là triệu chứng đặc trưng của PRRS ở lợn con chưa cai
sữa, biểu hiện này không biểu hiện ở lợn lớn. Phát ban đỏ là biểu hiện phổ
biến thứ 2 và xảy ra ngay sau khi bệnh bắt đàu xuất hiện: chảy nước mắt, mắt
chảy rỉ và mí mắt sưng húp là biểu hiện phổ biến thứ 3, kết hợp với triệu
chứng lạc giọng, khản tiếng, thở khó, thở thể bụng, chảy nước mũi, khớp đau,
sưng nên chân thường choãi ra, đi lại khó khăn, tủ lệ tử vong cao (Lê Văn
Năm, 2007)[13]
9
2.2.5. Ở lợn con sau cai sữa và lợn thịt
Ở lợn thịt các triệu chứng tập trung ở đường hô hấp, lợn bị viêm phổi
nặng, ho nhiều, thở rất khó khăn, thở dốc, thở thể bụng, có con ngồi thở như
chó ngồi, có con ngồi vào tường để lấy sức thở, hắt hơi, chảy nước mắt. Do
phổi bị viêm nặng nên hiện tượng da xanh (đặc biệt là tai xuất hiện sớm) điển
hình và chiếm tỷ lệ lớn ở loại lợn này.
Ở lợn con sau cai sữa, mi mắt thường sưng húp, có màu đỏ thâm làm
cho mắt lõm sâu tạo nên một quầng thâm xung quanh mắt nên nhìn lợn giống
như được “đeo kính râm”. Tỷ lệ táo bón ở loại lợn này rất cao nhưng tỷ lệ tiêu
chảy thấp hơn lợn con theo mẹ. (Lê Văn Năm, 2007)[13]
2.3. BỆNH TÍCH
Mổ khám có thể thấy các bệnh tích đại thể sau:
2.3.1. Lợn nái bị bệnh
Đặc biệt là lợn chửa kỳ 2 thường bị đẻ non hoặc đẻ chậm. Trường hợp
đẻ non (sảy thai) thì thấy nhiều thai chết, trên cơ thể thai chết lưu thường thấy
nhiều đám thối rữa. Trường hợp đẻ muộn thì thấy thai chết ít hơn nhiều so với
đẻ non. Song lợn con đẻ ra rất yếu, nhiều con đẻ ra chết do thời gian đẻ kéo
dài. Mổ khám thấy bệnh tích tập trung ở phổi, phổi bị phù nề, viêm hoại tử và
tích nước, cắt miếng phổi bỏ vào nước thấy chìm.
Âm môn sưng tụ huyết, niêm mạc tử cung và niêm mạc đường âm đạo
sưng, tụ huyết, xuất huyết, đỏ thẩm và chảy dịch.
2.2.2. Lợn con theo mẹ
Thường thấy viêm đường hô hấp cấp với bệnh tích điển hình như viêm
phế quản và phổi sưng có màu vàng hoặc tụ huyết đỏ, có nhiều dịch và bọt
khí trong phế quản. Chùm hạch phổi và hạch hầu sưng có màu vàng. Nếu có
nhiễm khuẩn kế phát do liên cầu (Streptococcus suis) gây viêm não và sẽ thấy
xung huyết màng não.
Những lợn bị táo thì ruột chứa nhiều cục phân rắn chắc niêm mạc ruột
viêm nhưng ở lợn bị tiêu chảy thì thành ruột mỏng và phủ một lớp màu nâu
10
2.2.3. Lợn con sau cai sữa
Biểu hiện viêm đường hô hấp là chủ yếu nhưng tỷ lệ viêm thấp hơn ở
lợn con theo mẹ. Bệnh tích thường thấy là viêm phổi thủy thũng từng đám có
màu vàng hoặc đỏ do xuất huyết, phế quản chứa nhiều dịch nhầy và bọt khí.
