Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cổ phiếu thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.77 KB, 94 trang )



1
LỜI MỞ ĐẦU


1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:

Û bất kỳ một môi trường đầu tư nào, trước khi bắt đầu một quyết
đònh đầu tư, lợi nhuận và rủi ro là hai yếu tố được nhà đầu tư
quan tâm hàng đầu . Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với
rủi ro, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Vì vậy, một
nguyên tắc chung được tất cả các nhà đầu tư đặt ra là tìm kiếm mức lợi
nhuận tối đa trên cơ sở giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất.

Đối với Thò trường chứng khoán cũng không nằm ngoài nguyên tắc
nói trên, phải thu hút được các nhà đầu tư quan tâm, tham gia và việc tạo
lòng tin để cho họ thấy được lợi ích khi đầu tư vào TTCK là điều đặc biệt
quan trọng và có ý nghóa thiết thực nhất.

Đặc biệt ở TTCK Việt Nam, sau hơn 5 năm hoạt động gặp không ít
khó khăn, nhưng vẫn là một kênh thu hút đầu tư còn rất mới mẻ, với nền
tảng điều kiện ban đầu chưa thực sự đầy đủ, với kinh nghiệm tổ chức chưa
qua nhiều thử thách, việc thu hút đầu tư qua TTCK Việt Nam đã trải qua
những bước thăng trầm và thực trạng đang gặp không ít khó khăn. Bên
cạnh đó, nhiều nhà đầu tư trên thò trường vì chưa có kinh nghiệm và thiếu
hiểu biết về kiến thức TTCK, nên đã có giai đọan thua lỗ trầm trọng, làm
nhiều nhà đầu tư thất vọng và nản lòng với thò trường. Hiện nay, mặc dù
đã tổ chức những khóa học về phân tích lựa chọn mô hình đầu tư theo các
nguyên tắc nêu trên, song mới chủ yếu dừng ở lý thuyết mà chưa có nhiều
ứng dụng trong thực tiễn.



Từ những yêu cầu nêu trên, nhằm tăng tính ứng dụng về thực tiễn
của phương pháp đầu tư và giúp hoạt động đầu tư trên TTCK đạt hiệu quả
hơn. Vì vậy, nhóm nghiên cứu chọn đề tài khoa học: “ Giải pháp nâng
cao hiệu quả đầu tư cổ phiếu trên TTCK Việt Nam”

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC:

- Đề tài tham khảo các nguồn tài liệu sách báo trong và ngoài
nước, tạp chí, các trang website, các nguồn tài liệu sưu tầm qua quá
Ơ


2
trình thực tế tại Trung tâm GDCK, các công ty CK, và các tổ chức liên
quan khác….

3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:

- Nghiên cứu một cách có hệ thống về cơ sở lý luận để nâng cao
hiệu quả đầu tư cổ phiếu trên thò trường chứng khoán. Nghiên cứu cụ thể
về các chiến lược quản lý đầu tư của TTCK một số nước trên thế giới và
trong khu vực, qua đó rút ra một số bài học gợi ý cho Việt Nam.

- Bên cạnh đó, phân tích thực trạng đầu tư cổ phiếu trên thò trường
chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua về những mặt thuận lợi và khó
khăn, sau đó tìm ra những nguyên nhân tồn tại trong đầu tư chứng khoán.

- Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra một số nhóm giải pháp kiến nghò
nhằm tăng tính ứng dụng thực tiễn của phương pháp đầu tư và giúp hoạt

động đầu tư trên TTCK đạt hiệu quả hơn.

4. PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI:

Đề tài này là cơ sở để nhà đầu tư cá nhân và tổ chức tham khảo để
phân tích, đánh giá, lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp và hiệu quả
nhất. Đồng thời giúp giảm thiểu rủi ro cho họ khi đầu tư cổ phiếu tập
trung trên TTCK Việt Nam.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu:
+ Phân tích
+ Tổng hợp

6. NHÓM TRIỂN KHAI ĐỀ TÀI:

TS. Trần Quốc Tuấn – Chủ nhiệm đề tài
Cử nhân Hoàng Thò Bảo Chi – Thư ký đề tài
TS. Lý Hoàng nh – Cộng tác viên
Cử nhân Tô thò Mỹ Dung – Cộng tác viên

7. KẾT CẤU ĐỀ TÀI:


3

Nội dung đề tài gồm ba chương:
Lời Mở đầu
Chương I: Cơ sở lý luận về nâng cao hiệu quả đầu tư cổ phiếu

trên TTCK
Chương II: Đánh giá về hiệu quả đầu tư cổ phiếu trên TTCK
Việt Nam
Chương III: Các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả đầu tư
cổ phiếu trên TTCK Việt Nam
































4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU TRÊN TTCK


1.1. MỨC SINH LỜI VÀ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CỔ
PHIẾU:

1.1.1. HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ

1.1.1.1 Khái niệm

Trước hết ta cần hiểu khái niệm về hiệu quảû kinh tế là gì?
Hiệu quả kinh tế là một hiện tượng (hoặc quá trình) kinh tế là
một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân
lực, tài lực, vật lực, tiền vốn ) để đạt được mục tiêu xác đònh. Từ khái
niệm khái quát này, có thể hình thành công thức biểu diễn khái quát
phạm trù hiệu quả kinh tế như sau:

K
H
C




Với H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (quá trình kinh tế
nào đó); K là kết quả thu được từ hiện tượng (quá trình đó) kinh tế đó
và C là chi phí toàn bộ để đạt được kết quả đó. Và như thế cũng có thể
có khái niệm ngắn gọn: hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt
động kinh tế và được xác đònh bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi
phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.

Quan điểm này đánh giá được tốt nhất trình độ sử dụng các
nguồn lực ở mọi điều kiện “động” của kinh tế. Theo quan điểm như
thế hoàn toàn có thể tính toán được hiệu quả kinh tế trong sự vận động
và biến đổi không ngừng của các hoạt động kinh tế, không phụ thuộc
vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.

Từ đònh nghóa về hiệu quả kinh tế như đã trình bày ở trên, chúng
ta có thể nêu đònh nghóa về hiệu quả đầu tư như sau:



5
Hiệu quả đầu tư là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử
dụng nguồn vốn để đạt được mục tiêu xác đònh.

Trong đầu tư chứng khoán thì hiệu quả sử dụng nguồn vốn được
thể hiện trong việc mua bán chứng khoán đem lại mức sinh lời (tức là
phần chênh lệch giứa kết quả thu được sau một khoảng thời gian và
vốn gốc mà nhà đầu tư phải bỏ ra ban đầu).

