Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Thực trạng sản xuất lúa của các hộ trên địa bàn xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.9 KB, 37 trang )

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong mỗi Quốc gia, mỗi thời kỳ, mỗi điều kiện tự nhiên - kinh tế -
xã hội cụ thể đều có một chiến lược cụ thể đảm bảo an ninh lương thực
khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng là đảm bảo đủ nhu cầu lương thực tối
thiểu cho mọi thành viên trong xã hội. Việt Nam đi lên từ cây lúa nước, từ
một nền nông nghiệp lạc hậu, cho đến nay, lao động nông nghiệp chiếm
khoảng 75%, nguồn thu nhập chủ yếu từ hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng việc sản xuất lương thực, coi
đây là nhiệm vụ hàng đầu cho vấn đề an ninh lương thực Quốc gia.
Trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước ngày nay, diện tích sản xuất lúa
phải nhường chỗ cho các công trình xây dựng, cho phát triển công nghiệp,
cho quá trình đô thị hoá diễn ra ồ ạt, thì vấn đề về đảm bảo lương thực càng
đặt lên vai người nông dân một trọng trách hết sức lớn lao.
Xã Quảng Phước là một xã vùng ven phá của huyện Quảng Điền và
là trung tâm KT-VH-XH của huyện Quảng Điền. Trong nhiều năm qua sản
xuất nông nghiệp đã đạt được những tiến bộ đáng kể, trong đó cây lúa đóng
vai trò chủ đạo. Với lợi thế, địa hình bằng phẳng, đất đai phì nhiêu, xã đã
áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật mới vào sản xuất, đã mạnh dạn đưa các
giống lúa mới có năng suất cao. Nhờ vậy mà những năm qua sản lượng lúa
được ổn định trong khi diện tích canh tác giảm. Bên cạnh đó vẫn còn không
ít hộ nông dân sản xuất kém hiệu quả, mất mùa do chăm sóc bón phân,
phun thuốc không đúng kỹ thuật, năng suất không cao do sử dụng giống lúa
sẵn có từ vụ thu hoạch trước, giống không thuần. Trước thực trạng đó, để
nghiên cứu một cách toàn diện các biện pháp kỹ thuật, các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả trong quá trình sản xuất, cũng như vấn đề về giống lúa
có năng suất cao, phẩm chất tốt và thích nghi với điều kiện khí hậu đất đai
tại địa phương, để nâng cao giá trị thu nhập cho người nông dân trên một
đơn vị diện tích.
Được sự giúp đỡ của nhà trường cũng như quý thầy cô giáo, nhóm
chúng tôi đã có cơ hội được nghiên cứu thực tế, để từ đó đánh giá được


thực trạng sản xuất lúa của địa phương, khẳng định lại vai trò chủ lực của
cây lúa trong nền kinh tế nói chung và trong sản xuất nông nghiệp nói
riêng. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sản
xuất lúa của các hộ trên địa bàn xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng các phương pháp:
Phương pháp thống kê kinh tế, phương pháp toán học, phương pháp điều
tra phỏng vấn hộ nông dân, phương pháp phân tổ thống kê, phương pháp
phân tích số liệu. ( hieu vas u dung nhung Phuong phap nay la ntn)
Trong suốt quá trình thực tế, do hạn chế về kiến thức từ nhà trường
đem áp dụng vào thực tiễn, cũng như hạn chế kiến thức từ bản thân nên
chắc chắn sẽ có nhiều sai sót. Kính mong sự giúp đỡ của quý thầy cô, sự
đóng góp ý kiến của bạn bè để bản báo cáo này được hoàn thiện hơn.
PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. CƠ SƠ LÝ LUẬN
1.1.1. Vị trí và tầm quan trọng của cây lúa:
Lúa là một trong ba cây lương thực chủ yếu bao gồm lúa mì, ngô
và lúa gạo. Trong lúa gạo có đầy đủ các chất dinh dưỡng như các cây lương
thực khác, ngoài ra còn có các Vitamin nhóm B và một số thành phần khác.
- Về tinh bột: Là nguồn cung cấp chủ yếu Calo. Giá trị nhiệt lượng
của lúa là 3594 Calo/g, trong đó hàm lượng amyloza trong hạt quyết định
đến độ dẻo của gạo. Hàm lượng amyloza ở lúa gạo Việt nam thay đổi từ 18
- 45% đặc biệt có giống lên tới 54%.
- Prôtêin: Chiếm 6 - 8% thấp hơn so với lúa mỳ và các loại cây khác.
Giống lúa có hàm lượng prôtêin cao nhất là 12,84% và thấp nhất là 5,25%.
Phần lớn các giống Việt nam nằm vào khoảng 7 -8%.
- Lipít: Ở lúa lipít thuộc loại trung bình, phân bố chủ yếu ở lớp vỏ

gạo.
- Vitamin: Trong lúa gạo còn có một số vitamin nhóm B như B1,
B2, B6…Vitamin B1 là 0,45 mg/100hạt. Từ những đặc điểm của cây lúa và
giá trị của nó, lúa gạo được coi là nguồn thực phẩm, dược phẩm có giá trị
và được tổ chức dinh dưỡng quốc tế gọi là "Hạt gạo là hạt của sự sống".
Với giá trị dinh dưỡng của hạt kết hợp với việc chọn tạo giống có
năng suất cao, phẩm chất tốt thì lúa gạo ngoài việc sử dụng hàm lượng
lương thực là chủ yếu thì các sản phẩm phụ của lúa còn sử dụng rất nhiều
trong các lĩnh vực khác nhau.
1.1.2. Một số đặc điểm của cây lúa
1.1.2.1. Đặc điểm sinh học
Sinh trưởng và phát triển của cây lúa phụ thuộc rất nhiều yếu tố, từ
điều kiện tự nhiên, tình hình canh tác, phân bón đất đai, mùa vụ gieo trồng,
giống và thời gian sinh trưởng của từng giống lúa.Quá trình sinh trưởng của
cây lúa có thể chia ra làm hai thời kỳ: Sinh trưởng dinh dưỡng và sinh
trưởng sinh thực.
- Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng: Ở thời kỳ này cây lúa chủ yếu
hình thành và phát triển các cơ quan dinh dưỡng như ra lá, phát triển rễ, đẻ
nhánh…
- Thời kỳ sinh trưởng sinh thực: Là thời kỳ phân hoá, hình thành cơ
quan sinh sản bắt đầu từ khi làm đòng đến khi thu hoạch. Bao gồm các quá
trình làm đòng, trổ bông, hình thành hạt. Quá trình làm đốt tuy là sinh
trưởng dinh dưỡng nhưng lại tiến hành song song với quá trình phân hoá
đòng nên nó cũng nằm trong quá trình sinh thực. Thời kỳ này có ảnh hưởng
trực tiếp đến việc hình thành số bông, tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng hạt lúa.
+ Quá trình nẩy mầm: Hạt hút nước, độ ẩm trong hạt tăng, hoạt động
các men hô hấp và phân giải rõ rệt, một loạt các phản ứng sinh hoá xảy ra,
phôi được cung cấp glucoza, axitamin, các tế bào phân chia, lớn lên trục
phôi phình to, đẩy mầm khi nẩy mầm, đầu tiên xuất hiện lá bao hình vảy,
không có diệp lục. Đồng thời trong quá trình nẩy mầm, từ phôi xuất hiện rễ