Cũng như lợn con theo mẹ, lợn con sau cai sữa thường kế phát các
bệnh viêm não, nhiễm trùng huyết do liên cầu khuẩn (streptococcus suis) và
sẽ thấy tụ huyết và dịch hồng ở màng não. Nhiễm kế phát do vi khuẩn thương
hàn sẽ có ỉa chảy và bệnh tích thể hiện tụ huyết, bong tróc niêm mạc ruột và
có nốt lan tràn ở niêm mạc vùng van hồi manh tràng.
Các bệnh tích đại thể và vi thể của PRRS hầu hết xuất hiện ở lợn mới
sinh. Ở lợn lớn hơn, bệnh tích có thể tương tự như ít rõ ràng hơn. Bệnh tích
đại thể của PRRS cũng khác nhau. Bệnh tích ở phổi có thể từ không có dấu
hiệu gì đến đến phổi cứng lan tràn và kết hợp với một số vi khuẩn kế phát.
Hạch lympho bị tấn công chủ yếu thấy ở lợn bé. Bệnh tích vi thể không đặc
hiệu, chủ yếu ở phổi và tổ chức lympho. Bệnh tích phổi đặc trưng bởi viêm
phổi kẽ với sự thấm nhiễm của tế bào đơn nhân.
2.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán PRRS có thể dựa vào các yếu tố chủ quan như lịch sử bệnh,
triệu chứng lâm sàng, tổn thương đại thể, vi thể các số liệu khách quan như
phân tích hình thái sinh sản, xét nghiệm huyết thanh học hoặc phát hiện virus.
Có thể nghi lợn mắc bệnh PRRS khi có các triệu chứng lâm sàng về đường hô
hấp ở bất kỳ giai đoạn sinh sản nào hoặc có hiện tượng rối loạn sinh sản. Rõ
ràng chẩn đoán bằng phương pháp huyết thanh học (phát hiện kháng thể) và
phát hiện virus (phát hiện kháng nguyên) là phương pháp tin cậy nhất.
2.4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Chẩn đoán dựa vào 2 nhóm triệu chứng:
+ Triệu chứng nhóm đường sinh sản: trong giai đoạn đầu của PRRS có
thể thấy có hiện tượng sảy thai ở giai đoạn cuối thời kỳ mang thai và đẻ non,
thai yếu, thai chết lưu, đồng thời thai gỗ, lợn con yếu, chết trước khi cai sữa.
11
+ Triệu chứng đường hô hấp: viêm phổi ở lợn con và lợn vổ béo.
Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh sau: giả dại, cúm lợn, truyền
nhiễm đường hô hấp do coronavirus, viêm não và cơ tim, bệnh do parovirus,
bệnh do cytomegalovirus, các bệnh do circovirus.
2.4.2. Chẩn đoán bằng phương pháp giải phẫu bệnh
Đối với lợn con, lợn vỗ béo, lợn xuất chuồng: khi mổ khám thấy phổi
rắn chắc, có vùng xám hồng. Trên tiêu bản vi thể viêm phổi kẻ tăng sinh đa
điểm hoặc lan tràn, vách phế nang dày lên, viêm não giữa và giảm lượng tế
bào lympho trong các tổ chức lympho.
Đối sảy thai chết lưu không có bệnh tích đại thể hoặc vi thể đặc trưng.
2.4.3. Phương pháp phòng thí nghiệm
- Kỹ thuật chẩn đoán phòng thí nghiệm dựa vào 3 tiêu chí:
+ Virus
+ Kháng nguyên của virus
+ Kháng thể đặc hiệu
Phương pháp gây nhiễm trên gà và trên tế bào tổ chức
- Các môi trường tế bào được sử dụng: MA – 104, CL2621, PMA, ST (tế
bào tinh hoàn lợn), BK – 21, Marc – 145…
Các phương pháp nuôi cấy:
- Phương pháp tiêm cho phôi gà 9 – 10 ngày tuổi
- Phương pháp nuôi cấy trên tổ chức tế bào
- Phương pháp ELISA và PCR: đây là 2 phương pháp đem lại hiệu quả
cao nhất và được áp dụng nhiều nhất nhưng tốn kém đòi hỏi phải có
nguồn kinh phí lớn và cần có kít chẩn đoán.