Khái niệm hiệu quả đầu tư khác với khái niệm kết quả ở chổ là
kết quả chỉ là những gì mà mình thu được sau một khoản thời gian đầu

tư. Và kết quả đó có thể là lời hoặc lỗ.

1.1.1.2 Các tiêu thức đánh giá hiệu quả đầu tư.
Dưới đây xin đưa ra một số hiệu quả đầu tư trong việc sử dụng
vốn.
Thứ nhất: Số vòng quay toàn bộ vốn (
V
SV
)
V
KD
TR
SV
V


Với
V
SV
là số vòng quay của vốn. Số vòng quay vốn càng lớn
hiệu suất sử dụng vốn càng lớn.
Thứ hai: Hiệu quả sử dụng vốn

K
H
C


Với K là kết quả thu được sau quá trình đầu tư với số vốn đầu tư
ban đầu bỏ ra là C.

Trong đầu tư chứng khoán thì K chính là phần thu về từ thu nhập
cổ tức và giá bán chứng khoán đó.
H > 1 là tốt

1.1.2 Mức sinh lời trong đầu tư cổ phiếu:

1.1.2.1. Khái niệm:

- Mức sinh lời của một khoản đầu tư là phần chênh lệch giữa kết
quả thu được sau một khoảng thời gian đầu tư và vốn gốc mà nhà đầu tư
phải bỏ ra ban đầu.


6

- Việc một số nhà đầu tư mong muốn tối đa hóa lợi nhuận của họ và
họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Lợi nhuận có sức thúc đẩy to lớn đối với các
nhà đầu tư và là nguồn bù đắp chính cho quá trình đầu tư, do đó cũng là
chỉ tiêu quan trọng nhất để so sánh hai khoản đầu tư khác nhau. Bên cạnh
đó, việc đo lường mức sinh lời trong quá khứ cho phép nhà đầu tư đánh
giá khoản đầu tư của họ tốt như thế nào và là cơ sở để dự báo tương lai bất
đònh.

1.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời:

- Về mặt thu nhập, cổ đông của một công ty có thể hy vọng những
khoản lợi sau:
 Thu nhập từ sự tăng giá cổ phiếu
 Thu nhập từ phân phối cổ tức
 Thu nhập từ việc được nhận các cổ phiếu thưởng từ công ty (

mặc dù thu nhập này chỉ có ý nghóa danh nghóa)
 Cổ phiếu mới này phát hành kèm theo nghiệp vụ nhập dự trữ
vào vốn
 Thu nhập từ chứng quyền hay quyền mua cổ phiếu mới…

- Về đầu tư dài hạn nhất là đối với những người có chiến lược kinh
doanh chứng khoán là mua và giữ thì hai nguồn thu nhập chính là mức độ
tăng giá của cổ phiếu và cổ tức có thể quy trực tiếp ra tiền.

- Những quyền lợi khác như quyền bầu cử và ứng cử, quyền được
cung cấp thông tin,… cũng có giá trò tiền tệ nhưng không thể quy trực tiếp
ra tiền. Theo một cách nào đó, những quyền này thể hiện ra giá cả của cổ
phiếu. Một tin xấu công bố cho cổ đông sẽ làm giá giảm và ngược lại.
Mọi tin tức đều được phản ánh vào giá.

- Đặc biệt đối với khoản đầu tư cổ phiếu điều quan tâm nhất đến
hiệu quả kinh doanh là mức sinh lời, mà mức sinh lời nhà đầu tư nhận
được xuất phát từ hai nguồn:

 Thứ nhất: Nhà đầu tư có thể nhận được cổ tức từ việc sở hữu cổ
phiếu. Đây là khoản thu nhập đònh kỳ dưới dạng tiền mặt ( thu
nhập) của khoản đầu tư. Nó luôn luôn lớn hơn hoặc bằng không.


7
Khoản thu nhập cổ tức của cổ phiếu phổ thông thường được chi
trả một năm hoặc nửa năm một lần.

 Thứ hai: Ngoài cổ tức, khi nhà đầu tư bán cổ phiếu thì có thể thu
được mức chênh lệch giữa giá bán và giá mua cổ phiếu đó. Mức

chênh lệch này được gọi là lợi vốn (hoặc lỗ vốn).

Các thước đo mức sinh lời ( lợi suất đầu tư):
- Mức sinh lời tính bằng giá trò tuyệt đối:

 Tổng mức sinh lời đối với khoản đầu tư vào cổ phiếu của nhà
đầu tư bằng tổng hai khoản thu nhập cổ tức và mức lãi ( lỗ) vốn:

Khả năng sinh lời tổng thể của cổ phiếu = Thu nhập cổ tức + mức lãi
( lỗ) vốn

 Điểm quan trọng của công thức này là đã tính đến cả hai yếu tố
làm nên khả năng sinh lời, thu nhập cổ tức và mức lãi ( lỗ) vốn
do chênh lệch giá. Tại một thời điểm nào đó, một chứng khoán
có thể có một trong hai thành phần trên bằng 0

 Do khó có thể thu thập được dữ liệu về thuế và về chi phí giao
dòch nên trong các tính toán về mức sinh lời thường không đề
cập đến các chi phí thuế và phí giao dòch mặc dù những chi phí
này rất quan trọng và có thể làm giảm đáng kể thu nhập của cá
nhân nhà đầu tư.

- Mức sinh lời tính theo phần trăm - Tỷ suất sinh lời:

Khi đo lường mức sinh lời cần đo cả yếu tố thu nhập và yếu tố biến
động giá. Tỷ suất sinh lời tổng thể cho một kỳ nắm giữ chứng khoán bằng
tổng cộng tất cả những khoản thu nhập bằng tiền mặt và những khoản sinh
lời về vốn chia cho khoản tiền phải bỏ ra để đầu tư ( vốn gốc) và nó là cơ
sở để so sánh các khoản đầu tư khác nhau. Ta có công thức sau:


1 0
1
1
0 0
P PDIV
R
P P

 


Trong đó:



8

1
R
là mức sinh lời trong giai đoạn từ khi mua ( thời điểm 0) tới
thời điểm 1 năm sau

1
DIV
là cổ tức thu được trong giai đoạn này

0
P
là giá mua


1
P
là giá tại thời điểm 1 năm sau

1
0
DIV
P

là tỷ lệ cổ tức và
1 0
0
P P
P

gọi là tỷ lệ lãi vốn

Công thức trên giả đònh rằng cổ phiếu được mua ở đầu kỳ và bán ở
cuối kỳ, rằng cổ tức hay lãi được lónh ở cuối kỳ. Đối với các công ty niêm
yết trên TTGDCK ở Việt Nam , thực tế các công ty thường phân bổ nhiều
lần cổ tức trong 1 năm và lần cuối cùng của năm trước thường vào khoảng
quý II của năm sau đó, khi đã được Đại hội cổ đông thông qua các báo
cáo tài chính của năm trước. Thay đổi giá trong kỳ (P
1
– P
0
) bằng chênh
lệch giữa thời điểm năm trước ( giả đònh giá bán ra) và thời điểm năm sau
( giả đònh giá mua vào). Mức chênh lệch này có thể âm hoặc dương. Mặt
khác, chi phí giao dòch và thuế không được tính trong công thức này.