phôi. Rễ này dài, sau này phát triển thành các lông tơ giúp hạt hút nước
trong thời kỳ đầu.
+ Quá trình phát triển của bộ rễ: Sau khi nẩy mầm rễ lúa phát triển
từ phôi là rễ mộng, rễ này chủ yếu có một cái. Rễ mộng xuất hiện rồi dài ra,
có thể hình thành lông rễ, rễ mộng hoạt động trong một thời gian ngắn rồi
chết đi và được thay thế bằng các lớp rễ phụ được hình thành từ mặt các đốt
gốc của cây. Những mắc đầu chỉ ra được trên dưới năm rễ, nhưng mắc sau
có thể đạt tới 3-20 rễ. Tập hợp các lớp sẽ tạo thành rễ chùm.
+ Quá trình phát triển lá: Lá được hình thành từ các mầm lá ở mắc
thân, khi hạt nẩy mầm, hình thành các lá đầu tiên là lá bao mầm, lá không
hoàn toàn rồi đến lá thật 1,2,3… Các lá phát triển liên tục từ ba lá đầu này,
cây lúa đã tự nuôi dưỡng hoàn toàn sống độc lập, lá quang hợp, rễ hút dinh
dưỡng. Thông thường trên cây lúa có khoảng 5-6 lá cùng hoạt động, lá già
tàn rụi dần để các lá non mới lại tiếp tục.
+ Quá trình đẻ nhánh: Lúa sau khi bén rễ hồi xanh thì làm đốt, làm
đòng. Nhánh lúa hình thành từ các mầm nách ở gốc thân. Quá trình hình
thành một nhánh qua bốn giai đoạn: phân hoá nhánh, hình thành nhánh,
nhánh dài trong bọc lá và nhánh xuất hiện. Trong quá trình hình thành
nhánh đầu tiên xuất hiện một lá bao hình ống dẹt, rồi xuất hiện các lá của
nhánh, nhánh phát triễn 3-4 lá có thể tách ra khỏi cây mẹ và sống tự lập.
+ Quá trình làm đòng: Ở thời kỳ này thân lúa chính thức mới được
hình thành, số lóng kéo dài và chiều dài các lóng quyết định chiều cao của
cây. Quá trình làm đòng là quá trình phân hoá và hình thành các cơ quan
sinh sản, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành năng suất lúa.
+ Quá trình trổ bông, nở hoa, thụ phấn: Sau khi hoàn thành quá trình
làm đòng thì cây lúa trổ ra ngoài do sự phát triển nhanh của lóng trên cùng.
Khi cây lúa thoát ra khỏi bẹ lá là quá trình trổ xong. Cùng với quá trình trổ
bao phấn trên một bông các hoa ở đầu bông và đầu gié nở trước, các hoa ở
gốc bông, các hoa ở gốc bông nở cuối cùng. Khi hoa nở phơi màu, váy cá
hút nước trương to lên, đồng thời với áp lực của vòi nhị làm cho vỏ trấu nở

ra, hạt phấn rơi vào đầu nhuỵ, đó là quá trình thụ phấn. Sau quá trình thụ
phấn là quá trình thụ tinh và hình thành hạt. Trong điều kiện bình thường
hạt phấn rơi xuống đầu nhuỵ, sau 15 phút ống phấn bắt đầu dài ra, các chất
trong hạt bắt đầu dồn về ống phấn. Sau thụ tinh là quá trình phát triển phôi
và phôi nhũ.
+ Quá trình chín hạt: Chúng ta có thể chia quá trình chín hạt ra làm
ba thời kỳ: chín sữa, chín sáp và chín hoàn toàn.
• Chín sữa: Sau phơi màu 6-7 ngày các chất dự trữ trong hạt ở dạng lỏng,
trắng như sữa, hình dạng hạt hoàn thành có màu xanh, trọng lượng hạt tăng
nhanh ở thời kỳ này.
• Chín sáp: Ở thời kỳ này chất dịch trong hạt dần dần đặc lại, hạt cứng và
màu xanh dần chuyển sang màu vàng.
• Chín hoàn toàn: Thời kỳ này hạt chắc cứng, màu vàng nhạt và trọng
lượng hạt đạt tối đa.
Quá trình lúa chín kéo dài 30-40 ngày tuỳ theo giống, thời vụ. Đây
là quá trình quyết định năng suất lúa.
1.1.2.2. Đặc điểm sinh thái
Ngoài sự tác động của con người thì khí hậu thời tiết là yếu tố quan
trọng nhất của điều kiện sinh thái, nó có ảnh hưởng lớn nhất và thường
xuyên đến quá trình sinh trưỡng và phát triển của cây lúa.
+ Về nhiệt độ: Quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa phụ
thuộc rất nhiều về nhiệt độ trong vụ gieo trồng. Nếu thời tiết thuận lợi,
nhiệt độ trung bình cao cây lúa đạt được tổng nhiệt cần thiết sẽ ra hoa và
chín sớm hơn tức là rút ngắn thời gian sinh trưởng và ngược lại. Để cho cây
lúa phát triển tốt thì cần nhiệt độ khác nhau qua các thời kỳ sinh trưởng.
• Thời kỳ nẩy mầm: Nhiệt độ thích hợp cho cây lúa nẩy mầm là 30-
35
0
C. Nhiệt độ giới hạn thấp nhất là 10-12
0

C và quá cao là trên 40
0
C không
có lợi cho quá trình nẩy mầm của lúa.
• Thời kỳ đẻ nhánh, làm đòng: Ở thời kỳ này cây lúa đã bén rễ, hồi
xanh. Nhiệt độ thích hợp là 25-32
0
C. Nhiệt độ dưới 16
0
C quá trình bén rễ,
đẻ nhánh, làm đòng không thuận lợi.
• Thời kỳ trổ bông làm hạt: Thời kỳ này cây lúa rất nhạy cảm trước
sự thay đổi của nhiệt độ. Trong quá trình nở hoa, phơi màu, thụ tinh đòi hỏi
nhiệt độ phải ổn định. Nếu gặp nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao đều không
có lợi.
+ Nước: Là thành phần chủ yếu trong cơ thể lúa, là điều kiện để thực
hiện quá trình sinh lý trong cây và là điều kiện ngoại cảnh không thể thiếu
của cây lúa.
Theo Goutchin, để tạo ra một đơn vị thân lá, cây lúa cần 400-450 đơn vị
nước, để tạo ra một đơn vị hạt, cây lúa cần 300-350 đơn vị nước. Nhu cầu
nước của cây lúa qua các thời kỳ sinh trưởng là khác nhau.
• Thời kỳ nẩy mầm: Hạt giống được bảo quản dưới độ ẩm 13%, khi
ngâm hạt, hạt hút nước đạt 22% thì có thể hoạt động và nẩy mầm tốt khi độ
ẩm của hạt đạt 25-28%.
• Thời kỳ cây con: Trong điều kiện gieo thẳng cây lúa ở giai đoạn
cây con không cần nước nhiều, ta chủ động giữ đủ ẩm và cho nước vào
ruộng từ từ khi cây được 2-4 lá.
• Thời kỳ đẻ nhánh: Ở giai đoạn này chủ động tháo nước sát gốc lúa.
Để tạo điều kiện cho cây lúa đẻ nhánh, sau khi cây đẻ nhánh hữu hiệu làm
đòng trổ bông ta cần cho nước vào đầy đủ tránh bị khô nước làm ảnh hưởng

