Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tiểu Luận: Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Cho Vay Doanh Nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.49 KB, 14 trang )



1




Tiểu luận

















2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CHO VAY DO ANH NGHIỆP

1.1. Tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm


Tín dụng là quan hệ vay mượn, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi
vay và người cho vay dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn gốc và lãi.
Tín dụng là phạm trù của kinh tế hàng hóa. Quá trình ra đời và tồn tại của
tín dụng gắn liền với quá trình ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hóa.
Thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Tuỳ theo từng
bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính,
tín dụng có thể hiểu theo nghĩa sau :
Xét trên gốc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang
chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuy ển dịch quỹ
từ người cho vay sang người đi vay.
Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ
sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
Trong một số ngữ cảnh thì thuật ngữ t ín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho
vay.
Vì vậy trên gốc độ tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín
dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng
và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ
thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn
trả vô điều kiện số vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Mặc dù tín dụng có một quá trình tồn tại và phát triển lâu dài qua nhiều
hình thái kinh tế xã hội khác nhau, song tín dụng đều có những tính chất quan
trọng sau:
Tín dụng trước hết chỉ là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền (hiện
kim) hoặc tài sản (hiện vật) từ chủ thể này sang chủ thể khác, chứ không làm thay
đổi quyền sở hữu chúng.
Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải được hoàn trả.
Giá trị của tín dụng không chỉ được bảo tồn mà cón được nâng lên nhờ lợi
tức tín dụng.



3
1.1.2. Bản chất của tín dụng
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi vay và người
cho vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể
khác để sử dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế xã hội.
Tín dụng được coi là một số vốn, bằng hiện vật hoặc hiện kim vận động theo
nguyên tắc hoàn trả, đã đáp ứng các nhu cầu của các chủ thể tín dụng.
1.1.3 Chức năng của tín dụng
Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ
Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này của tín dụng
mà các nguồn vốn trong xã hội được điều hòa từ nơi thừa sang nơi thiếu để sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, nhằm phát triển kinh tế xã hội.
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai mặt hợp thành chức năng cốt lõi
của tín dụng.
M ặt tập trung vốn tiền tệ : Nhờ sự hoạt động của hệ thống tín dụng mà các
nguồn tiền nhàn rỗi được t ập trung lại, bao gồm tiền nhàn rỗi của dân chúng, vốn
bằng tiền của các doanh nghiệp, vốn bằng tiền của các tổ chức đoàn thể, xã hội.
Mặt phân phối lại vốn tiền tệ : Đ ây là mặt cơ bản của chức năng này, đó là sự
chuyển hóa để sử dụng các nguồn vốn đã tập trung được để đáp ứng nhu cầu của
sản xuất và lưu thông hàng hóa cũng như nhu cầu tiêu dùng trong xã hội.
Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn đều được thực hiện theo nguyên tắc
hoàn trả. Vì vậy, tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn, đồng
thời nó thúc đẩy việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chí phí lưu thông cho xã hội.
Nhờ hoạt động của tín dụng mà nó có thể phát huy chức năng tiết kiệm tiền
mặt và chi phí lưu thông cho xã hội, điều này thể hiện qua các mặt sau:
Hoạt động tín dụng, trước hết tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu
thông tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, các phương
tiện thanh toán hiện đại như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, cho phép thay thế một

số lượng lớn tiền mặt lưu hành, nhờ đó làm giảm bớt chi phí có liên quan như in
tiền, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản tiền,
Với sự hoạt động của tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngân hàng đã mở ra một
khả năng lớn trong việc mở tài khoản và giao dịch thanh toán thông qua ngân hàng
dưới các hình thức chuyển khoản hoặc bù trừ nhau.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của tín dụng thì hệ thống thanh toán qua


