PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trồng rừng sản xuất ở nước ta hiện nay đang là vấn đề thu hút sự quan tâm
của nhiều người đặc biệt từ khi thực hiện các Nghị định 01/CP của Chính phủ về
giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử
dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Những năm qua Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đã nổ lực khôi phục, cải tạo nhằm duy trì và phát triển rừng.
Năm 1990, độ che phủ rừng toàn quốc chỉ còn 27,7% nhưng đến năm 2007 đã
tăng lên 34% và định hướng đến năm 2015 tăng 16 triệu ha (gần 50%). Năm
2008, cả nước đã khoán bảo vệ 2,31 triệu ha rừng, đạt 149,3% so với kế hoạch;
nhiều địa phương đã huy động thêm vốn để tăng diện tích giao khoán rừng. Về
khoanh nuôi súc tiến tái sinh, đã thực hiện được 634,834 ha rừng/585.600 ha kế
hoạch, đạt 108% so với kế hoạch. Sản lượng khai thác gỗ rừng trồng khoảng
hơn 1 triệu m
3
/năm, góp phần làm sức ép vào rừng tự nhiên (Nguồn: Tổng cục
thống kê). Bộ NN-PTNT đã phê duyệt “đề án trồng rừng nguyên liệu chủ lực
phục vụ chương trình chế biến nguyên liệu giấy và chế biến lâm sản 2001-
2010” với 1200 cơ sở chế biến, hàng năm tiêu thụ khoảng 2 triệu m
3
[3].
Bên cạnh những loài cây bản địa được gây trồng tập trung thành công như
mỡ, bồ đề, tre luống, sen đen… Các loài cây nhập nội mọc nhanh như thông,
keo, bạch đàn với nhiều xuất xứ khác nhau cũng đã đưa vào cơ cấu trồng rừng
chính. Mục tiêu gây trồng hiện nay chủ yếu cung cấp nguyên liệu cho các ngành
công nghiệp giấy, ván MDF, ván dăm, đồ mộc, gỗ xây dựng và bao bì. Hiện nay
nước ta ở khu vực miền núi đã có nhiều hộ gia đình và tổ chức kinh tế tham gia
trồng các loại cây keo, bạch đàn… đã mang lại nguồn thu đáng kể, góp phần xoá
đói giảm nghèo và tăng thu nhập cho người dân miền núi [8].
Nam Đông là một huyện miền núi thuộc Tỉnh Thừa Thiên Huế có tiềm
năng lớn về đất lâm nghiệp để phát triển rừng trồng nói riêng và sản xuất lâm
nghiệp nói chung (chiếm 75,06% diện tích đất tự nhiên của toàn huyện - Nguồn
niên giám thống kê huyện Nam Đông năm 2010). Vì vậy, các xã nói chung trên
địa bàn huyện cũng có tiềm năng để phát triển rừng trồng trong đó có xã Hương
Lộc - là một xã trồng các loại cây để phát triển rừng sản xuất trên. Cây cho hiệu
quả kinh tế cao đó là cây keo. Diện tích tự nhiên là 6.620 ha, trong đó diện tích
đất lâm nghiệp 3.568 ha, chiếm 53,89%. Trong những năm gần đây cây keo
đang là cây sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn xã. Cây keo đã và đang mang lại
hiệu quả kinh tế cho các hộ nông dân trồng keo. Keo là loại cây lâm nghiệp dài
ngày, mọc nhanh, mang lại giá trị kinh tế cao, có khả năng cải tạo đất tốt. Có thể
nói cây keo đang góp phần tạo công ăn việc làm cho người dân trong xã và góp
phần xoá đói giảm nghèo. Từ thực tế trên, nghiên cứu hiệu quả trồng rừng keo,
đề xuất với các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả là một nhu cầu cấp bách của
sản xuất, nhằm giảm sức ép về lâm sản lên rừng tự nhiên [8].
Đó cũng chính là những lý do tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Hiệu quả
trồng rừng sản xuất của hộ gia đình trên địa bàn xã Hương Lộc - Huyện
Nam Đông - Tỉnh Thừa Thiên Huế” để làm chuyên đề tốt nghiệp.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Tìm hiểu chung về tình hình trồng rừng sản xuất trên địa bàn xã Hương
Lộc - Huyện Nam Đông - Tỉnh Thừa Thiên Huế;
- Đánh giá hiệu quả kinh tế trồng rừng trồng sản xuất của các hộ gia đình ở
xã Hương Lộc - Huyện Nam Đông - Tỉnh Thừa Thiên Huế.
PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận.
2.1.1. Khái niệm bản chất của hiệu quả kinh tế [7]
Hiệu quả kinh tế là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực
hiện và mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả
đó trong những điều kiện nhất định. Một cách chung nhất, kết quả mà chủ thể
nhận được theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí
bỏ ra bao nhiêu càng có lợi bấy nhiêu.
Hiệu quả được biểu hiện nhiều góc độ khác nhau, vì vậy hình thành nhiều
khái niệm khác nhau: hiệu quả tổng hợp, hiệu quả kinh tế, hiệu quả kinh tế xã
hội, hiệu quả trực tiếp, hiệu quả tương đối và hiệu quả tuyệt đối
Từ trước đến nay cá nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về
hiệu quả kinh tế (hay hiệu quả sản xuất kinh doanh). Hiệu quả kinh tế là phạm
trù kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế, là thước đo trình độ tổ chức
và quản lí kinh doanh của doanh nghiệp.
GS.TS Ngô Đình Giao cho rằng: “Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất
của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước [1].
TS Nguyễn Tiến Mạnh: “Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan
phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục đích xác định”.
Về khái quát có thể hiểu rằng: Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế biểu
hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai
thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản
xuất nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra”.
Nền kinh tế của mỗi nước được phát triển theo hai chiều: phát triển kinh
tế theo chiều rộng là huy động mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng thêm vốn, bổ
sung lao động và kĩ thuật, mở mang thêm nhiều nghành nghề, xây dựng nhiều xí
nghiệp tạo ra nhiều mặt hàng mới. Phát triển theo chiều sâu là đẩy mạnh cách
mạng khoa học và công nghệ sản xuất, tiến nhanh lên hiện đại hóa, tăng cường
chuyên môn hóa, nâng cao cường độ sử dụng các nguồn lực, chú trọng chất
lượng sản phẩm dịch vụ.
Bản chất của hiệu quả kinh tế là nâng cao lao động xã hội và tiết kiệm lao
động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả gắn
với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là quy luật năng suất lao
động và quy luật tiết kiệm thời gian. Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh tế
là đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại, đạt kết quả nhất định
với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây hiệu theo nghĩa rộng bao gồm các chi phí để
tạo ra nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội.
Nâng cao hiệu quả kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu cầu tăng
trưởng và phát triển kinh tế nói riêng và phát triển xã hội nói chung. Một mặt tận
dụng và tiết kiệm các nguồn lực hiện có. Mặt khác thúc đẩy tiến bộ khoa học và
công nghệ, tiến nhanh vào công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển kinh tế với
tốc độ nhanh, nâng cao đời sống vật chất cho người lao động.