2.4. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
2.4.1 Điều trị:
PRRS là bệnh nguy hiểm bởi tính lây lan và gây thiệt hại lớn. Hiện tại
chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh này.
12
Theo quy định hiện nay tất cả lợn bị bệnh và nghi mắc bệnh đều phải tiêu
hủy theo hướng dẫn của cơ quan thú y có chức năng. Mọi hành vi che dấu
không khai báo dịch, tự ý điều trị lợn bệnh đều vi phạm pháp luật.
2.4.2. Phòng bệnh
2.4.2.1 Phòng bệnh bằng vaccin
Cũng như nhiều bệnh truyền nhiễm khác, đối với hội chứng rối loạn hô
hấp và sinh sản, việc phòng bệnh bằng vaccin là một trong những biện pháp
quan trọng nhằm hạn chế dịch bệnh xảy ra. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu
này việc lựa chọn loại vaccin phù hợp và sử dụng đúng quy trình kỹ thuật là
mấu chốt hàng đầu quyết định đến hiệu quả biện pháp phòng ngừa.
Vaccin BSL-PS 100: vaccin PRRS nhược độc đông khô thế hệ mới
có nguồn gốc từ chủng JKL-100 thuộc dòng Bắc Mỹ, một liều chứa ít nhất
10
5.0
TCID50 , có độ an toàn rất cao, vaccin an toàn dù chủng cao gấp 20 lần
- Hiệu quả: thực nghiệm chứng minh đối với lợn con theo mẹ tỷ lệ tử
vong 0% so với lô đối không sử dụng vaccin là 7%. Ở lợn thịt tăng trọng thêm
15% so với không tiêm phòng. Một tuần sau khi tiêm phòng, hàm lượng
kháng thể trong máu đạt được mức bảo hộ và thời gian miễn dịch kéo dài 16 tuần.
- Liều lượng và lịch tiêm phòng: tiêm bắp 2ml/liều
+ Nái tơ và nái mang thai: tiêm chủng trước khi tách con hoặc trước khi
phối giống.
+ Lợn đực: tiêm chủng lúc 18 tuần tuổi và tái chủng hàng năm
+ Lợn con: Ở trại không có dịch tiêm lúc 3 tuần tuổi, với trại đã có dịch
tiêm lần 1 lúc 3 tuần tuổi, lần 2 lúc 6 tuần tuổi. Nếu trại đang có dịch tiêm
ngay cho nái mang thai dưới 70 ngày của thai kỳ.
Lưu ý: chỉ được pha vaccin với nước pha chính của vaccin
Vaccin BSK-PS100: vaccin vô hoạt chủng PRRSV châu Âu. Một
liều vaccin chứa ít nhất 10
7.5
TCID. Vaccon có độ an toàn rất cao, thực nghiệm
đã chứng minh BSK-PS100 an toàn dù chủng cao gấp 10 liều. Vaccin an toàn
với lợn mang thai.
13
- Hiệu quả: thực nghiệm đã chứng minh trên lô lợn nái có chủng vaccin
tỷ lệ sống sót của lợn sơ sinh cao hơn 6,4%, tỷ lệ lợn sơ sinh chết thấp hơn
3,7%, tỷ lệ thai chết lưu và thai gỗ thấp hơn 3,6% và tỷ lệ lợn con cai sữa cao
hơn 9,1% so với lợn nái không chủng vaccin.