4
ngân hàng ngày càng được m ở rộng, vừa cho phép giải quyết nhanh chóng các
mối quan hệ kinh tế, vừa thúc đẩy quá trình ấy, tạo điều kiện cho nền kinh tế - xã
hội phát triển.
Nhờ sự hoạt động của tín dụng mà các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được
huy động để sử dụng cho các nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hóa, làm
tăng tốc độ chu chuyển vốn trong phạm vi toàn xã hội.
Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế.
Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng trên. Sự vận động của
vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư hàng
hóa, chi phí trong các tổ chức kinh tế, qua đó tín dụng không những là tấm gương
phản ánh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn thông qua đó thực hiện
việc kiểm soát các hoạt động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, lãng phí,
vi phạm pháp luật,.v.v trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1 1.4. Vai trò của tín dụng
Nói đến vai trò của tín dụng, nghĩa là nói đến sự tác động của tín dụng đối
với nền kinh tế - xã hội. Vai trò của tín dụng bao gồm cả hai mặt: tích cực và tiêu
cực.
Mặt tích cực của tín dụng có vai trò to lớn sau đây :
Một là : Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển.
Tín dụng, trước hết là nguồn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp và các t ổ chức
kinh tế.

Tín dụng là một trong những công cụ tập trung vốn hữu hiệu trong nền kinh t ế.
Tín dụng không những là công cụ tập trung vốn mà còn là công cụ thúc đẩy tích tụ
vốn cho các thành phần kinh tế.
Có thể nói trong mọi nền kinh tế - xã hội, tín dụng đều phát huy vai trò to
lớn của nó:
Đối với doanh nghiệp : Tín dụng góp phần cung ứng vốn, bao gồm vốn lưu động
và vốn cố định.
Đối với dân chúng : Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Đối với toàn xã hội : Tín dụng làm t ăng hiệu suất sử dụng đồng vốn.
Tất cả đều hợp lực và t ác động lên đời sống kinh tế - xã hội tạo ra động lực phát
triển mạnh mẽ mà không có một công cụ tài chính nào có thể thay thế được.
Hai là : Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả.
Trong khi thực hiện chức năng thứ nhất là tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ,


5
tín dụng đã góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế, đặc
biệt là tiền mặt trong tay các t ầng lớp dân cư, làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy
góp phần ổn định tiền tệ, mặt khác do cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất
ngày càng phát triển, sản phẩm hàng hóa dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng
được nhu cầu ngày càng t ăng của xã hội, chính nhờ đó mà tín dụng góp phần ổn
định thị trường giá cả trong nước.
Ba là : Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật
tự xã hội.
Tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng hóa dịch vụ
ngày càng tăng, có thể thỏa mãn nhu cầu của các tầng lớp dân cư, mặt khác, do
vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã
hội và tài nguyên thiên nhiên, từ đó có thể thu hút được ngày càng nhiều lực lượng
lao động của xã hội để tạo ra lực lượng sản xuất mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Một xã hội phát triển, đời sống dân cư được ổn định đó là tiền đề quan trọng để ổn
định trật tự xã hội.
Bốn là : Tín dụng góp phần phát triển các mối quan hệ quốc tế.
Sự phát triển của tín dụng không những ở trong nước mà còn được mở rộng ra
phạm vi quốc tế, nhờ đó nó thúc đẩy mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại, nhằm giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu vốn lẫn nhau trong quá trình
phát triển của mỗi quốc gia, làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn
và cùng nhau phát triển.
1.1.5 Các hình thức tín dụng
Căn cứ theo chủ thể của quan hệ tín dụng
Có các hình thức tín dụng sau :
- Tín dụng thương mại
Đây là quan hệ tín dụng giữa các các công ty, xí nghiệp, các tổ chức kinh t ế
với nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa cho nhau.
Tín dụng thương mại ra đời trước các hình thức tín dụng khác và giử vai trò là
cơ sở để các hình thức tín dụng khác ra đời.
Tín dụng thương mại dựa trên nền tảng khách quan đó là quá trình luân
chuyển vốn và chu kỳ sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp, tổ chức kinh tế
không có sự phù hợp và ăn khớp lẫn nhau, không những giữa các tổ chức kinh tế
khác ngành (như công nghiệp, thương mại, xây dựng) mà còn giữa các tổ chức