2.1.2. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Sự dụng các chỉ tiêu như giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, diện tích, năng
suất, sản lượng… để phân tích tình hình sản xuất, xu thế biến động, quy mô hoạt
động, xu hướng phát triển của một hoạt động sản xuất cụ thể. Tuy nhiên do phức
tạp và đa dạng trong hệ thống chỉ tiêu, nên mỗi chỉ tiêu dù là chỉ tiêu cơ bản
cũng chỉ đánh giá được một số khía cạnh của vấn đề nghiên cứu. Các chỉ tiêu sẽ
bổ trợ cho nhau giúp cho việc đánh giá các vấn đề nghiên cứu được đầy đủ và
toàn diện hơn.
- Các nguyên tắc đánh giá hiệu quả kinh tế
Nguyên tắc về mối quan hệ giữa các mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả: theo
nguyên tắc này tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục tiêu. Phân tích
hiệu quả của một phương án luôn dựa trên phân tích mục tiêu. Phương án có
hiệu quả cao nhất khi nó đóng góp nhiều nhất cho việc thực hiện mục tiêu đề ra
với chi phí thấp nhất.
Nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích: Theo nguyên tắc này, một phương
pháp được xem là có hiệu quả khi nó kết hợp trong đó các loại lợi ích;
Nguyên tắc về tính chính xác, tính khoa học: Để đánh giá hiệu quả kinh tế
của phương án cần dựa trên hệ thống các chỉ tiêu có thể lượng hóa được và
không lượng hóa được, tức là phải kết hợp phân tích định lượng hiệu quả bằng
phân tích định tính khi phân tích định lượng chưa đủ đảm bảo tính chính xác,
chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phi mà chủ thể quan
tâm.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi những căn cứ tính toán hiệu quả được xác
định tính chính xác, tránh chủ quan tùy tiện.
Nguyên tắc về đơn giản và thực tế: Theo nguyên tắc này những phương
án tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế phải được dựa trên cơ sở số liệu thông
tin thực, đơn giản và dễ hiểu. Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả được tính toán trên
cơ sở xác định các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra.
2.1.3. Đặc điểm của hoạt động sản xuất lâm nghiệp nói chung và trồng rừng
nói riêng [6].
2.1.3.1. Chu kỳ sản xuất lâm nghiệp tương đối dài, đối tượng sản xuất là những
cơ thể sống.
Nói đến lâm nghiệp là nói đến rừng, rừng là một quần thể sinh vật rất
phong phú và phức tạp, đó là những cơ thể sống có quy luật sinh trưởng và phát
triển riêng phụ thuộc vào đặc tính sinh học của chúng. Có những cây phát dục
nhanh nên năng suất sinh khối lớn, nhưng có cây phát dục và sinh trưởng chậm
nên năng suất sinh khối kém hơn. Tuy nhiên, dù cây rừng có khác nhau nhưng
nhìn chung chu kỳ sinh trưởng và phát triển của chúng tương đối dài từ hàng
chục đến hàng trăm năm.
Với đặc điểm trên, sản xuất lâm nghiệp có mức đầu tư lớn, thời gian thu
hồi vốn chậm, việc bố trí các loại cây trồng phải phù hợp giữa các điều kiện
tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng vùng với các đặc tính sinh học của từng loại
cây rừng. Tuy nhiên, do chu kỳ sản xuất của lâm nghiệp dài cho nên mức độ dao
động về thời gian lớn hơn sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, người ta có thể lựa
chọn thời điểm thích hợp để thu hoạch sản phẩm nhằm thu lợi nhuận cao.
2.1.3.2. Trong sản xuất lâm nghiệp, quá trình tái sản xuất kinh tế và tái sản xuất
tự nhiên xen kẽ với nhau, trong đó quá trình tái sản xuất tự nhiên là chủ yếu và
có tác dụng quyết định.
Rừng có khả năng tái sinh và tăng trưởng. Đó là khả năng cây rừng
tự thay thế đời cây này bằng đời cây khác, rừng cây này bằng rừng cây khác. Đó
cũng chính là khả năng cây rừng tự lớn lên theo thời gian kể cả khi không cần
tác động biện pháp kỹ thuật của con người. Đây chính là quá trình tái sản xuất tự
nhiên tạo tiền đề quyết định cho tái sản xuất mở rộng kinh tế trong lâm nghiệp.
Nếu chỉ chú ý đến quá trình sản xuất tự nhiên mà không chú ý đến tái sản xuất
kinh tế thì hiệu quả sẽ thấp, nhưng cứ để tái sản xuất tự nhiên, sử dụng giống cũ
thoái hóa năng suất sẽ thấp, không đáp ứng được nhu cầu của con người. Tuy
nhiên, ngược lại nếu chỉ chú ý đến tái sản xuất kinh tế chọn cây trồng có năng
suất cao, giống mới mà không quan tâm đến điều kiện đất đai, khí hậu cũng như
qui luật sinh trưởng và phát triển của cây con trong rừng thì có thể đem lại năng
suất thấp và thậm chí không cho sản phẩm.
2.1.3.3. Sản xuất lâm nghiệp có tính thời vụ.
Cây rừng có quan hệ chặt chẽ với điều kiện khí hậu, mỗi loại cây trồng có
quy luật sinh trưởng và phát triển riêng, chúng chịu sự tác động của điều kiện
ngoại cảnh riêng. Những điều kiện này biểu hiện khác nhau theo từng vùng ở
cùng thời điểm và trong cùng một vùng ở những thời điểm và các điều kiện khác
nhau. Mọi sự tác động kỹ thuật vào cây trồng đều phải phù hợp với đặc điểm
của cây và mối quan hệ của nó với môi trường, khí hậu, đất đai. Cùng một loại
cây trồng nhưng ở những vùng có điều kiện khí hậu khác nhau thì có mùa vụ và
thời vụ sản xuất khác nhau. Ngược lại, trong cùng một vùng nào đó, một loại
cây trồng chỉ có thời vụ và thời điểm sản xuất nhất định.
Ở mỗi loại cây trồng, có các giai đoạn sinh trưởng, phát triển cần có sự
tác động khác nhau của con người. Từ đây nảy sinh ra tình trạng trong chu kỳ
sản xuất của cây trồng, có những lúc đòi hỏi lao động căng thẳng và liên tục, có
thời gian ít căng thẳng, thậm chí không cần lao động tác động. Việc sử dụng lao
động và các tư liệu sản xuất không đều trong chu kỳ sản xuất là một trong những
biểu hiện của tính thời vụ.
2.1.3.4. Sản xuất lâm nghiệp vừa có tính chất nông nghiệp vừa có tính chất công
nghiệp.
Sản xuất lâm nghiệp giống sản xuất nông nghiệp ở chỗ: Đối tượng sản xuất
cây rừng, con rừng và cây con trong nông nghiệp đều là sinh vật, là những cơ
thể sống có quan hệ chặt chẽ với điều kiện khí hậu, đất đai, sinh trưởng và phát
triển tuân theo những quy luật nhất định.
Sản xuất lâm nghiệp mang tính chất công nghiệp thể hiện ở quá trình khai
thác, vận chuyển và chế biến lâm sản, đối tượng sản xuất của quá trình này
không phải là cây rừng còn sống mà là cây gỗ đã chặt hạ.
2.1.3.5. Sản xuất lâm nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ giữa tái sinh rừng và khai
thác rừng.