đến quá trình sinh trưởng của cây lúa. Để lúa sinh trưởng thuận lợi, đạt
năng suất cao cần cung cấp nước đầy đủ.
1.1.3. Một số vấn đề về hiệu quả và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh
tế:
Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng
đầu của các nhà sản xuất, nhà kinh doanh và cũng là mối quan tâm chung
của toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh chất
lượng của hoạt động kinh tế, là thước đo trình độ tổ chức và chức năng
quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy trong điều kiện
hiện nay các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì yêu cầu đặt ra là
phải kinh doanh có hiệu quả, thì doanh nghiệp mới đứng vững trên thị
trường. Với một lượng đầu vào hay tài nguyên nhất định, để tạo ra một khối
lượng sản phẩm lớn nhất có thể được là mục tiêu chung của các nhà sản
xuất và các nhà quản lý. Tuy nhiên trong thực tế nghiên cứu ta thu được kết
quả rất đa dạng và phong phú, kết quả có thể trên phương diện kinh tế - tài
chính mà cũng có thể trên phương diện KT-XH. Từ đó mà hình thành nên
khái niệm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế xã hội.
Như vậy, hiệu quả kinh tế là sự tương quan so sánh giữa lượng kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra, nó thể hiện bằng các chỉ tiêu như sau: Giá trị
tổng sản phẩm, thu nhập, lợi nhuận tính trên lượng chi phí bỏ ra.
Hiệu quả xã hội là tương quan so sánh giữa chi phí xã hội bỏ ra và
kết quả mà xã hội đạt được như: tăng thêm việc làm, cải tạo môi trường
sinh thái, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo
Hiệu quả kinh tế - xã hội là sự tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra
và kết quả đạt được cả về kinh tế và xã hội. Mục tiêu cuối cùng của phát
triển kinh tế là phát triển xã hội. Do đó khi nói đến hiệu quả kinh tế chúng
ta nói trên quan điểm kinh tế xã hội.
Tùy theo mục đích tính toán hiệu quả kinh tế mà xác định kết quả
sao cho phù hợp. Đối với nông hộ, kết quả cần được quan tâm là thu nhập.
Chi phí bỏ ra trong quá trình kinh doanh là những chi phí cho các yếu tố

đầu vào như: đất đai, lao động, nguyên nhiên liệu. Sau khi đã xác định được
kết quả thu được và chi phí bỏ ra chúng ta có thể tính được hiệu quả kinh tế
bằng các phương pháp sau:
Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa kết quả đạt được và
chi phí bỏ ra. Công thức được xác định như sau:
H = Q/C
Trong đó: H: hiệu quả kinh tế
Q: kết quả thu được
C: chi phí bỏ ra
Phương pháp này phản ánh rỏ nét trình độ sử dụng các nguồn lực,
xem xét được một đơn vị nguồn lực đã sử dụng đem lại bao nhiêu kết quả.
Điều này giúp ta so sánh hiệu quả ở các qui mô khác nhau.
Trên cơ sở hệ thống tài khoản quốc gia SNA, chúng ta có các chỉ
tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả kinh tế như sau:
+ Giá trị gia tăng (VA): là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
quan trọng phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các
ngành thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ
nhất định. Đó là nguồn gốc của mọi khoản thu nhập, sự giàu có và phồn
vinh xã hội. Nó không chỉ biểu hiện hiệu quả của sản xuất theo chiều rộng
mà còn là một trong những cơ sở quan trọng để tính các chỉ tiêu kinh tế
khác. Được xác đinh bởi công thức sau:
VA = GO - IC
+ Giá trị sản xuất (GO): là chỉ tiêu cho biết trong một năm hoặc một
vụ thì đơn vị sản xuất tạo ra được khối lượng sản phẩm có giá trị là bao
nhiêu, chỉ tiêu này phản ánh qui mô về giá trị sản xuất mà ngành nông
nghiệp tạo ra cho xã hội. Có công thức xác định như sau:
GO = Q * P
Trong đó : Q
:
khối lượng sản phẩm

P: giá cả của sản phẩm
+ Chi phí sản xuất: Bao gồm chi phí trung gian và chi phí về lao
động gia đình
- Chi phí trung gian (IC): là bộ phận cấu thành giá trị sản xuất bao
gồm những chi phí vật chất và dịch vụ cho sản xuất (không kể khấu hao),
như phân bón, thuốc các loại, thuê thu hoạch, các khâu dịch vụ như thuỷ
lợi, làm đất, vận chuyển, tuốt lúa.
• Chi phí vật chất trong sản xuất lúa là các yếu tố đầu vào: giống, phân
bón, thuốc các loại…
• Chi phí dịch vụ trong sản xuất lúa:
Công lao động thuê ngoài
Các chi phí dịch vụ khác
+ Năng suất lúa (N): Chỉ tiêu này nói lên sản lượng thu được trên
một đơn vị diện tích, được xác định bằng công thức sau:
N=Q/S
Trong đó: Q: sản lượng lúa
S: diện tích gieo lúa
* Các chỉ tiêu phản ánh quy mô lợi nhuận của đơn vị sản xuất có
được trong sản xuất.
VA/IC: Giá trị tăng thêm trên chi phí trung gian, chỉ tiêu này phản
ánh một đồng chi phí trung gian có thể tạo ra bao nhiêu đồng giá trị tăng
thêm trong kỳ.
GO/IC: Giá trị sản xuất trên chi phi trung gian, chỉ tiêu này phản ánh
một đồng chi phí trung gian có thể tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản xuất
trong kỳ.
VA/lao động gia đình (LĐGĐ): Chỉ tiêu này phản ánh một công lao
động gia đình tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng trong kỳ sản xuất.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa trên Thế giới và ở Việt Nam
- Trên thế giới, lúa chiếm một vị trí quan trọng, đặc biệt ở vùng Châu