- Liều lượng và lịch tiêm phòng: tiêm bắp 2ml/liều
+ Lợn con: tiêm lúc 3 – 6 tuần tuổi
+ Nái hậu bị: tiêm lúc 18 tuần tuổi, tái chủng sau 3 – 4 tuần
+ Nái mang thai: tiêm phòng lúc 60 – 70 ngày của thai kỳ
+ Đực giống: tiêm lúc 18 tuần tuổi, 6 tháng tái chủng một lần.
Vaccin Amervac-PRRS: vaccin nhược độc dạng đông khô, chứa
PRRSV dòng châu Âu VP046BIS, mỗi liều chứa ít nhất 10
3.5
TCID
50
.
- Hiệu quả: VP046BIS có khả năng bảo vệ tất cả chủng châu Âu khác
và châu mỹ. Đây là chủng an toàn nhất trong các chủng châu Âu và hoàn toàn
không gây hoàn nguyên độc lực.
- Liều lượng và lịch tiêm phòng: tiêm vào bắp cổ, mỗi liều 2ml/con
không kể lứa tuổi, tính biệt, khối lượng.
+ Lợn con: chủng một lần vào lúc 3-4 tuần tuổi, khả năng bảo hộ tới 5
tháng tuổi.
+ Nái hậu bị: chủng 1 lần vào lúc 5 tuần trước khi phối giống
+ Đực giống: chủng lúc 5 tuần tuổi sau đó tái chủng 6 tháng1lần
+ Nái: chủng 1 liều sau khi sinh 12 – 15 ngày
Bên cạnh việc tiêm phòng vaccin PRRS cần tuân thủ nghiêm ngặt quy
trình tiêm phòng các bệnh có nguy cơ kế phát như: dịch tả lợn, tụ huyết trùng
lợn, phó thương hàn lợn, đóng dấu liwnjm suyễn lợn và vaccin phong E. coli …
14
Vaccin JXA1-R:
-vaccin chết bổ trợ nhũ dầu. Vaccin an toàn cao khi sử dụng, hiệu quả
phòng bệnh tốt.
- Giống sản xuất: Virus PRRS, chủng NVDC-JXA1, chủng độc lực
cao, tương đồng với chủng độc lực cao của Việt Nam (99,7%), thuộc typ2
Bắc mỹ.
- Cách sử dụng: tiêm bắp thịt, liều:
+ 2ml/con đối với lợn ≥ 3 tuần tuổi (có thể tiêm nhắc lại sau 28 ngày
nếu cần)
+ 4ml/nái, nái giống nhắc lại sau 6 tháng.
+ Hạn sử dụng: 12 tháng khi bảo 2 – 8
o
C
- Ngày 8/9/2011 Việt Nam nhập 200 liều vaccin nhược độc JXA1-R do
Trung Quốc sản xuất để phòng bệnh tai xanh. Vaccin JXA1-R là vaccin
nhược độc, được chế tạo từ chủng virus cường độc JXA1 đã được cấy chuyển
82 đời để trở thành chủng không còn độc lực đối với lợn nhưng vẫn giử được
tính kháng nguyên. Theo kết quả khảo nghiệm sau khi tiêm phòng cho lợn sau
14 ngày thì tỷ lệ bảo hộ trên lợn được lợn là 100%, tức là 100% lợn đã tiêm
vaccin không bị chết khi bị virus PRRS thế cường độc tấn công, mặc dù một
tỷ lệ nhỏ lợn vẫn có triệu chứng lâm sàng của bệnh. Tuy nhiên, từ 21 ngày sau
khi tiêm vaccin trở đi lợn vẫn được bảo hộ 100% và không có lợn nào có triệu
chứng lâm sàng của bệnh. Ngoài ra, vacxin JXA1-R còn có khả năng bảo hộ
chéo, chống lại được cả chủng virus PRRS cổ điển. Các tác dụng phụ như sốc
thuốc, sốt trên lợn sau tiêm phòng hoàn toàn không có, hoặc nếu có thì với
tỷ lệ cực kỳ thấp và dễ dàng can thiệp bằng các loại thuốc thông thường.