- Mức sinh lời bình quân số học ( trung bình cộng) và mức sinh
lời trong một khoảng thời gian ( trung bình nhân):

Để tính mức sinh lời của một danh mục đầu tư có nhiều chứng
khoán thành phần hay để tính mức sinh lời của một chứng khoán qua
nhiều kỳ, người ta phải dùng đến các công thức tính trung bình.
Trung bình cộng ký hiệu R và bằng:

1 2 3
...
t
R R R R
R
t
   



Trong đó:
R
là mức sinh lời bình quân năm

1 2 3
, , ,...,
t
R R R R
là mức sinh lời từng năm trong khoảng
thời gian t năm.


Trung bình số học thích hợp để đo lường khuynh hướng tập trung
của mức sinh lời tính vào một thời điểm nhất đònh. Tuy nhiên nếu dùng


9
trung bình số học để tính trung bình mức sinh lời theo chiều thời gian thì
có thể sẽ có kết quả không chính xác.

Trong trường hợp này mức sinh lời trong một khoảng thời gian hay
trung bình nhân sẽ chính xác hơn. Trung bình nhân mô tả mức sinh lời gộp
theo chiều thời gian, đo lường mức sinh lời qua nhiều kỳ.

Giả sử toàn bộ cổ tức lại được tái đầu tư và cũng thu được một mức
sinh lời tương tự như mức sinh lời của khoản vốn gốc, ta gọi khoảng thời
gian đầu tư là t năm thì tổng mức sinh lời là:

1 2
(1 )(1 )....(1 ) 1
t t
R R R R    


Tuy nhiên, ta cũng có thể tính mức sinh lời lũy kế theo từng năm để
biết khi so sánh trong khoảng thời gian t năm thì năm sau bình quân mức
đầu tư tăng được bao nhiêu phần trăm so với năm ngay trước nó
Công thức xác đònh như sau:

R
hàng năm
=

1 2
(1 ) (1 ).....(1 )
t
t
R x R R  
- 1

Trong khi tính trung bình nhân, người ta phải cộng mức sinh lời
thành phần với 1.

So sánh hai cách đo mức sinh lời trung bình trên đây, người ta
cho rằng:

- Trung bình cộng thường dùng để ước lượng suất sinh lời kỳ vọng
của một chứng khoán từ những dữ liệu lòch sử và dùng để tính phương sai
và độ lệch chuẩn.
- Khi đo lường hiệu quả đầu tư theo thời gian thì trung bình nhân
chính xác hơn và đáng tin cậy hơn.
- Nói chung thì
R
≥ R
t
hàng năm và khi mức độ biến động của sinh
lời càng cao thì chênh lệch giữa hai giá trò trung bình này càng lớn.

1.1.2.3 Suất sinh lời kỳ vọng

- Chúng ta cần phân biệt hai thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong
đầu tư: suất sinh lời thực hiện và suất sinh lời kỳ vọng.



10
 Suất sinh lời thực hiện là mức sinh lời đã xảy, nhà đầu tư đã
thu được.
 Suất sinh lời kỳ vọng từ một tài sản là mức sinh lời mà nhà
đầu tư dự đoán sẽ đạt được trong tương lai. Đó là mức sinh lời
dự kiến. Điều này có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Nhà đầu
tư có ý đònh mua một tài sản nào đó nếu suất sinh lời kỳ vọng
chấp nhận được, tuy nhiên họ cần phải hiểu rằng kỳ vọng của
họ có thể không bao giờ thành hiện thực.

Để ước lượng suất sinh lời kỳ vọng, người ta thừơng dùng 2
phương pháp:
- Thứ nhất, số những khả năng suất sinh lời sẽ xảy ra trong tương lai
là rất nhiều, có thể là vô số. Nhà phân tích gán cho từng khả năng ấy một
xác suất có thể xảy ra. Suất sinh lời kỳ vọng khi ấy sẽ là:

E (R) = P
1
R
1
+ P
2
R
2
+…….. + P
n
R
n
=

1
n
k
PkRk




Trong đó: E(
R
): suất sinh lời kỳ vọng

R
k
: suất sinh lời đối với khả năng k
P
k
: xác suất xảy ra R
k
trong thực tế.
Từ công thức trên, có thể nói suất sinh lời kỳ vọng của một chứng
khoán bằng trung bình có trọng số tất cả những suất sinh lời có thể xảy ra,
trong đó trọng số là xác suất của mỗi suất sinh lời khả năng đó.

- Thứ hai ( cách này thường dùng hơn), người ta giả đònh rằng phân
phối xác suất suất sinh lời trong quá khứ, đã thực hiện sẽ lặp lại trong
tương lai. Nếu lòch sử lặp lại, thì khi đó suất sinh lời kỳ vọng sẽ bằng trung
bình cộng suất sinh lời đã thực hiện trong thời gian trước đó.

Khi đó:


1 2
1
...
1
( )
n
n
t
R R R
E R R R
n n
  
  



Trong đó: E(R): Suất sinh lời kỳ vọng
R: Suất sinh lời trung bình
R
t
: Suất sinh lời của kỳ t


11
n: Số năm trong kỳ tính toán

Trên thò trường chứng khoán có 2 cách thức giao dòch: giao dòch
khớp lệnh đònh kỳ (fixing) và giao dòch liên tục. Giao dòch đònh kỳ chỉ
khớp lệnh một vài lần trong ngày ( Ví dụ như Trung tâm GDCK TPHCM

của Việt Nam hiện nay giao dòch 3 lần/ ngày). Những thò trường đã phát
triển lựa chọn giao dòch liên tục, nghóa là mỗi lần khớp lệch chỉ tốn chưa
đến 30 giây…

- Với trường hợp thứ nhất, việc ước lượng suất sinh lời theo kiểu
truyền thống là thích hợp.