Á.
Ở Châu Á, lúa là món ăn chính giống như bắp của dân Nam Mỹ, hạt kê
của
dân Châu Phi hoặc lúa mì của dân Châu Âu và Bắc Mỹ .
Thống kế của tổ chức lương thực thế giới (FAO,2008) cho thấy, có
114
nước trồng lúa, trong đó 18 nước có diện tích trồng lúa trên trên 1.000.000
ha
tập trung ở Châu Á, , 31 nước có diện tích trồng lúa trong khoảng
100.000ha - 1.000.000 ha. Trong đó có 27 nước có năng suất trên 5 tấn/ha
đứng đầu là Ai Cập (9.7 tấn/ha), Úc (9.5 tấn/ha) El Salvador (7.9 tấn/ha).
.Thống kế của tổ chức lương thực thế giới (FAO,2008) còn cho thấy, diện
tích trồng lúa trên thế giới đã gia tăng rõ rệt từ năm 1961 đến 1980. Trong
vòng 19 năm đó, diện tích trồng lúa trên thế giới tăng bình quân 1,53 triệu
ha/năm. Từ năm 1980, diện tích lúa tăng chậm và đạt cao nhất vào năm
1999
(156,8 triệu ha) với tốc độ tăng chậm với tốc độ tăng trưởng bình quân
630.000 ha/năm. Từ năm 2000 trở đi diện tích trồng lúa thế giới có
nhiều biến
động và có xu hướng giảm dần, đến năm 2005 còn ở mức 155,1 triệu
ha. Từ
năm 2005 đến 2008 diện tích lúa gia tăng liên tục đạt 159,0 triệu ha cao
nhất kể từ năm 1995 tới nay.
- Bên cạnh diện tích trồng lúa, năng suất lúa bình quân trên thế giới
cũng
tăng khoảng 1,4 tấn/ha trong vòng 24 năm từ năm 1961 đến 1985, đặc
biệt sau
cuộc cách mạng xanh của thế giới vào những năm 1965-1970, với sự ra
đời
của các giống lúa thấp cây, ngắn ngày, không quang cảm, mà tiêu biểu


giống lúa IR5, IR8. Đến những năm 1990 dẫn đầu năng suất lúa trên
thế giới
là các nước Triều Tiên, Úc, Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban Nha (IRRI, 1990).
Từ
năm 1990 trở đi đến tại thời điểm hiện nay năng suất lúa thế giới liên
tục được
cải thiện đạt 4,3 tấn/ha năm 2008, tuy nhiên chỉ bằng phân nửa năng
suất của
Ai Cập (9,7 tấn/ha) nước đứng đầu thế giới.
Xuất phát điểm của Việt nam là một nước nông nghiệp, cây lúa là
cây trồng chính và lâu đời, cây lúa được phân bố khắp mọi miền của đất
nước từ Bắc vào Nam, là một trong những nước có điều kiện khí hậu thuận
lợi cho sự phát triển của cây lúa. Hơn 70 % dân số Việt nam sống bằng
nghề trồng lúa, nhân dân ta rất cần cù, sáng tạo và giàu kinh nghiệm trong
nghề trồng lúa nước, được kế thừa những kinh nghiệm của cha ông và đúc
rút nhiều thành công trong công tác chăm sóc và gieo trồng.
Bảng 1: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa nước ta qua 2 năm
Chỉ tiêu ĐVT 2008 2009 2009/2008
± %
Diện tích
lúa
Nghìn
ha
7400,2 7440,1 +39,9 0,5
Năng suất tạ/ha 52,3 52,2 -0,1 0,2
Sản lượng Nghìn
tấn
38729,8 38895,5 165,7 0,4
(Nguồn: Niên giám thống kê cả nước 2009)

Qua số liệu thực tế, diện tích sản xuất lúa của nước ta qua 2 năm
tăng lên . Từ 7400,2 nghìn ha (năm 2008), tănglên 7440,1 nghìn ha (năm
2009), tức tăng 39,9 nghìn ha so với năm 2009, tương ứng giảm 0,5%.Tuy
vậy năng suất cũng không tăng lên qua 2 năm. Từ 52,3 ta/ha (năm 2008)
xuống còn 52,2 tạ/ha (năm 2009), tức giảm 0,1 tạ/ha, tương ứng 0,2%. Sản
lượng lúa vẫn tăng được ổn định khi diện tích tăng qua 2 năm. Sản lượng
năm 2009 đạt 38895,5 nghìn tấn, tăn 165,7 tấn so với năm 2008, tương ứng
tăng 0,4%.
1.2.2. Tình hình sản xuất lúa của tỉnh Thừa Thiên Huế
Những năm vừa qua tình hình sản xuất lúa của tỉnh TT Huế có
những biến động theo chiều hướng tích cực.
Qua số liệu thu thập được ta thấy rằng tỉnh TT Huế sản xuất lúa ba
vụ. Tuy nhiên chủ yếu là vụ ĐX và vụ HT, còn vụ Mùa chiếm diện tích
không đáng kể, cụ thể là năm 2003 gieo trồng 625 ha, đạt năng suất 14,7
tạ/ha. Con số này năm 2004 là 692 ha, đạt năng suất 15,2 tạ/ha. Nếu xem
xét cả năm thì có kết quả như sau: Diện tích sản xuất lúa năm 2003 là
51.414 ha, đạt năng suất 106,4 tạ/ha. Đến năm 2004, diện tích giảm còn
51.316 ha, tức giảm 98 ha, tương ứng giảm 0,2%. Tuy nhiên, năng suất lúa
lại tăng lên 112 tạ/ha (2004), tức tăng 5,6 tạ/ha, tương ứng tăng 5,3%.
Nguyên nhân là do thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển diện tích
trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các lại cây khác có hiệu quả kinh tế hơn.
Mặc dù giảm diện tích trồng lúa nhưng do tăng năng suất lúa không những
ổn định được sản lượng lúa mà còn tăng sản lượng năm 2004 lên 246.496,6
tấn, tăng so với năm 2003 là 11.920,9 tấn, tương ứng tăng 5,1%. Đây là một
kết quả đạt được của tỉnh TT Huế
Bảng 2: diện tích, năng suất và sản lượng lúa của tỉnh TT Huế:
Chỉ tiêu Năm 2003 Cả năm Năm 2004 Cả năm 2004/2003
ĐX HT mùa ĐX HT mùa +/- %
1. diện tích
gieo trồng (ha)

26,64
7
24,142 625 51,684 26,323 24,301 692 51,316 - 368 -0,71
2. năng suất
(tạ/ha)
49 42,7 14,7 106,4 50,5 46,3 15,2 112 +5,6 +5,2
6
3. sản lượng
(tấn)
130,6
56
104,159 921 235,736 123,922 112,516 1,052 246,490 +10,754 +4,5
6
(nguồn: niên giám thống kê tỉnh TT Huế 2005)
1.2.3. Tình hình sản xuất lúa của Huyện Quảng Điền, tỉnh TT Huế
Huyện Quảng Điền là vùng đất trù phú, phì nhiêu, trải dài dọc theo
bờ biển phá Tam Giang. Bên cạnh những thuận lợi phát triển nông nghiệp
huyện cũng gặp không ít khó khăn. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp,
thường bị thiên tai lũ lụt, hạn hán, ngập úng, sâu bệnh… đã làm cho năng
suất lúa giảm rất đáng kể. Tuy nhiên, qua 5 năm tiếp tục thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng, tình hình KT-XH của huyện có bước phát triển và
mở ra một số triển vọng mới.
Bảng 3: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của huyện Quảng Điền
Chỉ
tiêu
2003 Cả
năm
2004 Cả
năm
2004/2003