Tái sinh rừng là điều kiện để khai thác rừng, khai thác rừng là một trong
các mục đích của tái sinh rừng. Tuy nhiên, tái sinh rừng và khai thác rừng
có sự ràng buộc lẫn nhau hết sức chặt chẽ, chịu sự tác động của những yếu tố
mâu thuẫn lẫn nhau như: Khai thác rừng lớn do nhu cầu của các sản phẩm từ
rừng của dân cư và nền kinh tế ngày càng tăng, trong khi sự tăng trưởng tự
nhiên của rừng phụ thuộc vào quy mô rừng, điều kiện thời tiết, khí hậu và chủng
loại cây rừng. Mức tăng trưởng của rừng thường thấp hơn nhu cầu khai thác
rừng, do chu kỳ tái sản xuất tài nguyên rừng rất chậm và diễn ra trong thời gian
dài.
Phương thức tái sinh rừng và nói chung là kỹ thuật trồng rừng phụ thuộc
vào phương thức khai thác. Nếu như áp dụng phương pháp khai thác chọn thì
việc khai thác gỗ có liên quan đến việc trồng rừng một cách chặt chẽ đến nỗi
khó có thể xách định được ở đâu là nơi kết thúc trồng rừng và ở đâu là nơi bắt
đầu khai thác gỗ. Từ đây đặt ra vấn đề, cần kết hợp chặt chẽ giữa khai thác và tái
sinh rừng nhằm tạo điều kiện cho rừng luôn tồn tại và phát triển.
2.1.3.6. Sản xuất lâm nghiệp có tác dụng nhiều mặt.
Quá trình sản xuất lâm nghiệp tạo ra rừng. Rừng đến tuổi thành thục công
nghệ có tác dụng cung cấp lâm sản cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội.
Rừng đang ở giai đoại sinh trưởng và phát triển như: Rừng non, rừng khép tán
có tác dụng phòng hộ, bảo vệ môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, chống
gió bão, duy trì và điều tiết nguồn nước chống xói mòn đất, giữ gìn và cải thiện
lâm phần. Ngoài ra, có những khu rừng được sử dụng những mục đích phi tài
chính như: Nghiên cứu khoa học, cảnh quan du lịch sinh thái, bảo vệ đa dạng
sinh học…
2.1.3.7. Sản xuất lâm nghiệp tiến hành trên địa bàn rộng lớn, có kết cấu hạ
tầng thấp và nhân dân sống xen kẽ ở trong vùng.
Theo quy hoạch, diện tích rừng và đất rừng do lâm nghiệp quản lý là 16
triệu ha, trên diện tích này có khoảng 22 triệu người dân sinh sống thuộc 54
thành phần dân tộc ở những trình độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội khác
nhau. Đời sống của họ dựa vào rừng là chủ yếu, họ vừa là nhân tố tác động tiêu
cực đến rừng nhưng cũng là nhân tố trung tâm cải tạo rừng nếu có chính sách
thích hợp. Mặt khác, vì phân bố trên địa bàn rộng lớn cho nên cơ sở sản xuất
lâm nghiệp, trồng rừng, khai thác rừng ít cố định, giao thông đi lại khó khăn.
Lực lượng lao động sản xuất ngành lâm nghiệp không ổn định và yên tâm làm
nghề rừng, điều này gây khó khăn cho công tác quản lý sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, vì sản xuất lâm nghiệp thực hiện chủ yếu ở vùng trung du và miền
núi, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống thấp, trình độ văn hóa, kỹ thuật
của người dân thấp đã gây ảnh hưởng đến việc chuyển giao công nghệ và phát
triển sản xuất.
2.1.3.8. Sản xuất lâm nghiệp Việt Nam trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm có
chế độ gió mùa rõ rệt.
Chế độ nắng mưa nhiệt đới ẩm vừa tạo nên quần thể sinh vật phong phú,
vừa tạo ra sức tăng trưởng nhanh của các loại cây rừng, tăng năng suất sinh khối
do sử dụng không gian nhiều tầng của rừng. Điều đó cho phép lựa chọn tập đoàn
cây rừng trong quá trình gây trồng và tái sinh rừng, tạo điều kiện rút ngắn chu
kỳ sản xuất của lâm nghiệp, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội về các
sản phẩm từ rừng. Tuy nhiên, do sự phong phú của tập đoàn cây rừng, đòi hỏi
trong sản xuất lâm nghiệp phải phù hợp với mục đích đa dạng của rừng, với các
điều kiện khí hậu, đất đai cũng như điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng.
Tuy nhiên, chế độ mưa nhiệt đới ẩm gió mùa gây nên những hậu quả
nghiêm trọng đối với hoạt động sản xuất lâm nghiệp như: Cháy rừng, hạn hán,
lũ lụt, sâu bệnh…
2.1.4. Vai trò của hoạt động sản xuất lâm nghiệp nói chung và trồng rừng nói
riêng [6].
2.1.4.1. Vai trò cung cấp
Lâm nghiệp là ngành sản suất vật chất tham gia vào tái sản xuất tổng hợp
sản phẩm xã hội. Hàng năm, một phần trong tổng sản phẩm do ngành lâm
nghiệp sản xuất ra dưới dạng hàng hóa đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng của nền
kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Các sản phẩm của ngành lâm nghiệp có thể
là sản phẩm tiêu dùng cuối cùng cũng có thể là yếu tố đầu vào cho các ngành
sản xuất khác. Trong đó gỗ là sản phẩm cung cấp cho các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải và trong mỗi gia đình. Ngày
nay hầu như tất cả các ngành đều phải dùng đến gỗ, vì nó là nguyên liệu phổ
biến, dễ gia công chế biến và nhiều tính năng ưu việt nên được nhiều người ưa
chuộng.
2.1.4.2. Tạo nguồn thu nhập và công ăn việc làm cho người trồng rừng.
Rừng cung cấp gỗ và các lâm đặc sản khác cho tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu cho nên đã tạo ra nguồn thu nhập về tài chính cho Ngân sách Trung
ương và địa phương, góp phần vào quá trình tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân.
Rừng cũng là nguồn thu nhập chính của chư dân sống ven rừng. Lâm nghiệp
thực hiện chính sách giao đất giao rừng đến hộ gia đình và cộng đồng địa
phương, đã thu hút cư dân tham gia vào các hoạt động trồng rừng, nuôi dưỡng,
chăm sóc, bảo vệ rừng, khai thác và chế biến lâm sản, góp phần vào việc tạo
công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết vấn đề bức xúc hiện nay của
vùng trung du và miền núi.
Rừng là nguồn thu nhập quan trọng của đồng bào các dân tộc miền núi, là
cơ sở quan trọng để phân bố dân cư, điều tiết lao động xã hội, tạo công ăn việc
làm, góp phần xóa đói giảm nghèo cho toàn xã hội.
2.1.4.3. Vai trò bảo vệ môi trường sinh thái, cảnh quan văn hóa xã hội.
Ngoài ra rừng trồng ảnh hưởng đến hình thái khí hậu của nhiều vùng địa lý
riêng biệt, giữ gìn cảnh quan tự nhiên và đất nông nghiệp, các cách rừng phòng
hộ đang bảo vệ đồng ruộng khỏi gió bảo và cho mùa màng ổn định. Rừng trồng
là chướng ngại vật cơ giới trên đường di chuyển của gió, rừng làm thay đổi vận
tốc gió, hướng gió. Rừng trồng có khả năng làm sạch không khí duy trì O
2
và
CO
2
. Rừng có khả năng chống nhiểm bẩn môi trường vật lý gây ra do bụi và là
nhà máy lọc bụi khổng lồ…
2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến rừng trồng.