- Với trường hợp giao dòch liên tục 24h/ 24h, việc lựa chọn giá tham
chiếu cũng rất khó khăn , và suất sinh lời thực sẽ phụ thuộc vào số lần (n)
gộp lợi nhuận vào vốn trong kỳ. Nếu số kỳ tăng lên vô hạn thì suất sinh
lời thực sẽ được ước lượng bằng công thức:

R
r
=e
R
– 1

Trong đó: R
r
: suất sinh lời thực
R: suất sinh lời danh nghóa
e: hằng số e tự nhiên
Theo đònh nghóa, suất sinh lời thực qua n kỳ sẽ bằng R
r
trong công thức
sau:

0
0

n
P P
P

=
0
n
P
P
– 1 = e
Rr
– 1


0
n
P
P
= e
Rr


R
r
= ln (
0
n
P
P
)


Trong đó: Rr: suất sinh lời thực
e: hằng số tự nhiên e
P
n
: giá tại thời diểm n
P
0
: giá tại thời điểm 0

Công thức cuối cùng Rr = ln (P
n
/ P
0
) được sử dụng rộng rãi trên thò
trường tài chính. Nó rất tiện cho việc tính toán và giảm bớt được khá
nhiều bước trong tính toán, nhất là với những thò trường giao dòch liên tục
và sôi động. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này sẽ chỉ dùng cách tính thông
thường, bởi thò trường giao dòch gián đoạn, đònh kỳ, không liên tục.



12
Tỷ suất sinh lời nội bộ (IRR)

Tỷ suất sinh lời nội bộ (IRR) là lãi suất chiết khấu mà tại đó NPV
của khoản đầu tư bằng 0.
NPV được tính như sau:

NPV =

Giá trò hiện tại của
– Đầu tư ban đầu

dòng tiền dự kiến trong tương lai

Việc sử dụng tỷ suất sinh lời nội bộ gặp một số khó khăn sau:
- Vấn đề tính toán ( không tính được tỷ suất sinh lời nội bộ, hoặc sẽ
tính được 2 tỷ suất sinh lời nội bộ)
- Tỷ suất sinh lời nội bộ giả đònh rằng tất cả các khoản thu nhập đều
được tái đầu tư
- Hoặc có một số trường hợp kết luận căn cứ trên IRR mâu thuẫn
với kết luận căn cứ trên dòng thu nhập thuần hiện giá (NPV)…

Tỷ suất sinh lời của một danh mục đầu tư

Danh mục đầu tư bao gồm toàn bộ chứng khoán trong danh mục đó.
Do vậy, suất sinh lời kỳ vọng của một danh mục bằng trung bình có trọng
số của suất sinh lời của toàn bộ các chứng khoán thành phần. Công thức
như sau:

E(R
p
) = x
1
E (R
1
) + x
2
E(R
2

)+….+ x
n
E(R
n
) =
1
n
i

x
i
E(R
i
)
Trong đó: E (R
p
): suất sinh lời kỳ vọng của danh mục đầu tư p
x
i
: tỷ trọng của chứng khoán i trong danh mục
n: số loại chứng khoán trong danh mục
E(R
i
): suất sinh lời kỳ vọng của chứng khoán i

1.1.3 Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu:

1.1.3.1 Khái niệm về rủi ro:

Rủi ro trong đầu tư chứng khoán được đònh nghóa là khả năng xảy ra

nhiều kết quả ngoài dự kiến, hay nói cách khác, mức sinh lời thực tế nhận
được trong tương lai có thể khác với dự tính ban đầu. Độ chắc chắn (hay
độ dao động) của lợi suất đầu tư càng cao thì rủi ro càng cao và ngược lại.


13
Theo các lý thuyết trước đây, người ta chỉ quan niệm rủi ro là những yếu
tố làm cho mức sinh lời giảm đi. Nhưng hiện nay, quan niệm này đã thay
đổi. Người ta cho rằng tất cả mọi yếu tố làm cho mức sinh lời thay đổi so
với dự tính, dù làm tăng hay giảm, đều được gọi là rủi ro.

1.1.3.2 Các loại rủi ro:

Chúng ta biết rằng sự dao động của thu nhập, dao động của giá
chứng khoán hay cổ tức ( lãi suất ) là những yếu tố cấu thành rủi ro. Một
số rủi ro nằm ngoài sự kiểm soát của công ty phát hành và ảnh hưởng đến
nhiều công ty cùng một lúc. Một số rủi ro phát sinh từ nội tại của công ty
và công ty có thể kiểm soát ở mức tương đối.

Rủi ro có hệ thống:

- Là những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát
được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thò trường và tất cả mọi loại chứng
khoán được gọi là rủi ro có hệ thống.

- Những yếu tố đó là : Những biến động về kinh tế, chính trò, và xã
hội là nguồn gốc của rủi ro hệ thống. nh hưởng của chúng tác động đến
giá của hầu như toàn bộ các cổ phiếu (hay toàn bộ trái phiếu) trên thò
trường. Chẳng hạn khi kinh tế suy thoái và lợi nhuận của các công ty đều
giảm, giá cổ phiếu của hầu hết các công ty niêm yết trên thò trường sẽ có

xu hướng giảm.

Rủi ro không có hệ thống (phi hệ thống):

- Là những rủi ro do các yếu tố nội tại gây ra, nó có thể kiểm soát
được và chỉ tác động đến một ngành hay tới một công ty, một hoặc một số
chứng khoán.

- Các nhân tố như khả năng quản trò, sở thích của người tiêu dùng,
bò kiện tụng, đình công của công nhân là các nhân tố gây ra rủi ro không
hệ thống của công ty. Các nhân tố rủi ro không hệ thống hầu như độc lập
với các nhân tố ảnh hưởng đến toàn bộ thò trường chứng khoán. Vì các
nhân tố này chỉ ảnh hưởng đến một công ty hay một ngành nên chúng cần
được đánh giá trong bối cảnh cụ thể của công ty hay ngành đó.



14
1.1.3.3 Các nhân tố hình thành rủi ro trong hoạt động đầu tư

a. Nguyên nhân hình thành rủi ro hệ thống:

Rủi ro thò trường: Gía cả cổ phiếu có thể dao động mạnh trong
một khoảng thời gian ngắn mặc dù lợi nhuận của hoạt động kinh doanh
công ty hầu như không thay đổi . Không hiếm khi người ta thấy giá cổ
phiếu giảm trong khi lợi nhuận của công ty phát hành cổ phiếu đó lại đang
tăng lên và ngược lại giá cổ phiếu tăng trong khi lợi nhuận công ty giảm.
Nguyên nhân của nó có thể rất khác nhau nhưng phụ thuộc chủ yếu vào
cách nhìn nhận của các nhà đầu tư về các loại cổ phiếu nói chung hay về
một nhóm các cổ phiếu nói riêng (nói cách khác là sự thay đổi tâm lý của

nhà đầu tư). Những thay đồi trong mức sinh lời đối với phần lớn các loại
cổ phiếu thường chủ yếu là do sự dánh giá của các nhà đầu tư về chúng
thay đổi và gọi là rủi ro thò trường.