ĐX HT ĐX HT +/- %
1.
diện
tích
gieo
trồng
(ha)
4,096 3,820 7,916 4,010 3,694 7,704 -212 -2,68
2.
Năng
suất
(tạ/ha
)
53,6 46 99,6 56 50,4 106,4 +6,8 +6,8
3
3. Sản
lượng
(tấn)
21,95
5
17,56
2
39,51
7
22,45
6
18,61
8
41,04
7

+1,55
7
+3,9
4
(nguồn: Niên giám thống kê tỉnh TT Huế 2005)
Từ bảng số liệu thu thập được cho ta thấy rằng diện tích, năng suất và sản
lượng qua các năm, các vụ ĐX và HT có sự biến động rõ rệt.
Về diện tích gieo trồng, cả hai năm thì vụ HT đều có diện tích gieo
trồng giảm so với vụ ĐX. Năm 2003, diện tích vụ ĐX 4.096 ha, vụ HT
giảm còn 3.820 ha. Đây là đường lối chủ trương của huyện. Bởi vì vụ HT là
mùa hạn hán, nước mặn dễ xâm nhập vào; những vùng đất cao, vùng đất
không thuận tiện cho việc tưới tiêu, nếu vẫn duy trì sản xuất lúa thì sẽ thiếu
nước dẫn đến mất mùa. Do đó diện tích này sẽ chuyển sang trồng màu có
hiệu quả kinh tế hơn và có một ít diện tích phải bỏ hoang.Tuy nhiên việc
giảm diện tích này là một phần làm giảm sản lượng lúa. Do đó, huyện cần
phải xem xét thật kỹ, xây dựng thuỷ lợi để phục vụ tưới tiêu, đặc biệt trong
vụ HT để hạn chế việc giảm diện tích sản xuất lúa không cần thiết. Đối với
cả năm thì diện tích gieo trồng lúa năm 2004 giảm so với năm 2003 là 212
ha tương ứng 2,7%. Điều này do nhiều nguyên nhân. Trước hết là do huyện
chủ trương chuyển một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả, những vùng đất
cao ít bị ngập úng sang trồng màu, lạc, mía, hoa các loại có hiệu quả kinh tế
hơn. Hai là do xây dựng các công trình thuỷ lợi, đắp đê, mở thêm đường xá
giao thông phục vụ cho tưới, tiêu, chống úng cho vụ ĐX, cho đi lại và vận
chuyển trong mùa màng thu hoạch. Ba là do xây dựng các công trình phát
triển công nghiệp, xây dựng khu quy hoạch nhà ở vùng trung tâm của
huyện Quảng Điền - Thị Trấn Sịa.
Đối với năng suất lúa, thì vụ HT cả hai năm đều giảm. Năm 2003,
vụ ĐX đạt 53,6 tạ/ha, vụ HT giảm xuống còn 46 tạ/ha. Năm 2004, vụ ĐX
đạt 56 tạ/ha, vụ HT giảm còn 50,4 tạ/ha. Điều này đúng như quy luật của tự
nhiên, sản xuất lúa vụ HT thường gặp nắng hạn, khó khăn trong việc tưới

nước, đặc biệt vào lúc lúa trổ gặp nhiệt độ quá cao lại thiếu nước thì sẽ có
nhiều hạt xép dẫn đến năng suất không cao. Hơn nữa, vụ HT là vụ kế tiếp
của vụ ĐX. Theo kinh nghiệm của bà con nông dân, trong vụ ĐX cây trồng
đã hút nhiều chất dinh dưỡng làm cho đất bạc màu đi, mà trong vụ HT đất
không được ngấm lâu, dinh dưỡng của đất chưa được bổ sung kịp thời, kết
quả là cây trồng sinh trưởng không tốt và năng suất thấp. Xét cả năm, thì
năng suất năm 2003 chỉ đạt 99,6 tạ/ha, năm 2004 đạt 106,4 tạ/ha. Như vậy
năm 2004 tăng so với năm 2003 là 6,8 tạ/ha tương ứng tăng 6,8%. Và đã
làm sản lượng tăng từ 39.526,6 tấn (2003) lên 41.073,8 tấn (2004). Sỡ dĩ có
được thành tích này là kết quả của quá trình không ngừng phấn đấu, chiến
lược táo bạo của huyện. Tức là, huyện đã tiếp tục phát triển theo hướng đẩy
mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào thâm canh và chuyển dịch cơ cấu sản
xuất. Cây lúa tiếp tục thể hiện vai trò chủ lực. Với các biện pháp thâm canh
đồng bộ và nâng cao chất lượng giống, đã đạt được năng suất bình quân
hàng năm 49,2 tạ/ha/vụ (năm 2004 đạt 53,2 tạ). Đặc biệt là triễn khai tổ
chức sản xuất giống lúa cấp 1 với 92,5 ha ở các HTX nông nghiệp, đã góp
phần tăng năng suất lúa của huyện.
Đến đây, chúng ta hiểu rõ rằng, giảm diện tích trồng lúa không phải
là một nhược điểm của huyện mà là quyết định đúng đắn, thực hiện đường
lối chủ trương nâng cao năng suất để tăng sản lượng, ổn định được an ninh
lương thực. Mặc dầu, giảm diện tích gieo trồng có ảnh hưởng đến sản
lượng nhưng đây là con đường cơ bản mà huyện cần thực hiện, là con
đường tích cực.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT LÚA CỦA NÔNG HỘ Ở XÃ QUẢNG
PHƯỚC
2.1. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT LÚA Ở XÃ QUẢNG PHƯỚC
Những năm qua xã Quảng Phước đã thực hiện tốt chủ trương, xây
dựng nhiều cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi… nhằm phát triển sản xuất
nông nghiệp. trong đó, cây lúa vẫn giữ vị trí vai trò chủ lực.

Bảng 4: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa cả năm của xã
Quảng Phước qua 3 năm
Năm
Chỉ tiêu
ĐVT 2007 2008 2009
2009/2007
±
%
1.Diện tích lúa Ha 464,03 456,03 441,85 -22,18 -0.5
2. Năng suất Tạ/ha 98,99 97,81 97,99 -1,00 -0.1
3. Sản lượng Tấn 4593,7 4459,9 4330 -263,7 -5,8
(Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm 2010 của xã Quảng Phước)
Từ bảng số liệu thu thập được, cho ta thấy rằng những năm qua tình
hình biến động diện tích và năng suất lúa tại địa phương có chiều hướng
trái ngược nhau. Điều này thể hiện cụ thể là, diện tích sản xuất lúa giảm
mạnh qua các năm. Năm 2007 chỉ tiêu này là 464,03 ha, đến năm 2009 chỉ
tiêu này còn 441,85 ha, tức đã giảm so với năm 2007 là 22,18 ha, tương
ứng giảm 0,5%. Chính điều này đã làm cho sản lượng lúa giảm với số
lượng không nhỏ. Sỡ dĩ diện tích giảm là do các nguyên nhân sau: một là,
xã thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển một số diện tích trồng lúa
sang trồng màu, lạc, mía có hiệu quả kinh tế hơn…và xây dựng các công
trình cầu cống chiếm nhiều diện tích.
Đối với năng suất lúa thì ổn định. Nhìn chung năng suất lúa tại địa
phương ổn định qua các năm. Năm 2007, chỉ tiêu này đạt 98,99 tạ/ha. Đến
năm 2009 chỉ tiêu này là 97.81 tạ/ha so với năm 2007 là 1,00 tạ/ha, tương
ứng 0.1%.Nhìn chung năng suất lúa la rất ổn định Có được thành tích này
là nhờ xã đã không ngừng phấn đấu vươn lên. Ngoài ra xã đã đẩy mạnh
chương trình kiên cố hoá kênh mươn, tăng tỷ lệ cơ giới hoá trong các khâu
sản xuất và thu hoạch; trình độ thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật của nông dân ngày càng tăng lên do vậy những năm qua sản lượng