2.1.5.1. Nhân tố điều kiện tự nhiên.
- Điều kiện đất đai:
Rừng trồng có thể phát triển nhiều loại khác nhau, chúng không yêu cầu về
độ phì nhiêu nhưng lại yêu cầu rất cao về tính lý hóa của các yếu tố trong đất.
Về mặt hóa tính của rừng có thể chịu được độ PH từ 5,6 - 9 nhưng thích hợp
nhất là từ 5,6 - 6. Trồng mặt đất xốp dài, chân đất nhẹ, thoáng, có khả năng rừng
giữ nước tốt đồng thời cũng dễ dàng thoát nước.
- Điều kiện thời tiết khí hậu.
Rừng trồng ở đây chủ yếu là cây Keo có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới nên
chế độ nhiệt, chế độ mưa của rừng trồng phải lưu ý. Lượng mưa tối thiểu phải
đạt là 100 mm/tháng, độ ẩm cần cho rừng trồng phát triển tốt vào khoảng 60 -
70%. Lượng mưa mà cây trồng cần cho mỗi giai đoạn phát triển là khác nhau.
Nếu vào lúc rừng mới trồng cây còn nhỏ, mưa quá nhiều thì cây trong rừng bị
thoái hóa rễ lớn chậm dẫn đến chu kỳ khai thác của rừng dài.
2.1.5.2. Nhân tố đầu vào.
- Vốn: Là nhân tố quan trọng nhất trong việc thực hiện đầu tư vào sản xuất.
Nó biểu hiện quy mô, năng lực sản xuất kinh doanh và quyết định kết quả, hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Do đó việc huy động vốn đúng lúc, đúng thời điểm là
điều rất quan trọng. Ngoài ra sự chủ động về vốn khiến cho người trồng rừng
không bị ép giá trong mua bán và tiêu thụ gỗ từ rừng trồng. Do đó vốn là yếu tố
quan trọng, đầu tiên của họ trong việc lựa chon quy mô, phương thức sản xuất.
- Lao động: Thể hiện ở trình độ, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm của hộ
nông dân. Lao động là yếu tố quyết định đến quá trình sản xuất kinh doanh vì
không có một ngành nào mà không cần đến lao động. Trong lĩnh vực lâm nghiệp
cũng vậy. Rừng trồng thường là những cây dài ngày, có thời gian sinh trưởng và
phát triển dài, việc chăm sóc, thu hoạch mang tính thời vụ cao, đòi hỏi lượng lao
động lớn. Vì thế việc đáp ứng nhu cầu có ý nghĩa lớn trong việc trồng rừng.
- Giống: Là nhân tố quan trọng quyết định đến năng suất của rừng trồng.
giống phải có khả năng sinh trưởng nhanh, chất lượng gỗ tốt, chống chịu sâu
bệnh và khả năng thích nghi cao.
2.1.5.3. Nhân tố đầu ra.
- Thị trường tiêu thụ: Là nơi gặp nhau của người bán và người mua. Xác
định đúng thị trường luôn là vấn đề quan tâm của các nhà kinh tế vì công tác
khai thác thị trường sẻ giải đáp các câu hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế
nào? Và sản xuất cho ai?
- Đi kèm với yếu tố thị trường là yếu tố giá cả, đây là điều mà mọi người
nông dân thật sự quan tâm. Giá cả của các yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra có
ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của việc trồng rừng. Thực tế cho thấy giá cả của
sản phẩm lâm nghiệp thường bấp bênh và chịu tác động của thị trường thế giới.
Trong khi đó giá cả của các yếu tố đầu vào thường ổn định và tăng lên hàng
năm. Ngoài ra người nông dân thường thiếu thông tin về thị trường nên hay bị
ép giá, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của người trồng rừng.
.1.5.4. Nhân tố kinh tế chính trị.
Những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến
chính sách lâm nghiệp. Mỗi chính sách tương ứng với từng thời kỳ và điều kiện
kinh tế xã hội nhất định. Vì thế các chính sách phải thường xuyên thay đổi để
phù hợp với từng loại cây trồng, từng vùng, từng thời điểm.
Ngoài ra các nhân tố nêu trên thì quá trình trồng rừng còn chịu nhiều ảnh
hưởng của sâu bệnh, các chất dinh dưỡng khoáng, tập quán canh tác của người
dân…Vì thế đối với người nông dân cần có ý thức học hỏi nâng cao kiến thức,
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Về phía xã hội cần có nhiều
chính sách phù hợp với từng địa phương để nâng cao hiệu quả sản xuất cho hộ
nông dân.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Hiện trạng trồng rừng ở Việt Nam [2]
- Đẩy mạnh công tác phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Xây dựng vốn rừng
theo hướng phát triển mạnh trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc là nhiệm
vụ hàng đầu. Hiện nay cả nước còn 7 triệu ha đất trống đồi núi trọc cần phải
được phủ xanh. Trong kế hoạch 1998 - 2010, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng là
một trong những chương trình trọng điểm của Nhà nước, thực hiện có kết quả
dự án này sẻ góp phần quan trọng đưa được độ che phủ của rừng từ 33,2% hiện
nay lên 43% vào năm 2010.
- Ngoài việc thực hiện trồng rừng tập trung như trên chúng ta còn tiến
hành trồng cây phân tán hàng năm. Hơn 30 năm qua cả nước đả trồng được 6 tỷ
cây phân tán. Cần duy trì và phát triển trồng cây phân tán trên đất xung quanh
nhà ở, trường học, ven đường giao thông, bờ vùng… ở mức 350 đến 400 triệu
cây trên năm/năm để sau 8 đến 10 năm còn lại khoảng 2 tỷ cây tương đương với
800.000 ha trên phạm vi cả nước. Hàng năm có thể cung cấp 2 triêu m
3
gỗ và 5
triệu m
3
củi. Đối với rừng nghèo cần thực hiện “ khoanh núi nuôi rừng” hoặc
làm giàu rừng theo đám hoặc băng.
- Thực hiện kế hoạch tu bổ, làm giàu rừng. Tu bổ rừng có nghĩa là những
khu rừng tự nhiên được con người tác động vào làm cho nó có điều kiện phát
triển với năng suất sinh học cao hơn. Có hai cách hoạt động trong hoạt động tu
bổ: Tác động trước khi khai thác và tác động sau khi khai thác. Dù rằng ở các
thời điểm khác nhau, nhưng các hoạt động rừng đều đạt mục đích duy nhất là
làm cho rừng giàu lên.
- Đẩy mạnh việc kinh doanh và nuôi trồng đặc sản rừng, động vật rừng.
Đây là một trong những nội dung quan trọng đối với ngành lâm nghiệp, cần
được quan tâm cả về nuôi trồng, phát triển theo hướng bền vững đồng thời
không thể coi nhẹ việc quản lý, bảo vệ các loài đặc sản rừng và động vật rừng.