 Rủi ro thò trường có nguồn gốc là do có những phản ứng của
các nhà đầu tư đối với những sự kiện hữu hình hay vô hình.
Sự đánh giá rằng lợi nhuận của các công ty nói chung có xu
hướng sụt giảm có thể là nguyên nhân làm cho phần lớn các
loại cổ phiếu thường bò giảm giá. Các nhà đầu tư thường phản
ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực tế xảy ra, hữu hình như
các sự kiện kinh tế, chính trò, xã hội.

 Bên cạnh đó các sự kiện vô hình là các sự kiện nảy sinh do
yếu tố tâm lý của thò trường. Rủi ro thò trường thường xuất
phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không vững
vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá các
sự kiện đó. Những sụt giảm đầu tiên của giá chứng khoán
trên thò trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các nhà đầu
tư và họ sẽ cố gắng rút vốn bằng cách bán chứng khoán.
Những phản ứng dây chuyền làm tăng vượt số lượng bán, giá
cả chứng khoán sẽ rơi xuống thấp so với giá trò nội tại của
chứng khoán.

 Vấn đề rủi ro thò trường chỉ nhấn mạnh đến phản ứng tiêu
cực. Tuy nhiên vẫn có thể có hiện tượng mua vào rất nhiều
khi có những sự kiện bất thường xảy ra, lúc đó giá cả chứng
khoán sẽ tăng lên. Các nhà đầu tư hầu như không coi việc


15

tăng giá là một rủi ro. Tăng giá chỉ là rủi ro đáng kể đối với
trường hợp bán khống mà thôi.

Rủi ro lãi suất thò trường: Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn đònh
trong giá trò thò trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là
dao động trong mức lãi suất chung. Những biến động về lãi suất này
thường là kết quả thay đổi chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương.

 Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi
suất chuẩn ( có thể là lãi suất trái phiếu Chính phủ), khi đó sẽ
có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại chứng
khoán khác, đó là các loại cổ phiếu và trái phiếu công ty. Nói
cách khác, sự thay đổi về chi phí vay vốn đối với các loại
chứng khoán Chính phủ sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay
vốn của các loại chứng khoán công ty.

 Các nhà đầu tư thường coi các chứng khoán của Chính phủ
gần như là không rủi ro. Các loại trái phiếu Chính phủ kỳ hạn
dài thì không có rủi ro thanh toán ( nhưng vẫn có rủi ro về giá
cả). Các mức lãi suất trái phiếu Chính phủ các kỳ hạn khác
nhau được dùng làm chuẩn để xác đònh lãi suất trái phiếu
công ty có thời gian đáo hạn tương tự. Do vậy, những thay đổi
trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới toàn
bộ hệ thống chứng khoán, từ trái phiếu cho đến các loại cổ
phiếu rủi ro nhất.

 Mặt khác, thay đổi lãi suất chứng khoán chính phủ sẽ ảnh
hưởng đến cung cầu chứng khoán chính phủ. Ví dụ khi chính
phủ thâm hụt ngân sách trầm trọng sẽ đòi hỏi bổ sung, tăng
cường nguồn tài trợ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ là

một giải pháp, tuy nhiên giải pháp này làm tăng cung chứng
khoán chính phủ. Nhà đầu tư tiềm năng của đợt phát hành sẽ
so sánh và chỉ mua nếu lãi suất của chứng khoán mới cao hơn
lãi suất của chứng khoán hiện đang lưu hành.

 Một khi lãi suất trái phiếu chính phủ tăng, nó sẽ trở nên hấp
dẫn hơn và các loại chứng khoán khác sẽ bò kém hấp dẫn đi.
Kết quả là, một số nhà đầu tư sẽ mua trái phiếu chính phủ
thay vì mua trái phiếu công ty, và do vậy lãi suất trái phiếu


16
công ty cũng phải tăng lên. Lãi suất trái phiếu công ty tăng sẽ
dẫn đến giá của trái phiếu giảm và cũng làm cho giá của các
loại cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi giảm xuống như một
phản ứng dây chuyền, làm ảnh hưởng đến mức sinh lời của
toàn bộ các chứng khoán trên thò trường.

 Như vậy, ta thấy sự ảnh hưởng của việc thay đổi lãi suất do
các loại công cụ có liên hệ với nhau. Sự tăng lên của lãi suất
chuẩn sẽ làm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Kết quả trực
tiếp của việc tăng lãi suất chuẩn là giá cả của các loại chứng
khoán khác giảm xuống. Tương tự lãi suất chuẩn giảm lại làm
cho giá của các loại chứng khoán tăng lên.

Rủi ro lạm phát ( sức mua): Rủi ro thò trường và rủi ro lãi suất có
thể được đònh nghóa là những biến cố về số tiền thu được hiện nay của nhà
đầu tư. Rủi ro lạm phát( hay sức mua) là biến cố về sức mua của đồng tiền
thu được. Hay nói khác đi rủi ro sức mua là tác động của lạm phát và thiểu
phát đối với khoản đầu tư.


Ảnh hưởng của lạm phát đối với nhà đầu tư và đối với công ty niêm
yết như sau:

 Đối với nhà đầu tư: Nếu chúng ta cho rằng đầu tư là một sự trì
hoãn tiêu dùng, chúng ta sẽ thấy rằng, khi một người mua
một cổ phiếu, anh ta phải bỏ qua những cơ hội mua sắm các
hàng hóa và dòch vụ trong suốt thời gian mà anh ta nắm giữ
cổ phiếu đó. Ví dụ như trong khoảng thời gian đó, giá của
những sản phẩm và dòch vụ mà nhà đầu tư muốn mua tăng
lên, nhà đầu tư sẽ bò giảm bớt sức mua. Cả lạm phát và thiểu
phát sẽ ảnh hưởng đến sức mua, tuy nhiên nói chung khi nói
đến rủi ro sức mua người ta chỉ có ý đề cập đến lạm phát, bởi
vì ảnh hưởng của thiểu phát đối với sức mua không phổ biến
lắm.

Cũng giống như lãi suất, lạm phát ảnh hưởng đến tất cả mọi chứng
khoán. nh hưởng này thể hiện ở tỷ suất sinh lời kỳ vọng. Khi lạm phát
tăng lên thì tỷ suất sinh lời kỳ vọng cũng đòi hỏi phải tăng lên tương ứng,
sao cho tỷ suất sinh lời thực ít ra là không giảm.