nông nghiệp vẫn được ổn định trong điều kiện diện tích ngày càng thu hẹp.
Bên cạnh những thành tích đạt được, việc giảm diện tích đã làm cho
sản lượng giảm mặc dù năng suất qua các năm ổn định. Sản lượng năm
2009 đạt 4330 tấn giảm so với năm 2007 là 263.7 tấn tương ứng giảm
5,8%. Từ thực tế này cho chúng ta thấy rằng. Nếu xã chủ động giảm những
diện tích sản xuất lúa kém hiệu quả để thay thế những cây trồng khác có
hiệu quả kinh tế hơn.
2.2. TÌNH HÌNH CHUNG CỦA NÔNG HỘ ĐIỀU TRA
2.2.1. Tình hình nhân khẩu, lao động và quy mô đất đai của các hộ điều
tra năm 2010
Theo nguồn thông tin từ cán bộ phòng Chính sách - xã hội, UBND
Xã, chuẩn nghèo được áp dụng tại địa phương như sau: Thu nhập bình quân
đầu người dưới 100.000 đồng/người/tháng được xếp vào nhóm hộ nghèo
đói; từ 100.000 đến 200.000 đồng/người/tháng là hộ trung bình; trên
200.000 đồng/người/tháng là hộ khá giàu. Từ đó chúng tôi có bảng phân
loại dưới đây (điều tra chọn mẫu 30 hộ):
Bảng 5: Tình hình nhân khẩu, lao động và quy mô đất đai của các hộ
điều tra
Chỉ tiêu ĐVT
Nhóm hộ
khá giàu
Nhóm hộ
trung bình
Nhóm hộ
nghèo đói
BQ
chung
1.Tổng số hộ hộ 2,00 17,00 11,00 -
2.Tổng nhân khẩu
Số nhân khẩu BQ/hộ

người 12,00 83,00 54,00 -
người 6,00 4,88 4,90 3,86
3.Tổng số lao động
Số lao động BQ/hộ
người 5,00 43,00 33,00 -
người 2,50 2,53 3,00 2,70
4.Tổng DTCT BQ/hộ
DTCT lúa BQ/hộ
Sào 33,00 95,5 45,50
Sào 16,50 5,62 4,14 5,80
(Nguồn: Số liệu điều tra 2010)
Qua bảng số liệu điều tra năm 2010 của 30 hộ thì có 2 hộ khá giàu,
17 hộ trung bình và 11 hộ nghèo đói. Nhìn chung, nhân khẩu, lao động
cũng như DTCT của các nhóm hộ có sự chênh lệch đáng kể. Nhóm hộ
nghèo đói và trung bình có số nhân khẩu bình quân/hộ thấp hơn nhóm hộ
khá giàu. Nhóm hộ nghèo đói và trung bình lần lượt là 4,90 người/hộ và
4,88 người/hộ. Trong khi đó con số này ở hộ khá giàu là 6 người/hộ. Đối
với số người lao động bình quân/hộ thì nhóm hộ nghèo có số lao động cao
nhất là 3 người/hộ. Trong khi đó nhóm hộ khá giàu và trung bình lần lượt là
2,5 người/hộ và 2,53 người/hộ. Nguyên nhân là do nhóm hộ nghèo đói có
số người ăn theo nhiều, hộ có số con nhỏ đông. Hộ giàu có lực lượng lao
động đông, nhưng lực lượng tham gia vào sản xuất nông nghiệp ít, chủ yếu
là hoạt động các ngành nghề dịch vụ, mang lại thu nhập cao. Ta có thể nói
thiếu lao động là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến nghèo
đói.
2.2.2 Tình hình trang bị tư liệu sản xuất của các nông hộ:
Bên cạnh lao động, vốn, đất đai thì tư liệu sản xuất là yếu tố không
thể thiếu đối với bất kỳ ngành sản xuất vật chất nào. Tư liệu sản xuất nói
lên trình độ sản xuất và quy mô sản xuất của một đơn vị, địa phương…
hiện nay, tư liệu sản xuất của các nông hộ đã được HTX cung cấp, hỗ trợ

như: trâu, bò cày kéo, máy bơm nước, máy tuốt lúa Điều quan trọng là
nông dân phải có đủ vốn để đầu tư phân, thuốc các loại, giống, đặc biệt là
phí các khâu dịch vụ như phí thuỷ lợi, làm đất, phí tuốt lúa, phí thu hoạch.
Tất cả điều này làm cho việc trang bị tư liệu sản xuất của các hộ nghèo rất
thấp.
Vì vậy, cần phải trang bị thêm phương tiện vận chuyển phục vụ mùa
màng thu hoạch. Đẩy nhanh tốc độ cơ giới hoá nông nghiệp nông thôn, đặc
biệt là khâu vận chuyển. Một khi được ứng dụng máy móc, kỹ thuật vào
sản xuất một cách rộng rãi thì sẽ tạo điều kiện cho bà con làm kịp thời vụ,
mở rộng quy mô sản xuất, tránh được thiệt hại do thiên tai gây ra.
2.3. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT LÚA CỦA CÁC NÔNG
HỘ Ở XÃ QUẢNG PHƯỚC NĂM 2010
2.3.1. Tình hình chi phí sản xuất lúa của các nông hộ
Trong sản xuất lúa tại địa phương, một công thuê là 80.000 đồng,
công khoán thu hoạch là 100.000 đồng/sào. Trong sản xuất nông nghiệp nói
chung và sản xuất lúa nói riêng thì nông dân chủ yếu lấy công làm lãi do đó
các chi phí về công lao động chiếm một phần đáng kể trong tổng chi phí
sản xuất. Để thấy được tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào của các nông
hộ chúng ta xem xét bảng sau:
Bảng 6: Cơ cấu chi phí sản xuất lúa bình quân một nông hộ
ĐVT:1000đ/sào
Chỉ tiêu Nhóm hộ
nghèo
Nhóm hộ
trung bình
Nhóm hộ
giàu
BQ chung /hộ
GT % GT % GT % GT %
Tổng chi phí