Thêm vào đó, việc tiêm phòng cũng không làm ảnh hưởng đến bào thai, điều
mà nhiều loại vacxin nhược độc khác hiện nay chưa khắc phục được.
15
2.4.2.2. Vệ sinh phòng bệnh
- Biện pháp phòng khi chưa có dịch
Trong tình hình dịch bệnh hiện nay việc dùng vaccin phòng PRRS
nhằm tạo miễn dịch chủ động cho lợn chống lại dịch bệnh này là việc làm cần
thiết và cấp bách. Tuy nhiên bên cạnh đó cần thực hiện tốt vệ sinh phòng
bệnh vầ tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức phòng
bệnh cho người chăn nuôi cũng như các biện pháp kiểm dịch nhằm kiểm soát
và ngăn ngừa dịch bùng phát, lây lan nhất là trong điều kiện hội nhập mạnh
mẽ như hiện nay.
Thường xuyên theo dõi đàn lợn trong các cơ sở chăn nuôi khi lợn sinh
sản để sớm phát hiện lợn có dấy hiệu lâm sàng của PRRS. Cách ly xử l ý kịp
thời và gửi mẫu bệnh phẩm đi xét nghiệm khi có nghi ngờ bệnh.
Tiêm phong vaccin phòng bệnh cho đàn lợn trong cơ sở chăn nuôi cho
đàn lợn trong cơ sở chăn nuôi chưa có lưu hành bệnh. Trước khi tiêm cần
tham khảo ý kiến của chi cục thú y tỉnh để biết khu vực đó có chủng virus nào
gây bệnh (Châu Âu hoặc Bắc Mỹ) để lựa chọn vaccin thích hợp. Bởi vaccin
không tạo được miễn dịch chéo giữa chủng chế tạo vaccin và chủng gây bệnh
trong vùng.
Để loại trừ các bệnh kế phát do vi khuẩn ở lợn, tất cả đàn lợn phải được
tiêm phòng 4 bệnh đỏ (dịch tả lợn, tụ huyết trùng, đóng dấu lợn, phó thương
hàn). Trong điều kiện cần thiết có thể tiêm vaccin phòng một số bệnh đường
hô hấp (bệnh suyễn lợn, bệnh viêm phổi và màng phổi lợn).
Khi nhập lợn giống phải mua từ các cơ sở chăn nuôi và vùng không có
PRRS. Lợn mới mua về phải nuôi cách ly ít nhất 3-4 tuần lễ không có dấu hiệu
lâm sàng của PRRS cũng như các bệnh truyền nhiễm khác mới cho nhập đàn.
Chuồng trại phải đảm bảo vệ sinh thú y, ấm áp vào mùa đông, thoáng
mát vào mùa hè thường xuyên quét dọn tiêu độc chuồng trại bằng một số hóa
chất như vôi, iodine, chloraminB…
16
Chăm sóc nuôi dưởng tốt cho lợn để nâng cao sức đề kháng cho lợn.
Đối với lợn mới mua về cách ly ít nhất 3 tuần để theo dõi.
Tổ chức tuyên truyền thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại
chúng của trung ương và địa phương đêt người dân hiểu đúng mức độ nguy
hiểm của dịch bệnh tai xanh và các biện pháp phòng chống đặc biệt là phải
khai báo khi lợn có biểu hiện PRRS.
Tăng cường công tác giám sát từ trung ương đến cơ sở và hộ chăn nuôi
để có thể sớm phát hiện dịch bệnh và có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Thiết lập các trạm chốt kiểm dịch tại các đầu mối giao thông quan
trọng và cần có sự hợp tác hành động đồng bộ giữa nhiều ngành như: công an,
tài chính, quản lý thị trường, đặc biệt là lực lượng thú y để kiếm soát việc vận
chuyển lợn các sản phẩm từ lợn ra vào các tỉnh.