- Ngày 4/5/2009 Bộ NN&PTNT đã ra quyết định số 1267/QĐ-BNN-KL
công bố hiện trạng rừng cho đến ngày 31/12/2008 trên toàn quốc. theo công bố
diện tích có rừng là 13.118.773 ha, trong đó rừng tự nhiên là 10.348.591 ha và
rừng trồng là 2.770.182 ha, mới trồng là 342.720 ha, độ che phủ là 38,7%.
- Tính đến cuối tháng 6/2009, diện tích rừng trồng tập trung trên cả nước
đã đạt 74 nghìn ha, đạt 32,6% kế hoạch, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, một số loài rừng có mức tăng nhanh như: diện tích trồng rừng phòng
hộ, đặc dụng đạt 17,6 nghìn ha, vượt 8,9% so với cùng kỳ năm trước và đạt
29,4% kế hoạch, rừng sản xuất trồng được 56,4 nghìn ha, tăng 6.8% so với cùng
kỳ năm trước và đạt 33,7% so với kế hoạch, chăm sóc rừng trồng đạt 143,1
nghìn ha, bằng 95,6% kế hoạch.
Kết quả 6 tháng đầu năm khẳng định những nổ lực không ngừng của
ngành lâm nghiệp trong bối cảnh khó khăn như hiện nay. Ngành lâm nghiệp
đang tích cực triển khai nhiều biện pháp để hoàn thành kế hoạch đả đề ra trong
năm 2011, trong đó sẽ tiếp tục đẩy nhanh tiến độ trồng rừng, tăng cường kiểm
tra, kiểm soát lâm sản và công tác bảo vệ rừng.
2.2.2. Hiện trạng trồng rừng ở tỉnh Thừa Thiên Huế [9].
Rừng và đất rừng ở Thừa Thiên Huế có diện tích 331.782 ha, chiếm gần
70% diện tích đất tự nhiên, giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc phòng hộ,
chống xói mòn, cân bằng sinh thái, điều tiết nguồn nước. Chỉ tính riên năm
2008, Thừa Thiên Huế đã trồng được 4.500 ha rừng tập trung, nâng diện tích
rừng trồng trong ba năm gần đây lên 13.179 ha, che phủ rừng chiếm 54,4% trên
toàn bộ diện tích.
Tỉnh Thừa Thiên Huế đã đẩy mạnh công tác xã hội hóa nghề rừng, tiến
hành giao đất giao rừng cho nhân dân quản lý để góp phần nâng cao ý thức tự
giác của người dân trong việc bảo vệ và làm giàu vốn rừng. Đến nay, Tỉnh đã
giao được 59.100 ha rừng và đất lâm nghiệp cho 167 đơn vị và 12.003 hộ nhân
chăm sóc và quản lý. Có 10 xã thuộc bốn huyện Nam Đông, A lưới, Phú Lộc,
Phong Điền nhận xây dựng mô hình quản lý, chăm sóc 4000 ha rừng tự nhiên
theo cộng đồng thôn bản và nhóm hộ, với phương châm “lấy rừng nuôi rừng, lấy
rừng nuôi dân”, người dân được hưởng lợi từ khai thác gỗ rừng theo quy định
của UBND tỉnh, thay vì đầu tư kinh phí từ ngân sách như trước đây, nên được
nhân dân đồng tình ủng hộ cao, rừng ngày càng xanh tốt.
Những năm qua, từ nhiều nguồn vốn như 327, 661, JBIC, WB… tỉnh
Thừa Thiên Huế đã trồng được 21.887.7 ha rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc,
nâng độ che phủ rừng tự nhiên toàn Tỉnh từ 40% năm 2007 lên hiện nay
46.73%.
Giai đoạn từ nay đến năm 2011, Tỉnh Thừa Thiên Huế tập trung đầu tư,
phấn đấu trồng 23.500 ha rừng tập trung. Trong đó có 50% là rừng kinh tế. Như
vậy bình quân mỗi năm Thừa Thiên Huế sẽ trồng được 4.700 ha rừng. Toàn
Tỉnh đã giao 59.100 ha đất lâm nghiệp cho 167 đơn vị và 12.000 hộ nhận chăm
sóc, quản lý. Các huyện Nam Đông, A Lưới, Phú Lộc, Phong Điền tổ chức giao
đất cho cộng đồng thôn bản và nhóm hộ tại 10 xã quản lý bảo vệ trên 4.000 ha
rừng tự nhiên. Do tình hình tổ chức thực hiện tốt nên rừng ở đây ngày càng xanh
tốt.
2.3. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu [7]
- Tổng giá trị sản xuất (GO): Là tổng giá trị sản phẩm mà hộ tạo ra trong
một một thời kỳ nhất định thường là một năm.
GO = Qi x Pi.
Trong đó: - GO là giá trị sản xuất.
- Qi là sản lượng lâm sản khai thác.
- Pi là là giá lâm sản.
- Chi phí trung gian (IC): Là bao gồm những khoản chi phí vật chất và
dịch vụ bằng tiền mặt mà hộ bỏ ra trong từng hoạt động sản xuất. Chi phí trung
gian không bao gồm công lao động, khấu hao tài sản cố định và chi phí tự có.
- Giá trị gia tăng (VA): Là phần giá trị sản xuất còn lại sau khi trừ các
khoản chi phí trung gian.
- Thu nhập hỗn hợp (MI): Là phần còn lại của giá trị gia tăng trừ đi các
khoản chi phí lao động thuê ngoài và khấu hao tài sản cố định.
- GO/IC: Chỉ tiêu này cho biết cứ mỗi đồng chi phí trung gian bỏ ra trong
năm sẽ mang lại bao nhiêu đồng giá trị sản xuất.
- VA/IC: Chỉ tiêu này cho biết cứ mỗi đồng chi phí trung gian bỏ ra trong
năm sẽ mang lại bao nhiêu đồng gái trị gia tăng.
- MI/IC: Chỉ tiêu này cho biết cứ mỗi đồng chi phí trung gian bỏ ra trong
năm sẽ mang lại bao nhiêu đồng thu nhập hỗn hợp.
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Nghiên cứu được tiến hành tại xã Hương Lộc - Huyện
Nam Đông - Tỉnh Thừa Thiên Huế;
- Về thời gian: Thu thập và xử lý thông tin, dữ liệu trong năm 2010.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Là các hộ nông dân trồng rừng sản xuất trên địa bàn xã Hương Lộc -
Huyện Nam Đông - Tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.3. Nội dung nghiên cứu:
- Tình hình cơ bản của địa bàn nghiên cứu;
- Tình hình chung về hoạt động sản trồng rừng sản xuất ở xã Hương Lộc;
- Tình hình cơ bản và năng lực sản xuất của các hộ khảo sát;
- Kết quả và hiệu quả trồng keo của các hộ khảo sát.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Chọn điểm nghiên cứu
Căn cứ vào các tiêu chí: là xã miền núi và người dân có nhiều hoạt động
liên quan đến trồng rừng.
3.4.2. Chọn mẫu nghiên cứu
- Tiêu chí chọn hộ: Chọn hộ gia đình có tham gia hoạt động trồng rừng và
đã cho thu hoạch vào năm 2010 tại xã Hương Lộc.