6
kinh tế trong cùng một ngành. Sự không ăn khớp này dẫn đến hiện tượng trong
cùng một thời điểm, một số doanh nghiệp đã sản xuất ra một lượng hàng hóa đang
cần bán, nhưng chưa cần phải thu tiền ngay, trong khi một số doanh nghiệp khác
lại cần mua những sản phẩm hàng hóa ấy nhưng lại chưa có tiền.
Hiện tượng này có thể được giải quyết nếu các doanh nghiệp mua bán chịu
hàng hóa cho nhau. Đó chính là tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại có đặc điểm:

Tín dụng thương mại là tín dụng giữa những người sản xuất kinh doanh, tuy
là hình thức tín dụng phát triển rộng rãi nhưng không phải là một loại hình tín
dụng chuyên nghiệp, sự tồn tại và phát triển của nó đựa trên sự tín nhiệm cũng
như mối quan hệ về cung cấp hàng hóa dịch vụ giữa những người sản xuất kinh
doanh ấy.
Đối tượng của tín dụng thương mại là hàng hóa chứ không phải là tiền tệ.
Sự vận động và phát triển của tín dụng thương mại bao giờ cũng phù hợp với sự
phát triển của nền sản xuất và trao đổi hàng hóa, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa
phát triển mở rộng thì tín dụng thương mại cũng được mở rộng và ngược lại khi
sản xuất và trao đổi hàng hóa thu hẹp thì tín dụng thương mại cũng bị thu hẹp.
- Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các xí
nghiệp, tổ chức kinh tế, các tổ chức và cá nhân được thực hiện dưới hình thức
ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng tiền và cho vay (cấp tín dụng) đối với các
đối tượng nói trên.
Tín dụng ngân hàng là hình t hức tín dụng chủ y ếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng
trong nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của
hệ thống ngân hàng, khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng là hình
thức tín dụng chuyên nghiệp hoạt động của nó hết sức đa dạng và phong phú.
Tính dụng ngân hàng có đặc điểm:
Đối tựơng của tín dụng ngân hàng là vốn tiền tệ, nghĩa là ngân hàng huy động vốn
và cho vay bằng tiền.
Trong tín dụng ngân hàng, các chủ thể của nó được xác định một cách rõ ràng,
trong đó ngân hàng là người cho vay, còn các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế,
các cá nhân là người đi vay.
Tín dụng ngân hàng vừa là tín dụng mang tính chất sản xuất kinh doanh gắn với


7

hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa là tín dụng tiêu dùng,
không gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vì vậy quá
trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với
quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước (bao gồm Chính phủ trung
ương, Chính quyền địa phương) với các đơn vị và cá nhân trong xã hội, trong đó
chủ yếu là Nhà nước đứng ra huy động vốn của các tổ chức, cá nhân bằng cách
phát hành trái phiếu để sử dụng vì lợi ích và mục đích chung của toàn xã hội.
Tín dụng nhà nước có thể được thực hiện bằng hiện vật hoặc bằng hiện kim,
nhưng trong đó, tín dụng bằng bằng hiện kim là chủ yếu.
- Tín dụng quốc tế
Đây là quan hệ tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức tài chính tiền tệ được
thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm giúp đỡ lẫn nhau để phát triển
kinh tế xã hội của một nước.
Căn cứ vào mục đích vay vốn
Có các loại hình tín dụng sau:
Tín dụng sản xuất kinh doanh
Là hình thức tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của cá nhân, và các tổ chức, được thể hiện dưới các hình thức:
Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản: Nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ.
Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trãi các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động,…
Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm và các định chế tài chính

khác.
Cho thuê: bao gồm các loại cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản
cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị.


8
Tín dụng tiêu dùng
Là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, mua sắm các vật dụng đắt tiền
và các khoản cho vay để trang trãi các chi phí thông thường của đời sống.
Căn cứ vào thời hạn cho vay
Tín dụng ngắn hạn:
Là loại hình tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự
thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu của cá nhân.
Tín dụng trung hạn
Theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, tín dụng trung hạn có thời
hạn từ trên 12 tháng đến 5 năm.
Tín dụng trung hạn được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự
án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình
thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh
nghiệp mới thành lập.
Tín dụng dài hạn
Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lân đến 20 năm
hay 30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm.
Tín dụng dài hạn là loại hình tín dụng được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn
như: Xây dựng nhà ở, mua sắm thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây
dựng các xí nghiệp mới.
Căn cứ theo tính chất đảm bảo
Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên cơ sở các hình thức đảm bảo

như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với các khách hàng không có
uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là
căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu
nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Cho vay không có đảm bảo: là loại cho vay không phải đảm bảo bằng tài sản
như: cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào
uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong
kinh doanh, có khả năng tài chính tốt, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể
chấp nhận cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một
nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.