Giao trách nhiệm giám sát và phát hiện dịch và báo cáo dịch cho
chính quyền cấp xã, khi có dịch xảy ra thì phải bao vây, lấy mẫu xét nghiệm
và phân hủy.
- Biện pháp phòng bệnh khi có dịch xảy ra
Các gia trại và các trang trại phải thống kê số lợn ốm, lợn chết báo với
chính quyền địa phương để xử lý theo đúng lệnh công bố dịch và hướng dẫn
phòng chống PRRS của Cục Thú Y, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
và xin hổ trợ của Nhà nước. Tiêu hủy số lợn mắc bệnh nặng không chờ kết
quả xét nghiệm (lợn mắc bệnh nặng đã được chăm sóc tích cực, được hổ trợ
tăng cường sức đề kháng trong vòng 7 ngày nhưng không có khả năng bình
phục), lợn mắc bệnh nhẹ nuôi cách ly triệt để với lợn chưa bị bệnh để theo dõi
chặt chẽ diễn biến bệnh.
Chính quyền và thú y địa phương tổ chức bao vây ổ dịch và không
mang lợn từ ngoài vào ổ dịch. Các gia trại và trang trại phối hợp với chính
quyền và thú y thực hiện nghiêm túc biện pháp này.
Không bán chạy lợn ra ngoài, không mổ lợn và bán thịt lợn trong vùng
dịch khi chưa công bố hết dịch.
17
Cách ly đàn lợn khỏe để nuôi dưỡng, chăm sóc tốt và tổ chức tiêm
thuốc trợ sức trợ lực, nâng cao sức đề kháng của bệnh với lợn.
Tổ chức làm vệ sinh triệt để chuồng trại khu chăn thả đã có lợn ốm và
phun thuốc sát trùng 2 lần/tuần trong suốt thời gian có dịch.
Tổ chức tiêm phòng các vùng chưa có dịch nhưng bị uy hiếp.
Tuyên truyền về PRRS và các biện pháp phòng chống trên các phương
tiện truyền thông từ trung ương đến địa phương để người chăn nuôi ý thức áp
dụng các biện pháp phòng chống dịch.
Chỉ nuôi lợn trở lại khi có lệnh công bố hết dịch và đã để trống chuồng
4 tuần, đồng thời phun thuốc sát trùng theo quy định.
2.5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU DỊCH BỆNH TRONG VÀ NGOÀI
NƯỚC
2.5.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu về nguyên
nhân, cơ chế truyền lây, các phương pháp chẩn đoán, phòng chống Hội chứng
rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn.
PRRSV có khả năng sống sót hơn 4 tháng ở nhiệt độ dao động trong
khoảng -70
0
C đến -20
0
C, tuy nhiên khả năng sống giảm nhanh khi nhiệt độ
tăng lên. Các chất tẩy uế có tác dụng làm giảm khả năng lây nhiễm của virus,
các chất làm tan dầu mỡ như Chlorofom và ether đặc biệt hữu dụng trong việc
phá vỡ lớp vỏ ngoài của virus và làm ngưng sự tái sản.
Các triệu chứng lâm sàng của lợn mắc bệnh PRRS bao gồm rối loạn
sinh sản nghiêm trọng, viêm phổi ở lợn con sau cai sữa, chậm lớn, giảm năng
suất và tỷ lệ tử vong tăng.
Một nghiên cứu gần đây đã kết luận rằng sự nhiễm bệnh của lợn mẫn
cảm với các phân lập PRRSV có độc lực cao dẫn tới thời gian nhiễm virus
huyết dài hơn, mức độ nghiêm trọng của triệu chứng lâm sàng và tỷ lệ chết
tăng lên, lượng virus trong máu và mô bào nhiều hơn so với các chủng có độc
lực thấp hoặc các chủng thích ứng tế bào.