- Dung lượng mẫu điều tra: 30 hộ
- Cách chọn mẫu (hộ): Chọn mẫu ngẫu nhiên theo danh sách các hộ trong
thôn theo tiêu chí chọn hộ ở trên.
3.4.3. Phương pháp thu thập thông tin
- Thu thập thông tin thứ cấp:
Số liệu thứ cấp thứ thập từ các tài liệu đã công bố như: Niên giám thống
kê của các cấp, các báo cáo tình hình sản xuất đã được công bố trong nước, các
báo cáo tình hình sản xuất lâm nghiệp của địa bàn nghiên cứu như của xã, của
hợp tác xã, phòng nông nghiệp huyện và hạt kiểm lâm. Ngoài ra còn thu thập từ
các báo cáo khoa học và kết quả nghiên cứu đã công bố trên sách báo tạp chí.
- Thu thập số liệu sơ cấp:
+ Phương pháp thảo luận nhóm:
Số lượng tham gia: 10 người đến từ 10 hộ nông dân trong xã
Thành phần: là những hộ nông dân có trồng rừng sản xuất.
Nội dung chính của cuộc thảo luận so sánh và đánh giá hiệu quả kinh tế
của việc trồng rừng sản xuất với các nghề khác.
Cuộc thảo luận nhóm nhằm thúc đẩy người dân tự xác định những vấn đề
khó khăn cũng như mặt thuận lợi trong sản xuất rừng trồng. Đồng thời đề ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả của sản xuất rừng trồng.
+ Phỏng vấn hộ: Phỏng vấn 30 hộ bằng bảng hỏi đã được xây dựng sẵn.
3.4.4. Phương pháp xử lí số liệu:
Số liệu được mã hóa, nhập và xử lý trên phần mềm excel
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Hương Lộc là xã thuộc huyện miền núi Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế,
cách thành phố Huế 60 km về phía nam. Tổng diện tích tự nhiên là 6.620 ha,
chiếm 11.2% diện tích toàn huyện. Với tổng dân số là 1.959 người.
+ Phía Đông Nam giáp huyện Phú Lộc và thành phố Đà Nẵng.
+ Phía Tây giáp thị trấn Khe Tre .
+ Phía Nam giáp xã Thượng Lộ.
+ Phía Bắc giáp xã Hương Phú.
4.1.1.2. Khí hậu
Nam Đông là một huyện miền núi của Tỉnh Thừa Thiên Huế, có khí hậu
tương đối khắc nghiệt, khí hậu trong năm phân thành hai mùa rõ rệt. Mùa khô
bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8, mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 cho đến tháng 2
năm sau. Nhiệt độ trung bình từ 20
0
C - 25
0
C, về mùa hè nhiệt độ có thể lên tới
37 - 38
o
C, còn mùa đông ở vùng núi cao nhiệt độ có thể xuống thấp dưới 10
o
C.
4.1.1.3. Địa hình và thổ nhưỡng
- Địa hình: Hương Lộc là một xã miền núi đất đai khá rộng lớn, phần lớn
đất dành cho sản xuất lâm nghiệp. Toàn xã có 3 thôn, bao gồm cac người kinh
và dân tộc, nhưng phần lớn là người kinh. Địa hình khá phức tạp, gò đồi, cồn
dốc thường xuyên nên đất đai dễ bị xói mòn và rữa trôi. Tuy nhiên cũng có
những phần đất trũng thường xuyên được bồi đắp nên khá màu mỡ. Hương Lộc
trong nhưng năm gần đây chủ yếu phát triển rừng trồng keo lại mang lại hiệu
quả kinh tế và thu nhập cho người dân địa phương.
- Thổ nhưỡng: Trên địa bàn xã có nhiều loại đất như đất phù sa được bồi
đắp, phù sa không được bồi, và chủ yếu là đất sét, đất vàng đỏ trên đá sét biết
chất, đất vàng nhạt trên đá cát… do đó rất thuận lợi cho việc trồng rừng, đặc biệt
là rừng trồng keo lai và cao su, cây ăn quả…
4.1.2. Tình hình kinh tế xã hội của xã Hương Lộc.
4.1.2.1 Hiện trạng sử dụng đất đai của xã:
Kết quả điều tra hiện trạng các loại đất của xã Hương Lộc tính đến tháng
12 năm 2009 được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Hiện trạng sử dụng đất đai của xã Hương Lộc.
Chỉ tiêu
Tổng cộng
(Ha)
Tỷ lệ
(%)
1. Đất nông nghiệp 4.230 63,89
- Đất sản xuất nông nghiệp 662 15,65
- Đất sản xuất lâm nghiệp 3.568 84,34
+ Đất rừng phòng hộ 964 27,01
+ Đất xây dựng rừng sản xuất 2.604 72,98
- Đất nuôi trồng thủy sản 0 0
2. Đất phi nông nghiệp 1.896 28,64
3. Đất chưa sử dụng 494 7,47
- Đất đồi chưa sử dụng 396 80,17
- Đất chưa sử dụng khác 98 19,83
Tổng cộng 6.620 100,00
(Nguồn: Thống kê của UBND xã Hương Lộc)
Từ kết quả trên ta thấy diện tích đất sản xuất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ lớn,
hơn 84,34% tổng diện tích đất nông nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng xã Hương
Lộc có tiềm năng lớn về diện tích đất lâm nghiệp và quan trọng là tiềm năng lớn
để phát triển rừng trồng. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp khá thấp chỉ chiếm
khoảng 15,65% tổng diện tích đất nông nghiệp - chủ yếu người dân trồng ngô và
một số loại cây rau màu khác phục vụ cho sinh hoạt của gia đình.
4.1.2.2. Tình hình dân số và lao động:
Theo số liệu thống kê năm 2010 toàn xã có 1.959 khẩu, gồm 440 hộ, bình
quân mỗi hộ gia đình có 4,45 khẩu.
Bảng 2: Tình hình dân số xã Hương Lộc qua hai năm 2009 - 2010
Chỉ tiêu ĐVT 2009 2010
2010/2009
(%)
1. Tổng số hộ Hộ 428 440 102,80
2. Tổng số nhân khẩu Khẩu 1.929 1.959 101,55
3. Tổng lao động Lao động 964 996 103,31
4. Bình quân khẩu/hộ Khẩu/hộ 4,50 4,45 98,88
5. Bình quân lao động/hộ Lao động/hộ 2,25 2,26 100,44
6. Tỷ lệ tăng dân số % 1,57 1,1 70,06
(Nguồn: Số liệu thống kê của UBND xã Hương Lộc)
Qua bảng trên ta thấy số hộ gia đình của xã Hương Lộc năm 2010 là 440
hộ, tăng 12 hộ so với năm 2009 đạt tỷ lệ 2,8%. Số nhân khẩu năm 2010 là
1.959 khẩu, tăng 30 khẩu so với năm 2009 đạt tỷ lệ 1,55%, số khẩu tăng nhưng
tỷ lệ trung bình với tỷ lệ tăng dân số hàng năm. Tổng số lao động năm 2010 là
996 lao động, tăng 32 lao động so với năm 2009 đạt tỷ lệ 3,31%. Tỷ lệ tăng
phù hợp với số khẩu tăng hàng năm của toàn xã, số bình quân khẩu/hộ của năm
2010 là 4,45 tăng 0,5 so với năm 2009. Bình quân lao động trên hộ năm 2010
là 2,26, đạt tỷ lệ 100,44% có tăng nhưng không đáng kể. Với quy mô 2,26 lao
động/hộ, đảm bảo đủ lao động trong một gia đình nông dân trên địa bàn xã. Để
đưa nền kinh tế phát triển đồng đều và có hiệu quả trong hộ, đặc biệt là trong
lĩnh vực lâm nghiệp, trồng rừng thì đòi hỏi phải có một lưc lượng lao động dồi
dào, đủ sức để tham gia phát triển sản xuất và biết phát huy những sáng kiến,
áp dụng những tiến bộ về khoa học kỹ thuật mới vào trong sản xuất cũng như
kinh nghiệm đúc rút được trong quá trình sản xuất. Tích cực tìm tòi, học hỏi và
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại vào trong sản xuất, biết phát
huy và vận dụng những tiềm năng, thế mạnh sẵn có của địa phương. Thâm
canh tăng năng suất giá trị cây trồng, vật nuôi, tăng hiệu quả kinh tế trên một
đơn vị diện tích.