17
 Đối với công ty niêm yết: Rủi ro lạm phát ảnh hưởng đến các
công ty niêm yết theo những cách khác nhau và có hậu quả
cũng khác khau. Trường hợp thứ nhất, chi phí đầu vào tăng
nhanh hơn giá cả và dòch vụ tiêu thụ thì lợi nhuận công ty sẽ
giảm xuống và giá cổ phiếu sẽ giảm. Ngược lại, nếu chi phí
đầu vào tăng nhưng giá cả sản phẩm và dòch vụ còn tăng

nhanh hơn thì lợi nhuận ròng không giảm mà lại tăng, do vậy
giá cổ phiếu sẽ tăng.

b. Nguyên nhân hình thành rủi ro không hệ thống ( phi hệ
thống):

Rủi ro không hệ thống (phi hệ thống) là một phần trong tổng rủi ro
gắn liền với toàn bộ thò trường. Những yếu tố này có thể là khả năng quản
lý, thò hiếu tiêu dùng, đình công và nhiều yếu tố khác là nguyên nhân gây
ra sự thay đổi trong thu nhập từ cổ phiếu công ty. Do những yếu tố này chỉ
ảnh hưởng tới một ngành hay một công ty cụ thể nên chúng phải được
xem xét cho từng công ty.

Sự không chắc chắn đối với khả năng thanh toán của công ty có thể
là do (1) môi trường của hoạt động kinh doanh và (2) tình trạng tài chính
công ty. Chúng được gọi là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính ( hay rủi
ro về cơ cấu tài chính công ty).

- Rủi ro kinh doanh: Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro do những biến
động của môi trường kinh doanh đặc thù gây ra, ảnh hưởng tới lợi nhuận
của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tới cổ tức đã dự
kiến.

Rủi ro kinh doanh có thể chia làm hai loại:
 Rủi ro có nguyên nhân từ bên trong công ty ( chính sách quản
trò kinh doanh)
 Rủi ro có nguyên nhân bên ngoài công ty ( môi trường kinh
doanh)

Rủi ro kinh doanh bên trong công ty gắn liền với hiệu quả hoạt

động kinh doanh mà công ty đang tiến hành. Mỗi công ty có một hệ thống
các rủi ro kinh doanh với mức độ rủi ro khác nhau riêng của mình. Một sự
thay đổi lãnh đạo không đúng lúc và đúng người, một chính sách


18
marketing không hiệu quả, một dự báo sai lầm về tính mùa vụ của sản
phẩm dẫn đến tồn kho quá nhiều… có thể làm giảm đáng kể lợi nhuận của
công ty.

Rủi ro kinh doanh bên ngoài là kết quả của những ảnh hưởng môi
trường kinh doanh đến lợi nhuận của công ty. Mỗi công ty phải đối mặt
với một hệ thống yếu tố rủi ro bên ngoài khá riêng biệt, phụ thuộc vào
môi trường hoạt động riêng biệt của chính họ. Chẳng hạn như:

 Sự cạnh tranh của các đối thủ cùng ngành trên thò trường làm
công ty mất thò phần đáng kể.

 Sự thay đổi trong chính sách thuế của chính phủ cũng ảnh
hưởng đến lợi nhuận của công ty. Ví dụ chính phủ nâng thuế
tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng xe hơi và rượu…


 Những chính sách tiền tệ của chính phủ có ảnh hưởng rất lớn
đến thu nhập của các công ty cũng như mức độ sẵn sàng của
các nguồn vốn. Chẳng hạn nếu lãi suất tăng cao thì một số
người tiêu dùng mua trả chậm sẽ không mua nữa, những nhà
bán lẻ cũng như sản xuất bò ảnh hưởng

 Chất lượng hàng hóa và dòch vụ của công ty rất kém không

đáp ứng yêu cầu của thò trường.

 Gặp rủi ro khi nhà cung cấp hủy hợp đồng cung ứng nguyên
liệu quan trọng, làm nhà máy phải hoạt động cầm chừng…

 Chu kỳ kinh doanh cũng ảnh hưởng đến doanh thu công ty,
doanh thu của một số ngành có xu hướng là biến đổi theo chu
kỳ, trong khi đó, một số ngành khác lại không có tính chu kỳ.


 Yếu tố về dân số học như tuổi thọ, giới…. cũng ảnh hưởng đến
thu nhập

 Yếu tố chính trò cũng là một trong những rủi ro bên ngoài
hoạt động công ty.


19

- Rủi ro tài chính: Rủi ro tài chính là sự biến động về lợi nhuận của
các cổ đông khi công ty vay nợ. Sự biến động tài chính này chính là một
rủi ro khác ngoài rủi ro kinh doanh của công ty. Khi một công ty huy động
vốn bằng cách phát hành trái phiếu thì các khoản thanh toán lãi suất phải
được thực hiện trước khi tính thu nhập của cổ phiếu thường, và các khoản
thanh toán lãi suất này được coi là nợ cố đònh

 Giống như đòn bẩy hoạt động, trong thời gian công ty hoạt
động tốt thì thu nhập của cổ phiếu thường sẽ tăng theo một tỷ
lệ phần trăm lớn hơn thu nhập hoạt động do những chi phí tài
chính cố đònh này. Hơn nữa công ty đã tăng nợ do những

nghóa vụ theo hợp đồng cố đònh, làm tăng rủi ro tài chính và
nguy cơ mất khả năng thanh toán cao hơn

 Để xác đònh rủi ro tài chính của một công ty, người ta thường
sử dụng hai loại hệ số:

Loại thứ nhất: Là các hệ số của bảng cân đối kế toán, những hệ số
này cho biết tỷ lệ vốn nợ so với vốn cổ phần, nợ dài hạn so với tổng vốn.

Loại thứ hai: Là nhóm các hệ số về các dòng thu nhập hoặc dòng
tiền sẵn có để thanh toán các chi phí tài chính cố đònh.

Việc tính toán và phân tích các hệ số này sẽ đem lại một đánh giá
khái quát về hai vấn đề cơ bản:
Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn

Cơ cấu vốn và khả năng thanh toán nợ dài hạn.
Trên đây là một số rủi ro chính mà nhà đầu tư cổ phiếu gặp phải.
Việc phân loại cũng chỉ là tương đối. Các rủi ro tác động qua lại với nhau,
là nguyên nhân và là kết quả của nhau. Cũng khó đònh lượng tác động của
từng loại rủi ro. Vậy nên, người ta thường tìm cách đo lường một cách gần
đúng rủi ro tổng thể ( toàn bộ rủi ro) mà không đo, và cũng không thể đo
chúng một cách riêng lẻ, từng rủi ro một.