9
1.2. Cho váy khách khách doanh nghiệp
1.2.1. Cho vay ngắn hạn:
Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay ngắn hạn để đáp ứng các nhu cầu: Mua hàng
dự trữ, bổ sung vốn lưu động, thực hiện các công trình xây dựng, cho vay kinh
doanh chứng khoán, cho vay tài trợ bán lẻ (tiêu dùng), cho vay chiết khấu (tài trợ
các khoản phải thu, bao thanh toán, thế chấp hàng tồn kho)
Phương thức cho vay ngắn hạn: Cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng
1.2.2. Cho vay dài hạn:
- Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay dài hạn để tài trợ cho mua thiết bị và các
àti sản cố định, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay đầu tư khác: Mua lại công ty
1.3 Quy trình cho vay doanh nghiệp:
- Tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và hồ sơ vay vốn
- Kiểm tra hồ sơ và mục đích vay vốn
- Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh
doanh/ dự án đầu tư
- .Kiểm tra, xác minh thông t in
- Phân tích ngành

- Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn
- Dự kiến lợi ích của ngân hàng nếu khoản vay được phê duy ệt
- Phân tích, thẩm định phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư
- Các biện pháp bảo đảm tiền vay
- Mức độ đáp ứng một số điều kiện tài chính
- Ứng dụng kết quả tính điểm tín dụng
- Lập báo cáo thẩm định cho vay
- Tái thẩm định khoản vay
- Xác định phương thức và nhu cầu cho vay
- Xem xét khả năng nguồn vốn và điều kiện thanh toán của ngõn hàng
- Phê duyệt khoản vay
- Ký kết hợp đồng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao nhận giấy tờ và tài sản đảm
bảo
- Giám sát và thu hồi nợ vay


10
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHO VAY DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

2.1. Đánh giá chung về doanh nghiệp ở Việt Nam
- Việt Nam hiện có khoảng 260,000 doanh nghiệp trong đó trên 80% là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, với vốn chủ sở hữu dưới 2 tỷ đồng. Năng lực về tài chính cũng
như về kinh nghiệm và trình độ quản l còn rất hạn chế. Đây là một trong nhưng
điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam
Trình độ công nghệ mà các doanh nghiệp áp dụng phần lớn là những công nghệ
lạc hậu, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân chính là
do năng lực tài chính và khả năng nhận thực cũng như tiếp nhận tiến bộ khoa học
công nghệ của cac doanh nghiệp rất thấp.
Trình độ quản l , khả năng am hiểu cũng như thức tuân thủ pháp luật của các

doanh nghiệp rất thấp. Việc tuân thủ các quy định về chuẩn mực kế toán, các quy
định của pháp luật về thuế cũng như t ình trạng gian lận trong việc kê khai, hạch
toán kế toán còn là một trong những điểm yếu của các doanh nghiệp.

2.2. Thực trạng cho vay doanh nghiệp của các ngân hàng thương m ại
2.2.1 Những thuận lợi:
Từ khi Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua, số lượng doanh nghiệp
mới lập ngày càng tăng, đặc biệt là khi Luật đầu tư được ban hành và sau khi Việt
Nam gia nhập các tổ chức Quốc tế AFTA, WTO, … thì số lượng doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tăng cao đây là một trong những thau65n lợi đẩ các NHTM
thực hiện việc sàn lọc khách hàng vay.
Hệ thống pháp về bảo đảm tiền vay, cũng như đăng k giao dịch đảm bảo được ban
hành và sữa đổi phù hợp với tình hình mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
NHTM trong việc lựa chọn hình thức đảm bảo tiền vay.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau năm 2000, tỷ lệ cho vay doanh nghiệp
nhà nước của các NHTM đã giảm dần. Hiện nay tỷ trọng cho vay DNNN chiếm
khoảng 11% tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp của hệ thống NHTM . Tỷ trọng cho
vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng dần, đặc biệt là tăng cường cho vay đối
với đối tượng DNNVV là một trong những mục tiêu của các NHTM. Chẳng hạn
đối với NHNo & PTNT Việt Nam, số lượng khách hàng là DNNVV khoảng
20,000 doanh nghiệp chiếm trên 10% tổng số DNNVV của cả nước.