18
Về sự tồn tại dai dẳng của PRRSV ở mức độ quần thể trong một
khoảng thời gian nhất định, PRRSV đã được phát hiện trong 100% trong số
60 lợn ở 3 tuần tuổi được gây bệnh thực nghiệm cho đến 63 ngày sau khi gây
nhiễm và 90% ở những đàn lợn nói trên lúc 105 ngày sau khi gây nhiễm.
Calvert jay G và cộng sự thuộc khoa thú y trường đại học Minesota của
Mỹ đã nghiên cứu về những đặc điểm phân loại, cấu tạo, khả năng gây bệnh
của virus cũng như những triệu chứng lâm sàng thường gặp khi lợn bị bệnh ở
Mỹ và một số nước châu Âu thấy rằng chủng virus ở Mỹ và châu Âu khác
biệt nhau về bộ gen, tức là virus ở 2 nơi này đã có sự biến đổi về cấu trúc.
Joo Han – soo và cộng sự đi sâu vào tìm hiểu phương pháp chuẩn bị
virus PRRS, Protein lây nhiễm và bộ kít để kiểm tra và phát hiện nó.
Pensaert Maurice và cộng sự đã nghiên cứu chuỗi Polypeptit mã hóa
acid nucleic bên trong các tế bào nhiễm virus PRRS.
Burch Reina Alemany và cộng sự tìm hiểu chung về virus suy yếu gây
ra hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản trên lợn cùng với việc điều chế
vaccin.
Van Nieuwstadt và cộng sự nêu ra loại kháng nguyên PRRS dùng để
phát hiện ra chuỗi peptide đồng đẳng của virus PRRS dùng trong điều chế
vaccin hoặc xét nghiệm chẩn đoán.
Pensaert Maurice và cộng sự đã nghiên cứu chuỗi polipeptide mã hóa
acid nucleic bên trong các tế bào nhiễm virus PRRS.
2.5.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Mặc dù ở Việt Nam, PRRS là một bệnh mới song được sự quan tâm và
nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu trong nước, hiện nay vấn đề liên quan đến
dịch tễ và nguyên nhân gây bệnh tại Việt Nam đã từng bước làm sáng tỏ
mang lại nhứng giá trị kinh tế trong phòng chống dịch bệnh.
Tô Long Thành (2007)[16] đã nhận xét PRRSV chỉ gây bệnh cho lợn,
lợn ở tất cả các lứa tuổi đều cảm nhiễm song lợn con và lợn nái mang thai đều
cảm nhiễm hơn cả. Người và động vật khác không mắc bệnh tuy nhiên trong
19
các loại thủy cầm chân màn, vịt trời lại mẫn cảm với virus. PRRSV có thể
nhân lên loại virus này và chính đây là nguồn reo rắc mầm bệnh trên diện
rộng và rất khó khống chế.
Theo Nguyễn Hữu Nam và cs (2007)[15], Bùi Quang Anh và cs (2008)
[3] những loại vi khuẩn gây bệnh kế phát ở phổi khi lợn mắc bệnh PRRS
thường gặp là: Mycoplasma hyopeumoniae (Suyễn lợn), Pasteurella
multocida (Tụ huyết trùng), Bordetella bronchiseptica (Viêm teo mũi),
Streptococcus suis type 2 (Liên cầu khuẩn) và Haemophilus parasuis (viêm
đường hô hấp).
Phạm Ngọc Thạch và cs (2007)[18] nghiên cứu một số chỉ tiêu lâm
sàng, chỉ tiêu máu lợn mắc bệnh PRRS tại Hải Dương và Hưng Yên thấy: thời
gian nung bệnh là 3 – 7 ngày, tần số hô hấp tim mạch đều tăng so với chỉ tiêu
sinh lý bình thường, chỉ tiêu sinh lý sinh hóa máu đều thay đổi, đặc biệt là số
lượng bạch cầu, độ dự trữ kiềm trong máu tăng rất cao trong khi đó hàm
lượng đường huyết, protein tổng số của lợn bệnh lại giảm rất nhiều so với
sinh lý bình thường.