1.1.3.4 Đo lường rủi ro:



20
a. Đo lường rủi ro theo phương pháp tính phương sai và độ

lệch chuẩn (δ)

Khó có thể dự báo một cách chính xác rằng giá cổ phiếu sẽ tăng
hay giảm, và tăng giảm bao nhiêu, cũng khó có thể dự báo một cách chính
xác rằng công ty sẽ phân bổ cổ tức là bao nhiêu. Đơn giản là vì không thể
đo lường một cách chính xác những tác động kinh tế xã hội đối với công ty
và đối với giá chứng khoán.

Sự tồn tại của sự không chắc chắn này không có nghóa là không thể
đo lường rủi ro của chứng khoán. Sự không chắc chắn này buộc nhà phân
tích tài chính không những phải thận trọng trong việc dự báo khả năng
sinh lời mà còn phải đo lường mức độ rủi ro kèm theo khả năng sinh lời kỳ
vọng đó.

Lượng hóa rủi ro còn cần thiết để có thể có cơ sở thống nhất cho
việc diễn giải và so sánh giữa các chứng khoán với nhau. Việc đo lường
sự biến thiên của suất sinh lời chính là đo lường độ phân tán của suất sinh
lời. Phương tiện thích hợp nhất ở đây là phương sai và độ lệch chuẩn (δ).

- Thứ nhất, số những khả năng suất sinh lời sẽ xảy ra trong tương lai
là rất nhiều, có thể là vô số. Nhà phân tích gán cho từng khả năng ấy một
xác suất có thể xảy ra, có thể trở thành hiện thực.
Theo cách này công thức để đo phương sai và độ lệch chuẩn như
sau:

Var (R) = δ
2
(R ) =
1
n

i

p
i
(R
i
– R )
2


δ = δ
2

Trong đó:
R : Trung bình suất sinh lời
δ
2
( R) : Phương sai của suất sinh lời kỳ vọng
δ : Độ lệch chuẩn của suất sinh lời kỳ vọng
p
i
: Xác suất gán cho suất sinh lời Ri có thể xảy ra trong thực
tế, do vậy ∑p
i
= 1
R
i
: Suất sinh lời trường hợp i
n :Số trường hợp suất sinh lời khác nhau .




21
Trong trường hợp căn cứ vào chuỗi suất sinh lời quá khứ, người ta ước
lượng phương sai như sau:

2 2
1
1
( ) ( ) ( )
1
n
i
i
Var R R R R
n


  



Trong đó:


R
: Trung bình suất sinh lời
δ
2
( R): Phương sai của suất sinh lời kỳ vọng

R
i
: Suất sinh lời trong từng năm
n: Số năm trong kỳ tính toán

Mức độ biến động của suất sinh lời thực tế xung quanh suất sinh lời
trung bình kỳ vọng được đo bằng phương sai và được coi là mức độ rủi ro
tổng thể ( bằng rủi ro hệ thống + rủi ro phi hệ thống). Phương sai hay độ
lệch chuẩn càng thấp chứng tỏ rằng đại đa số suất sinh lời thực tế tập
trung xung quanh suất sinh lời kỳ vọng, và ngược lại nếu phương sai và độ
lệch chuẩn càng cao chứng tỏ có nhiều suất sinh lời thực tế của các kỳ
nằm xa suất sinh lời kỳ vọng, và như vậy rủi ro sẽ cao hơn.

Một cách cực đoan, khi phương sai và độ lệch chuẩn suất sinh lời
của một chứng khoán bằng 0 thì chứng khoán đó không có rủi ro. Tuy
nhiên trên thực tế, hầu như không bao giờ có trường hợp này.

Các tổ chức tài chính và các công ty tư vấn tài chính rất hay đo
lường rủi ro tổng thể của các thò trường và so sánh chúng với nhau. Độ
lệch chuẩn suất sinh lời các thò trường mới nổi thường cao hơn nhiều so
với các thò trường phát triển

Phương pháp đo rủi ro bằng phương sai cũng chỉ là một trong các
cách đo rủi ro một cách gần đúng mà thôi, bởi vì còn có những phương
pháp khác có thể được sử dụng để đo lường sự rủi ro.

b. Đo lường rủi ro hiện đại ( đo lường hệ số β):

Đã có rất nhiều cố gắng tìm kiếm cách đo lường rủi ro. Một trong
các hướng quan trọng nhất là đo lường hệ số β, cũng như việc áp dụng nó

vào mô hình đònh giá tài sản vốn (CAPM)


22

Đònh nghóa hệ số (β):

- Hệ số bêta (β) của một chứng khoán hoặc một danh mục đầu tư là
chỉ số rủi ro hệ thống của tài sản đó và được xác đònh bằng phương pháp
thống kê. Hệ số β được tính toán dựa trên số liệu quá khứ về lợi suất đầu
tư của chứng khoán đó và lợi suất của danh mục thò trường.
- Những chứng khoán không có rủi ro thì hệ số β bằng 0.
- Danh mục đầu tư thò trừơng có hệ số β bằng 1.
- Nếu chứng khoán i nào đó có hệ số bêta giống như danh mục đầu
tư thò trường (bằng 1) thì lợi suất ước tính (lợi suất kỳ vọng) của nó bằng
lợi suất ước tính của danh mục thò trường.

1.2 ĐÁNH GIÁ RỦI RO VÀ MỨC SINH LỜI KỲ VỌNG (ĐO
LƯỜNG SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA LI NHUẬN VÀ RỦI
RO)


a. Mô hình CAPM (mô hình đònh giá tài sản vốn) :

- CAPM sử dụng hệ số bêta để liên kết khả năng sinh lợi với hệ số
bêta. CAPM cho phép nhà đầu tư có thể đánh giá ảnh hưởng của việc đầu
tư vào một chứng khoán cụ thể sẽ ảnh hưởng như thế nào đến suất sinh lời
kỳ vọng và rủi ro của danh mục đầu tư của họ. Người ta cũng sử dụng
CAPM để đánh giá mối tương quan giữa rủi ro và lợi nhuận trong những
quyết đònh đầu tư khác nhau. CAPM có thể diễn đạt dưới dạng một công

thức hoặc một đồ thò, còn gọi là đường thò trường chứng khoán ( Security
Market Line – SML).