11
2.2.2. Những khó khăn:
Do phần lớn các báo cáo của các doanh nghiệp ở Việt Nam, nhất là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh là không được kiểm toán, và độ tin cậy của các báo cáo
này là không cao. Đa phần các DNNVV kinh doanh theo tính cách hộ gia đình,
việc hạch toán kế toán chỉ mang tính đối phó với cơ quan thuế mà nó không phản
ánh đúng tình hình và năng lực tài chính của doanh nghiệp.

Do việc cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt làm cho tình trạng thẩm
định năng lực tài chính thực sự của khách hàng vay là một trong những vướng
mắc Sản phẩm tín dụng cung cấp cho đối tượng khách hàng doanh nghiệp còn ít,
việc giao dịch của các doanh nghiệp nhỏ vẫn còn là giao dịch tiền mặt là chủ yếu,
chính điều này dẫn đến các NHTM không thể thường xuyên theo dõi được dòng
tiền của doanh nghiệp cũng như kịp thời phát hiện rủi ro trong việc cấp tín dụng
cho các doanh nghiệp.
Riêng đối với các DNNN thì hiệu quả kinh doanh thấp, thậm chí một số doanh
nghiệp kinh doanh không có hiệu quả, vì vậy các NHTM đặc biệt là các NHTMCP
thường không thích cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.




12
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ N ÂNG CAO HIỆU Q UẢ CHO VAY ĐỐI VỚI
KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP

3.1. Xây dựng danh mục sản phẩm tín dụng đa dạng phù hợp cho khách hàng
doanh nghiệp
Việc xây dựng một danh mục đầu tư khôn ngoan cũng quan trọng như việc thẩm
định các khoản vay riêng lẻ, bởi vì nhiều khả năng rủi ro tín dụng riêng lẻ thường
có đặc điểm mà có thể dẫn đến những kết quả các tổn thất cùng lúc.
Các nguy ên tắc chính của việc quản trị danh mục đầu tư - việc đa dạng hóa để đạt
được một danh mục đầu tư cân bằng, thiết lập hạn mức - được biết rộng rãi nhưng
hiếm khi được thực hiện tốt. Bởi vì ngân hàng thường chú tâm vào việc xếp hạng
và giám sát các khoản vay và các khách hàng độc lập. Các quy ết định được thực
hiện theo những điều kiện tín dụng riêng lẻ ở mức cục bộ mà ít quan tâm đến toàn
bộ danh mục đầu tư ở mức toàn bộ ngân hàng. Việc quản lý danh mục đầu tư

thường là quá trình hồi tưởng lại quá khứ - môt người ở trụ sở chính hoặc ở phòng
rủi ro trung tâm sẽ phân tích việc tập trung rủi ro sau khi các quyết định cho vay
đã được thực hiện.
Quản lý danh mục đầu tư tốt là một quy trình linh động, với những đặc trưng của
danh mục đầu tư đư ợc tái đánh giá liên tục. Một hệ thống cảnh báo sớm tín dụng,
mục tiêu chủ yếu là để xác định và thúc đẩy hành động đối với những con nợ vỡ
nợ. Kiểu thông thường trong dữ liệu cảnh báo sớm có thể báo hiệu khó khăn tiềm
ẩn, mà s ẽ thúc đẩy ngân hàng thắt chặt hạn mức đối với những khoản vay mới
trong khu vực này.
Quản lý danh mục đầu tư theo kỳ hạn.
Trong nền kinh tế phát triển, các ngân hàng sẽ thay đổi từ việc nắm giữa các
khoản vay cho đến kỳ hạn thanh toán và quản lý một cách tích cực rủi ro tín dụng
liên quan. Các NHTM cần thay đổi vai trò của mình từ chấp nhận rủi ro sang quản
lý rủi ro. Điều này cho phép ngân hàng tạo ra thu nhập từ việc sắp xếp tín dụng
trong khi chuyển rủi ro tín dụng bằng việc trao đổi trên thị trường thứ cấp, phòng
ngừa và chứng khoán hóa bằng cách phát triển tín dụng phái sinh và các chứng
khoán phái sinh.