ĐX
526.7 100.0 512.3 100.0 530.6 100.0 527.1 100.0
1. Chi phí
trung gian
(IC)
298 56.7 279 54.5 296 55.8 294 55.8
Phân bón 102.3 34.3 130.5 46.8 115.2 38.9 114.9 39.1
Giống 21.4 7.2 23.3 8.4 19.7 6.7 20.6 7.0
Thuốc các loại 53.3 17.9 26.3 9.4 46.1 15.6 44.6 15.2
Thuê thu
hoạch
21.7 7.15 16.7 6.0 20.4 6.9 20.0 6.8
Các khâu dịch
vụ
92.7 31.1 75.2 27.0 87.6 29.6 86.8 29.5
2. lao động gia
đình
228.7 43.4 233.3 45.5 234.6 44.2 233.2 44 3
Tổng chi phí
HT
540.7 100 521.3 100 526.5 100 528.6 100
1. chi phí
trung gian
(IC)
312 57.7 288 55.2 297 56.4 298.7 56.5
Phân bón 116.3 37.3 130.4 45.3 109.0 36.7 113.7 38.1
Giống 21.4 6.9 23.3 8.1 19.7 6.6 20.6 6.7
Thuốc các loại 53.3 17.1 29.6 10.3 47.9 16.1 46.2 15.5
Thuê thu
hoạch

21.3 6.8 16.7 5.8 20.5 6.9 20.1 6.7
Các khâu dịch
vụ
92.7 29.7 81.0 28.1 92.9 31.3 91.1 30.5
2.lao động gia
đình
228.7 42.3 233.3 44.8 229.5 43.6 229.9 43.5
Qua phân tích tình hình chi phí sản xuất trên của các nhóm hộ thì
nhóm hộ nào cũng có mức chi phí về lao động gia đình chiếm tỷ trọng rất
lớn. Mà mục đích của các hộ sản xuất là làm thế nào để hiệu quả kinh tế
cao nhất. Do vậy vấn đề phải đặt ra là ngoài việc tiết kiệm, sử dụng hợp lý,
đúng kỹ thuật các yếu tố đầu vào như phân thuốc, điều quan trọng nhất là
phải làm thế nào để giảm được công lao động. Để làm được điều này thì
quá trình sản xuất cần phải được cơ giới hoá, tập trung ruộng đất để nâng
cao hiệu quả sử dụng đất, tăng năng suất, xoá bỏ lối canh tác truyền thống.
Như vậy sẽ càng thuận tiện cho việc mở rộng quy mô sản xuất cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu.
2.3.2. Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả sản xuất lúa của
các nông hộ:
Kết quả là chỉ tiêu nói lên giá trị được tạo ra của quá trình hoạt động
sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định. Để đánh giá lợi ích mang lại
cho quá trình hoạt động sản xuất đó là bao nhiêu thì căn cứ vào chỉ tiêu
hiệu quả. Chỉ tiêu này là cơ sở cho việc lựa chọn phương án sản xuất tối ưu.
Nó phản ánh được lượng kết quả hữu ích cuối cùng đạt được và phần hao
phí vật chất, lao động bỏ ra trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh. Để hiểu rõ hơn về điều này chúng ta xem xét bảng sau.
Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả kinh tế của các hộ điều tra
BQ 1sào/1vụ
Chỉ tiêu ĐVT Nhóm hộ khá giàu Nhóm hộ trung
bình

Nhóm hộ nghèo Bình quân chung
/hộ
ĐX HT BQ/
Vụ
ĐX HT BQ/
Vụ
ĐX HT BQ/
Vụ
ĐX HT BQ/V

NS Kg/sào 275 242 258.5 283 263 273 258 225 242 265 234 250
GO 1000đ 636 551 594 676 668 673 511 486 514 581 526 554
IC 1000đ 298 312 305 279 288 284 296 297 297 294 299 297
VA 1000đ 338 239 289 399 380 389 245 189 217 287 227 257
GO/IC Lần 2.13 1.77 1.95 2.43 2.32 2.37 1.83 1.64 1.73 1.98 1.56 1.87
VA/IC Lần 1.08 0.78 0.93 1.37 1.26 1.31 0.78 0.56 0.67 0.93 0.71 0.82
VA/LDG Lần 1.48 1.04 1.26 1.71 1.63 1.67 1.00 0.78 0.89 1.20 0.96 1.08
D
(nguồn số liệu điều tra 2010)
Qua bảng số liệu điều tra cho thấy giá trị các chỉ tiêu của các nhóm
hộ có sự chênh lệch đáng kể. Trước hết, là chỉ tiêu năng suất. Nhóm hộ có
năng suất lúa cao nhất là nhóm hộ khá giàu, đạt 264,76 Kg/sào, tiếp đến là
nhóm hộ trung bình, đạt 253,75 Kg/sào, và thấp nhất là nhóm hộ nghèo đói,
đạt 222,00.
Bảng 13: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả kinh tế của các
hộ điều tra năm 2010
(Bình quân 1 vụ) Kg/sào.
Chỉ tiêu ĐVT Nhóm hộ
Khá Giàu
Nhóm hộ

Trung
Bình
Nhóm hộ
Nghèo Đói
BQ
chung/hộ
Năng suất Kg/sào 264,76 253,75 222,00 249,67
GO 1000đ 267,62 552,63 451,17 553,51
IC 1000đ 296,18 314,59 275,76 298,44
VA 1000đ 331,44 238,04 175,36 255,06
GO/IC lần 2,12 1,76 1,64 1,85
VA/IC lần 1,12 0,76 0,64 0,85
VA/LĐGĐ lần 1,44 1,07 0,73 1,11
(Nguồn: Số liệu điều tra 2010)
Nguyên nhân khách quan dẫn đến điều này là do các hộ này gặp thiên tai
hạn hán mất mùa ( theo thông tin từ các nông hộ). Nguyên nhân chủ quan
là do các hộ này còn thiếu thông tin, kỹ thuật, thiếu vốn. Một số bà con cho
biết: Mặc dù lượng chi phí chúng tôi bỏ ra tương đương với chi phí của các
hộ khá giàu và trung bình, nhưng do phải vay mượn để mua phân, thuốc…
Điều này đã làm cho việc chậm trễ trong chăm sóc bón phân, phun thuốc…
Kết quả là năng suất lúa của chúng tôi không cao. Một cách tổng quát hơn,
năng suất lúa bình quân chung/hộ đạt 249,67 Kg/sào. Nguyên nhân là do
năng suất lúa của các hộ nghèo đói thấp đã làm cho năng suất bình quân
chung giảm đáng kể. Ngoài ra, theo lời kể của bà con là, vụ HT là vụ sản
xuất trên đất xấu hơn vụ ĐX, do kế tiếp vụ ĐX mà các chất dinh dưỡng
trong đất đã cung cấp cho cây lúa, lại phải làm đất vội nên chưa ngấm đất
lâu, dinh dưỡng trong đất chưa kịp thời được bổ sung, cải tạo. Điều này làm
cho năng suất vụ HT giảm mạnh so với vụ ĐX. Dẫn đến năng suất bình
quân chung giảm. Mặc dù, có nhiều nguyên nhân làm cho năng suất lúa
giảm đáng kể, song năng suất bình quân đạt 249,67 Kg/sào là một kết quả