- Coi bêta là phương tiện để đo rủi ro không phân tán được, mô hình
đònh giá tài sản vốn tính suất sinh lời kỳ vọng của một chứng khoán theo
công thức sau:

R
s
= R
f
+ β
s
( R
m
– R
f
)

Trong đó:
R
s
: suất sinh lời kỳ vọng của chứng khoán s
R
f
: suất sinh lời của đầu tư phi rủi ro ( thường là suất sinh lời
của tín phiếu kho bạc)


23

β: hệ số bêta ( rủi ro hệ thống ) của chứng khoán s
R
m
: suất sinh lời trung bình của tất cả mọi chứng khoán trên thò
trường ( trên thò trường cổ phiếu là chỉ số thò trường tiêu biểu nhất)

Đường thò trường chứng khoán

Khi mô hình đònh giá vốn được vẽ trên đồ thò thì trở thành đường thò
trường chứng khoán. Do dựa trên CAPM, đường SML sẽ là một đường
thẳng. Chẳng hạn, nếu bê ta bằng 1,25 và lãi suất phi rủi ro là 6% thì
đường SML sẽ có hình dạng sau:
Đồ thò 1.3. Đường thò trường với bêta = 1,25, lãi suất phi rủi ro = 6%

b. Mô hình thò trường Market Model:

- Mô hình thò trường Market Model được W.F.Sharpe xây dựng vào
năm 1960, mô hình này khắc phục những nhược điểm của mô hình
Markowitz và đơn giản hơn nhiều.

Cũng như tất cả những mô hình tài chính khác, mô hình của Sharpe
dựa trên một nguyên tắc ( giả thuyết, giả đònh) rằng suất sinh lời của các
chứng khoán tương quan với nhau chỉ khi chúng cùng phụ thuộc vào biến
động của thò trường chứng khoán. Theo mô hình này thì khi chỉ số tăng, đa
số các chứng khoán cũng tăng giá. Ngược lại, khi chỉ số giảm đa số chứng
khoán cũng sẽ giảm giá.

Với lập luận đó, Sharpe xây dựng “mô hình thò trường” dưới dạng
một hàm hồi quy trong đó biến độc lập là suất sinh lời của danh mục đại
diện cho toàn bộ thò trường, còn biến phụ thuộc là suất sinh lời của chứng

khoán i. Tại các nước, vì thò trường chứng khoán bao gồm rất nhiều chứng
khoán khác nhau nên người ta coi danh mục thò trường đồng nghóa với
danh mục cổ phiếu lập chỉ số chính của thò trường cổ phiếu. Công thức của
mô hình thò trường như sau:

R
it
= α
i
+ β
i
R
Mt
+ e
it


Trong đó: R
it
: suất sinh lời của chứng khoán i tại kỳ t
α
i
: hằng số. Hằng số nàylà suất sinh lời của chứng khoán i khi
suất sinh lời của thò trường bằng 0.


24
β
i
: Độ dốc của đường hồi quy. Hệ số này cho thấy mức độ nhạy

cảm của chứng khoán i đối với chỉ số thò trường chứng khoán.
R
Mt
: suất sinh lời của danh mục thò trường hay của chỉ số chứng
khoán trong kỳ t
e
it
: Phần suất sinh lời dư của chứng khóan i trong kỳ t. Những
đặc điểm này cho thấy chúng độc lập với nhau và độc lập với
thò trường. Trung bình của những phần dư này bằng 0.
Hệ số bêta được tính bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất như sau:


2
( , )
( )
S M
S
M
Cov R R
R





Trong đó: β
s
là hệ số bêta của chứng khoán s
R

s
là suất sinh lời của chứng khoán s
R
M
là suất sinh lời của thò trường
Theo mô hình thò trường kể trên ta có:
R
it
= α
i
+ β
i
R
Mt
+ e
it


Do vậy rủi ro tổng thể của chứng khoán i sẽ là:

Var (R
it
) = Var (α
i
+ β
i
R
Mt
+ e
it

)

Vì α
i
là một hằng số nên Var (α
i
) = 0, Cov (α
i
, e
it
) = 0, Cov (α
i
, β
i
R
Mt)
= 0,
và theo giả thiết của hàm hồi quy, yếu tố ngẫu nhiên hoàn toàn độc lập
với thò trường, nghóa là Cov(e
it
R
Mt
) = 0, do vậy:

 Var (R
it
) = Var(β
i
R
Mt

)

+ Var (e
it
)

Mặt khác, Var (β
i
R
Mt
)= β
2
Var (R
Mt
) nên


Var (R
it
)= βi
2
Var (R
Mt
)+ Var (e
it
)


Var (e
it

) = Var (R
it
) – β
i
2
Var (R
Mt
).

c. Độ thanh khoản:



25
Khái niệm: Thò trường có độ thanh khoản cao có rất nhiều lợi ích.
Trước hết thò trường đó cho phép Ngân hàng trung ương sử dụng các công
cụ tiền tệ một cách thuận lợi và giúp cho thò trường ổn đònh hơn. Nó cho
phép các tổ chức tài chính chòu đựng được một tỷ lệ nợ lớn hơn. Về phía
các nhà đầu tư, thò trường có độ thanh khoản tốt sẽ hấp dẫn hơn.

- Đứng trên góc độ kinh tế vi mô, khái niệm độ thanh khoản có
nhiều nghóa khác nhau. Với người tham gia thò trường, một tài sản tài
chính gọi là có thanh khoản cao khi có thể bán ra một số lượng lớn mà
không ảnh hưởng đáng kể đến giá.
- Độ thanh khoản thể hiện dưới 5 đặc trưng sau đây:
 Mức độ chặt chẽ
 Tính nhanh chóng
 Độ sâu
 Độ rộng
 Khả năng điều chỉnh để lập lại cân bằng


Khi đề cập đến phương pháp đo độ thanh khoản người ta phân biệt
4 loại thanh khoản sau đây: thanh khoản của một tài sản, thanh khoản của
thò trường của một tài sản, thanh khoản của thò trường tài chính, thanh
khoản của một tổ chức tài chính.

Đo lường độ thanh khoản: Việc đo lường độ thanh khỏan chia làm
các nhóm phương pháp:

Các phương pháp đo tác động thò trường:

Mô hình CAPM cho phép giải thích những biến động của thò trường.
Rủi ro hệ thống không thể phân tán được vì chúng ảnh hưởng đến tất cả
mọi chứng khoán một cách hệ thống. Hệ số bêta của cổ phiếu dùng để chỉ
tương quan biến động suất sinh lời của cổ phiếu so với thò trường. Bêta
càng cao thì rủi ro hệ thống càng lớn. Rủi ro phi hệ thống là rủi ro chỉ liên
quan đến duy nhất một chứng khoán, có thể nói đó là phần rủi ro còn lại
với chứng khoán đó khi đã loại bỏ rủi ro thò trường .

R
i
= α + βRm + u
i
(*)

Trong đó: α: suất sinh lời phi rủi ro
R
i
: suất sinh lời tính theo ngày của chứng khoán i

×