4.2. Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp tại của xã Hương Lộc.
4.2.1. Nông nghiệp.
Sản xuất nông lâm ngư nghiệp có những bước tiến vững chắc về cả số
lượng, chất lượng và hiệu quả. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nhất là đối
với lâm nghiệp, được chú trọng đầu tư và nâng cấp hệ thống giao thông nông
thôn, các ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp và các biệ pháp thâm
canh có những tiến bộ vượt bậc. Công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
được chú trọng, đặc biệt là đối với rừng trồng keo các loại. Hiệu quả trên đơn vị
canh tác ngày càng được nâng lên. Đời sống vật chất và tinh thần ngày của nhân
dân ngày càng được cải thiện nhờ sản xuất lâm nghiệp.
4.2.2. Lâm nghiệp.
Số liệu bảng 1 cho thấy tổng diện tích đất sản xuất lâm nghiệp của xã là
3568 ha chiếm hơn 53,89% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó diện tích đất
rừng sản xuất là 2529,8 ha chiếm 70,90% đất sản xuất lâm nghiệp, còn lại hơn
29,10% diện tích đất rừng tự nhiên và trồng các loại cây hoa quả, công nghiệp
khác.
Nguồn thu nhập từ sản xuất lâm nghiệp, đặc biệt là rừng trồng chiếm hơn
80%, còn lại là từ chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp.
4.3. Tình hình chung về trồng rừng sản xuất ở xã Hương Lộc.
Số liệu bảng 3 cho thấy diện tích rừng sản xuất chiếm tỷ lệ khá cao gần
56,20% so với tổng diện tích rừng toàn xã, trong đó rừng trồng chiếm tỷ lệ
81,90%. Trong tổng diện tích đất lâm nghiệp thì rừng trồng chiếm tỷ lệ cao hơn
rừng tự nhiên, như vậy hoạt động trồng rừng trên địa bàn xã tương đối phát
triển, điều này góp phần phát triển kinh tế xã hội cũng như nâng cao thu nhập
cho người dân thông qua hoạt động trồng rừng kinh tế. Rừng trồng chủ yếu ở
đây là keo lai dùng để làm nguyên liệu giấy, gỗ. Tỷ lệ rừng tự nhiên cũng khá
cao chứng tỏ việc bảo vệ rừng trồng, chăm sóc, quản lý cũng được thực hiện tốt.
Bảng 3: Hiện trạng tài nguyên rừng ở xã Hương Lộc đến năm 2009.
(ĐVT: Ha)
Chỉ tiêu Phòng hộ Sản xuất Tổng cộng
1. Rừng tự nhiên 581,4 457,8 1.039,2
- Rừng gỗ lá rộng 581,4 457,8 1.039,2
+ Rừng trung bình 128,2 0 128,2
+ Rừng nghèo 243,7 477,7 721,4
+ Rừng phục hồi 169,7 19,9 189,6
- Rừng hỗn giao 0 0 0
2. Rừng trồng 500,3 2.072 2572.3
- Rừng có trữ lượng 95,7 1148 1.243,7
- Rừng gỗ chưa có trữ
lượng
404,6 924 1.328,6
(Nguồn: Số liệu của UBND xã Hương Lộc và Hạt kiểm lâm Nam Đông)
Hương Lộc là một xã miền núi có diện tích tự nhiên là 6.620 ha, trong đó
tổng diện tích đất rừng là 3.611,5 ha chiếm 54,55% diện tích đất tự nhiên của
toàn xã. Trước năm 2004, diện tích chủ yếu là rừng tự nhiên, công tác trồng
rừng chưa được chú trọng và gặp nhiều khó khăn. Nhân dân chưa hiểu được
hiệu quả mang lại từ việc trồng rừng, nguồn vốn và giao thông đi lại khó khăn.
Từ năm 2004 đến năm 2010 đã triển khai và đạt được một số kết quả về công tác
trồng rừng như sau:
- Năm 2004, được sự hỗ trợ của chương trình phát triển nông thôn Thừa
Thiên Huế (Dự Án Phần Lan) đầu tư hỗ trợ nguồn vốn 100% từ khâu tập huấn
kỹ thuật, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phát thực bì, đào hố và trồng
rừng.
- Năm 2005 đến 2010, tham gia dự án phát triển ngành lâm nghiệp WB3,
dự án hổ trợ tập huấn kỹ thuật, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nguồn
vốn vay ưu đãi thông qua ngân hàng chính sách xã hội huyện.
Tính tới thời điểm hiện tại diện tích rừng trồng của xã là 2572.3 ha, có thể
thấy rằng diện tích rừng trồng ngày càng tăng chứng tỏ hoạt động sản xuất lâm
nghiệp ở xã ngày càng phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó các dự án trồng rừng
ngày càng nhiều tạo điều kiện để các hộ nông dân tham gia trồng rừng và chính
quyền xã cũng thấy được thế mạnh của rừng trồng nên đã tiến hành giao đất giao
rừng cho các hộ dân tiến hành sản xuất kinh doanh. Cùng với việc gia tăng diện
tích, rừng trồng đã mang lại thu nhập cho người dân trong xã, tạo công ăn việc
làm và cũng phản ánh được hiệu quả trong sử dụng đất của xã, giảm diện tích đất
trống, đồi núi trọc, nâng tỷ lệ che phủ, giảm thiểu sự lãng phí trong sử dụng đất.
4.4. Phân tích hiệu quả trồng rừng keo của hộ gia đình tại xã Hương Lộc -
Huyện Nam Đông - Tỉnh Thừa Thiên Huế
4.4.1. Thông tin cơ bản về các hộ điều tra năm 2011.
Hình thức tổ chức sản xuất trồng rừng chủ yếu ở địa phương là hộ gia
đình, với diện tích sản xuất lâm nghiệp bình quân của mỗi hộ gia đình là từ 0,6-
3ha. Đề tài sử dụng số liệu điều tra 30 hộ trồng rừng keo lai tại xã Hương Lộc
huyện Nam Đông đại diện cho cả vùng nghiên cứu. Nội dung cơ bản của đề tài
là chú trọng nghiên cứu và phân tích hiệu quả kinh tế rừng trồng keo lai trên địa
bàn xã. Một số nét tổng quan về tình hình chung của các hộ điều tra thể hiện ở
bảng 4.