khả quan, kết quả của quá trình phấn đấu siên năng, cần cù của các hộ.
Chính vì sự chênh lệch năng suất của các nhóm hộ rõ rệt, kéo theo
những thay đổi của GO cũng tương tự. Cụ thể là giá trị sản xuất bình quân
của nhóm hộ khá giàu cao nhất, đạt 627,62 nghìn đồng/sào, kế tiếp là nhóm
hộ trung bình, con số này đạt 552,63 nghìn đồng/sào, và thấp nhất là nhóm
hộ nghèo đói, chỉ đạt 451,17 nghìn đồng/sào. Như vậy, GO của nhóm hộ
nghèo đói thấp hơn nhóm hộ có GO cao nhất là 176,45 nghìn đồng/sào.
Điều này ngoài nguyên nhân về năng suất thấp còn do nguyên nhân về giá.
Tức là các hộ nghèo đói thường bán lúa khi vừa thu hoạch xong, để trả nợ,
mà những lúc này giá lúa rất thấp, hơn nữa lại bị tư thương ép giá. Do đó
mà các hộ này vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm. Chỉ tiêu này xem xét
bình quân chung/hộ, đạt 553,51 nghìn đồng/sào. Nguyên nhân là do GO
của nhóm hộ nghèo đói thấp đã làm cho GO bình quân chung giảm rất đáng
kể. Đây là tồn tại, khó khăn của nông dân cũng như của địa phương. Do đó
vấn đề đặt ra trước mắt là phải hổ trợ vốn cho các nhóm hộ sản xuất nghèo
đói, đặc biệt là hổ trợ sau khi bị mất mùa để các nông hộ có điều kiện tái
sản xuất.
Về mặt chi phí trung gian (IC) của các nhóm hộ, như đã phân tích ở
bảng trước có sự biến động không đáng kể. IC của các nhóm hộ khá giàu,
trung bình và nghèo đói lần lượt là 296,18 nghìn đồng/sào, 314,59 nghìn
đồng/sào và 275,76 nghìn đồng/sào. IC bình quân chung/hộ là 298,44 nghìn
đồng/sào.
Từ những sự thay đổi của GO và IC, VA có những sự biến động kéo
theo là điều tất yếu xẩy ra. Kết quả này thể hiện sự thay đổi ở các nhóm hộ
rất rõ nét. Giá trị tăng thêm của nhóm hộ khá giàu cao nhất, đạt 331,44
nghìn đồng/sào, kế tiếp là nhóm hộ trung bình, đạt 238,04 nghìn đồng/sào
và nhóm hộ nghèo đói thấp nhất, chỉ đạt 175,36 nghìn đồng/sào. Như vậy,
giá trị tăng thêm của nhóm hộ nghèo đói thấp hơn 156,08 nghìn đồng/sào
so với nhóm hộ khá giàu là nhóm hộ có VA cao nhất. VA của các nhóm hộ
có sự chênh lệch lớn, do IC không đáng kể mà chủ yếu là do giá trị sản xuất

GO. Một cách tổng quát, chỉ tiêu giá trị tăng thêm bình quân chung/hộ đạt
255,06 nghìn đồng/sào,. Điều này chủ yếu là do các hộ nghèo đói có VA
quá thấp so với nhóm hộ khá giàu và trung bình. Để giải quyết điều này
ngoài các giải pháp trên, cần phải quan tâm làm thế nào để giảm chi phí
trung gian trong khi giá lúa thấp mà giá cả vật tư ngày càng tăng cao, và
đây cũng chính là nguyện vọng lớn lao của bà con.
Các chỉ tiêu kết quả chỉ cho biết giá trị còn lại là bao nhiêu sau khi
trừ đi chi phí trung gian, chứ chưa nói được một đồng chi phí bỏ ra sẽ tạo
được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất trong kỳ, một đồng chi phí bỏ ra sẽ tạo
ra bao nhiêu giá trị tăng thêm trong kỳ, cũng như một đồng chi phí về lao
động gia đình thì sẽ tạo ra được bao nhiêu giá trị tăng thêm trong kỳ. Tuy
nhiên, chúng là căn cứ để xác định các chỉ tiêu hiệu quả.
Trước hết là chỉ tiêu GO/IC. So sánh chỉ tiêu này giữa các nhóm hộ
thì nhóm hộ khá giàu đạt được con số cao nhất là 2,12 lần, tức là một đồng
chi phí trung gian bỏ ra thì tạo ra được 2,12 đồng giá trị sản xuất trong kỳ,
kế tiếp là nhóm hộ trung bình đạt 1,76 lần, tức là một đồng chi phí bỏ ra thì
tạo được 1,76 đồng giá trị sản xuất trong kỳ. Trong khi đó nhóm hộ nghèo
đói đạt một đồng chi phí bỏ ra chỉ tạo được 1,64 đồng giá trị sản xuất. Như
vậy, chỉ tiêu này giảm 0,64 lần so với nhóm hộ trung bình, tức giảm 0,48
giá trị sản xuất trên một đồng chi phí bỏ ra. Điều này cho thấy hiệu quả sản
xuất của nhóm hộ nghèo đói thấp hơn so với nhóm hộ khá giàu. Chính vì
hiệu quả sản xuất của nhóm hộ nghèo đói và trung bình thấp nên đã làm
cho GO/IC bình quân chung trên hộ giảm đáng kể, tức chỉ thu được 1,85
đồng giá trị sản xuất trên một đồng chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu thứ hai cần xem xét đó là VA/IC. Nếu xét bình quân vụ cho
từng nhóm hộ thì nhóm hộ khá giàu đạt chỉ tiêu này cao nhất là 1,12 lần,
tức là một đồng chi phí trung gian bỏ ra tạo ra được 1,12 đồng giá trị tăng
thêm, kế tiếp là nhóm hộ trung bình, một đồng chi phí bỏ ra thì thu được
giá trị tăng thêm là 0,76 đồng, và thấp nhất là nhóm hộ nghèo đói chỉ thu
được 0,64 đồng giá trị tăng thêm trên một đồng chi phí bỏ ra. Như vậy so

với nhóm hộ khá giàu thì nhóm hộ nghèo đói có giá trị tăng thêm thấp hơn
0,48 đồng trên một đồng chi phí bỏ ra. Qua đó, cho ta thấy hiệu quả sản
xuất của nhóm hộ khá giàu là cao nhất và của nhóm hộ nghèo đói là thấp
nhất.
Bên cạnh chi phí trung gian (IC), chi phí về lao động gia đình chiếm
tỷ trọng rất lớn khoảng 43,5% trong tổng chi phí sản xuất. Do đó ta có chỉ
tiêu cần đánh giá là VA/lao động gia đình (LĐGĐ). Xét bình quân vụ của
từng nhóm hộ thì con số này của nhóm hộ khá giàu cao nhất đạt 1,44 lần,
tức là một đồng chi phí về lao động gia đình bỏ ra thì tạo ra được 1,67 đồng
giá trị tăng thêm trong kỳ. Trong khi đó, con số này thấp nhất là ở nhóm hộ
nghèo đói chỉ đạt giá trị tăng thêm là 0,73 đồng trên một đồng chi phí về

×