13
3.2. Xây dựng cơ chế sàn lọc và giám sát
- Do tình trạng thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho các NHTM. Vì vậy, các NHTM cần tập
trung nguồn lực cho việc sàn lọc các khách hàng vay trước khi quy ết định cấp tín
dụng và chi phí của việc này sẽ rất thấp so với những tổn thất do không thu hồi nợ
được vay. Các NHTM phải xây dựng hệ thống thông tin nội bộ có khả năng liên
kết và trao đổi thông tin với nhau về các khách hàng vay nợ. Để đáp ứng cho việc
sàn lọc có hiệu quả thì các NHTM cần xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ đáp ứng yêu cầu sàn lọc và giám sát khách hàng vay vốn.

- Phải tuân thủ quy trình cấp tìn dụng, thực hiện đầy đủ cơ chế kiểm tra trước,
trong và sau khi cho vay nhằm hạn chế tổn thất trong hoạt động tín dụng.
- Đa dạng hóa đối tượng khách àhng và tăng cường tìm kếim khách hàng mới là
một trong những giải pháp để các NHTM có điều kiện sàn lọc khách hàng tốt hơn.
3.3. Phát triển các sản phẩm ngân đáp ứng ngày càng tốt hơn cho đối tượng
khách hàng doanh nghiệp
- Phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bổ trợ là một trong những yếu tố quan
trọng để giữ khách hàng truyền thống và lôi kéo các khách hàng mới, mở rộng thị
trường cũng như tạo điều kiện để ngân hàng cung cấp các sản phẩm dịch vụ “trọn
gói” cho khách hàng. Điều này rất quan trọng để giúp ngân hàng giám sát tình
hình cũng như hoạt động thường xuyên của khách hàng, tạo điều kiện để ngân
hàng nắm được dòng tiền của doanh nghiệp, nhằm kịp thời phát hiện những doanh
nghiệp vay vốn có vấn đề, cũng như sàn lọc được những káhch àhng tốt để có
chính sách ưu đãi hợp lý.




14
KẾT LUẬN

Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu nhập
chín cho ngân hàng (chiếm trên 70% thu nhập). Nhưng đây là hoạt động chứa
đựng nhiều rủi ro, tổn thất trong hoạt động tín dụng là rất lớn. Kinh tế Việt Nam
ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh ết thế giới. Nhu cầu vay vốn của các doanh
nghiệp ngày càng tăng để đáp ứng cho nhu cầu phát trểin hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay doanh nghiệp thì ngoài
những nổ lực tự hoàn thiện từ phía các doanh nghiệp thì các ngân àhng thương
mại phải thực hiện:
Tăng cường công tác thu thập, phân tích đánh giá thông t in tín dụng.

Tiếp tục hoàn thiện mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ, đồng thời xây dựng và
phát triển các phần mềm đáp ứng cho yêu cầu xếp hạng tín dụng thống nhất,
nhanh chóng, hiệu quả.
- Xây dựng các hạn mức tín dụng theo từng ngành nghề, từng lĩnh vực sản
xuất kinh doanh, từng đối tượng khách hàng. Xây dựng hạn mức rủi ro theo từng
ngành nghề, từng khu vực, từng địa bàn hoạt động của ngân hàng.
Tuy nhiên, những vấn đề nghiên cứu trong bài viết chắc chắn sẽ không đầy
đủ. Những giải đề xuất tất yếu còn tồn tại những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Với những suy nghĩ trên, tôi rất mong được sự đóng góp, trao đổi, chỉ dẫn của các
Thầy, Cô.

×