Bảng 4: Một số chỉ tiêu về tình hình chung của các hộ điều tra.
Chỉ tiêu
ĐVT Số lượng
1. Số hộ điều tra Hộ 30
2. Tuổi trung bình của chủ hộ Tuổi 42,6
3. Trình độ học vấn của chủ hộ Lớp 5,37
4. Số lao động/hộ Người 3,15
5. Số nhân khẩu/hộ Người 5,57
6. Vốn vay bình quân/hộ Tr.đ 10,00
(Nguồn: Số liệu khảo sát hộ năm 2011).
Lao động và nhân khẩu có liên quan đến thu nhập và chi phí của người
nông dân và là yếu tố chi phối đến đời sống của người nông dân. Tuy nhiên bình
quân nhân khẩu ít liên quan đến diện tích sản xuất lâm nghiệp bình quân đầu
người. Thực tế điều tra cho thấy diện tích đất lâm nghiệp của các hộ thường
không tỷ lệ với nhân khẩu vì diện tích này được cấp theo của các hộ và sự xét
duyệt của dự án.
Tuổi đời bình quân của chủ hộ ở mức trung bình vào khoảng 42,6 tuổi.
Trình độ của các chủ hộ tương đối thấp, do đây là xã miền núi, vùng kinh tế mới
được phát triển. Đây cũng là một bất lợi trong công tác tiếp cận và áp dụng kỹ
thuật vào sản xuất mới. Tuy nhiên qua điều tra cho thấy hầu hết các chủ hộ đều
có kinh nghiệm lâu năm trong hoạt động trồng rừng. Phần đa số là trồng rừng tự
phát, theo phong trào, theo kinh nghiệm, ít được tham gia tập huấn kỹ thuật. Mặt
khác do trình độ hạn chế nên dù có tập huấn họ cũng không tham gia đầy đủ.
Về tình hình vay vốn của các hộ khảo sát, số liệu bảng 4 cho thấy lượng
vốn vay bình quân/hộ có vay vốn là 10 triệu đồng để đầu tư vào trồng rừng, chủ
yếu là vay vốn của ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng chính sách xã hội với
mức lãi suất ưu đãi. Qua đó cho chúng ta thấy nhà nước đã có chính sách hỗ trợ
cho các hộ trồng rừng.
4.4.2. Quy mô trồng rừng của các hộ khảo sát
Bảng 5: Quy mô và cơ cấu diện tích đất đai năm 2010 của các hộ khảo sát
Chỉ tiêu Số lượng
(m
2
)
Cơ cấu
(%)
Tổng diện tích 33.233,00 100,00
- Đất ở và vườn 1.379,17 3,91
- Đất lúa 1.245,00 3,53
- Đất màu 565,00 1,60
- Đất cao su 12.905,00 36,63
- Rừng trồng 18.933,33 53,74
- Đất ao hồ 205,50 0,58
(Nguồn: Số liệu khảo sát hộ năm 2011).
Số liệu bảng 5 cho thấy diện tích, quy mô sản xuất trồng rừng của hộ khảo
sát cũng tương đối lớn, diện tích đất trồng rừng bình quân/hộ là 1,8 ha. Xét cơ
cấu diện tích đất đai của hộ khảo sát ta thấy diện tích rừng trồng keo của hộ
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng diện tích với 56,97%, tiếp đến là diện tích
rừng cao su 38,83%. Điều này là phù hợp với đặc điểm của hoạt động sản xuất
lâm nghiệp cũng như điều kiện tự nhiên và đất đai của xã.
Về tình hình trang bị tư liệu sản xuất để phục vụ cho hoạt động trồng rừng
thì kết quả khảo sát hộ cho thấy phần lớn là các loại tư liệu có giá trị nhỏ như
cuốc, rựa… dùng để phát đốt rừng.
4.4.3. Đánh giá kết quả và hiệu quả của hoạt động trồng rừng sản xuất.
4.4.3.1. Tình hình đầu tư chi phí trồng rừng:
Bảng 6: Cơ cấu chi phí đầu tư bình quân/ha.
Chỉ tiêu Mua
(1000đ)
Cơ cấu
(%)
Tự có
(1000đ)
Cơ cấu
(%)
Tổng
(1000đ)
Cơ cấu
(%)
1. CP trung gian 3.704,75 40,34 0,00 0,00 3.704,75 21,63
- Giống 805,00 21,72 0,00 0,00 805,00 21,72
- Phân bón 2.899,75 78,28 0,00 0,00 2.899,75 78,28
2. Công lao động 798,25 8,69 7.940 100,00 8.738,25 51,03
+ Xử lý thực bì 400,00 50,10 1.186 14,93 1.586,00 29,59
+ Làm đất 218,25 27,34 880 11,08 1.098,25 12,56
+ Trồng 180,00 22,54 620,2 7,81 800,00 9,15
+ Vận chuyển 0,00 0,00 250 3,14 250,00 2,86
+ Chăm sóc 0,00 0,00 2.582 32,51 2.582,00 29,54
+ Bảo vệ 0,00 0,00 2.422 30,50 2.422,00 27,71
3. Lãi vay 4.680,00 50,96 0,00 58,94 4.680,00 27,33
Tổng chi phí 9.183 100 7.940 100 17.123 100
(Nguồn: Số liệu khảo sát hộ năm 2011).
Số liệu bảng 6 cho thấy để có được 1 ha keo lai thu hoạch sau 6 năm thì hộ
trồng rừng phải bỏ ra một khoản chi phí đầu tư tổng cộng cho các năm là 17.123
nghìn đồng. Mặc dù chi phí đầu tư trồng rừng chỉ phát sinh chủ yếu trong 3 năm
đầu nhưng cũng tương đối lớn so với thu nhập của người nông dân địa phương.
Thông thường sản xuất 1 ha keo lai thì mỗi hộ được vay 10 triệu đồng, với lãi
suất 0,65%/tháng. Vậy với chu kỳ trồng rừng là 6 năm thì tổng số lãi vay họ
phải trả là 4.680 nghìn đồng.
Xét cơ cấu chi phí đầu tư bình quân trên 1 ha keo lai, ta thấy chi phí tự có
của gia đình là 7.940 nghìn đồng, chiếm 46,35% trong tổng chi phí, đó có thể
nói là đặc thù của hoạt động trồng rừng nói riêng và hoạt động sản xuất nông
nghiệp trong nông hộ nói chung. Bởi vì, trong tổng chi phí tự có của hộ thì công
lao động gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất hơn 100%. Như vậy hoạt động trồng rừng
đã tạo việc làm và thu nhập cho lao động nhàn rỗi và bán thất nghiệp của hộ.
Do đặc điểm cây keo lai có chu kỳ sản xuất dài, yêu cầu phải chăm sóc
dài ngày, các khâu trồng, chăm sóc được thực hiện trực tiếp bởi con người, hầu
như không sử dụng máy móc nên tốn khá nhiều công lao động. Chi phí lao động
được chia ra các khâu: trồng, chăm sóc, quản lý và bảo vệ rừng, chia thành hai
loại: Công phát thực bì, công đào hố, bón phân; công trồng và vận chuyển; công