Nguyễn Văn Thanh (2007)[17] khi nghiên cứu về đường truyền lây của
virus gây hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản cho rằng trong tất cả con
đường truyền lây việc truyền lây qua thụ tinh nhân tạo là mối nguy hiểm nhất.
Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Đăng Kỳ (2207)[9] một số bệnh tích
thường gặp của lợn mắc bệnh PRRS là phổi viêm tụ huyết hoặc xuất huyết,
khí quản, phế quản chứa nhiều dịch nhầy. Thận xuất huyết như đầu đinh
ghim, não xung huyết, hạch hầu họng, amidan sưng, xung huyết, gan sưng tụ
huyết, lách sưng và nhồi huyết. Hạch màng treo ruột xuất huyết và van hồi
manh tràng bị loét.
Trần Thị Bích Liên, Nguyễn Thị Kiều Anh và cs (2007)[10] khi nghiên
cứu sự biến động của kháng thể từ mẹ truyền sang con của lợn nái nhiễm
virus PRRS cho biết: ở con của lợn nái dương tính với PRRS, hiệu giá kháng
thể giảm nhiều từ ngày tuổi 19 và tất cả lợn con đều âm tính ở 60 ngày tuổi.
20
Ngoài ra lợn con của nái dương tính có hiệu giá kháng thể cao hơn lợn
con từ nái âm tính trong vòng 35 ngày sau khi sinh.
Nguyễn Ngọc Hải, Trần Thị Bích Liên và cs (2007)[7] nghiên cứu về
phương pháp chẩn đoán virus gây hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn
bằng kỹ thuật RT-PCR đưa ra kết luận: quy trình RT-PCR sử dụng trong
nghiên cứu có tính ổn định và độ tin cậy cao, hoàn toàn cho phép xác định
được ARN của virus PRRS trong mẫu.
Thái Quốc Hiếu, Lê Minh Khánh (2007)[8] nghiên cứu ảnh hưởng của
dịch tả trên lợn và thấy rằng, đáp ứng kháng thể với vaccin dịch tả lợn giảm
rõ trên đàn lợn bị nhiễm hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản.
Hồ Thị Nga, Trần Thị Dân (2008) [14]đã kháo sát sinh lý hóa máu trên
lợn nuôi thịt nhiễm virus gây hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản được bổ
sung β-glucan có số lượng hồng cầu, bạch cầu và hàm hàm lượng
Hemoglobin ổn định hơn.
Có thể thấy PRRSV đã xuất hiện và lưu hành tại nước ta trong thời gian
dài. Tuy nhiên kể từ khi xác định được lợn có kháng thể kháng PRRSV ở đàn
lợn giống nhập từ Mỹ, ở Việt Nam chưa có vụ dịch nào xảy ra. Sự bùng phát
thành dịch gây tổn thất lớn cho ngành chăn nuôi bắt đầu từ tháng 3 năm 2007.
Dịch xuất hiện từng đợt cả 3 miền Bắc, Trung, Nam gây thiệt hại đáng kể cho
ngành chăn nuôi lợn, đặc biệt là ảnh hưởng đến phát triển của đàn giống.
2.5. NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA LỢN NÁI
2.6.1. Các chỉ tiêu năng suất sinh sản và khả năng sinh sản của lợn nái
Có nhiều chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái. Năng suất
sinh sản của lợn nái được đánh giá trên các chỉ tiêu: chu kỳ động dục, tuổi
thành thục về tính dục tuổi có khả năng sinh sản, thời gian chửa và số con đẻ
ra/lứa.
Nhiều tác giả cho rằng: để đánh giá khả năng sinh sản lợn nái dựa vào
năng suất sinh sản và do 2 yếu tố cấu thành là: số con cai sữa/lứa và số lứa
21