PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngay từ đầu thập niên của thế kỷ 20, tổ chức UNESCO nêu lên bốn trụ
cột của giáo dục hiện đại đã đặc biệt nhấn mạnh: Thời đại mới đòi hỏi con
người phải có cách nghĩ mới và những kiến thức mới, kỹ năng mới của
chính thời đại mình. Nói cụ thể hơn, con người mới đó phải có khả năng tư
duy độc lập, có phương pháp tư duy hệ thống và cách nhìn toàn thể, có năng
lực sáng tạo và tinh thần đổi mới, có khả năng thích ứng với sự thay đổi
thường xuyên, đa dạng, phức tạp, đầy biến động bất ngờ và bất định, có
năng lực hành động hiệu quả và tinh thần hợp tác trong một môi trường văn
hoá của một thế giới toàn cầu hoá.
Nền giáo dục của kỷ nguyên thông tin là một nền giáo dục cho mọi
người, tạo điều kiện mọi người được học, giúp cho mọi người biết cách học,
biết cách tự học, học tập liên tục, học suốt đời, là một nền giáo dục mở và
liên thông, có khả năng hội nhập với nền giáo dục chung của thế giới. Do
đó, vấn đề “Dạy và học” trong nhà trường được đặt ra như một yêu cầu
khách quan và thiết yếu đối với thầy và trò trong quá trình truyền thụ và tiếp
nhận tri thức nhân loại, tạo ra khả năng phát triển, khám phá ra những tri
thức mới tiếp cận đến chân lý.
Tại Hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam Khoá 8 đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và
đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo
của người học từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện
đại, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất
là sinh viên Đại học, phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường
xuyên và rộng khắp toàn dân, nhất là thanh niên”.
Đối với sinh viên, trong quá trình dạy học, họ vừa là đối tượng (khách
thể) của quá trình dạy học, vừa là chủ thể của quá trình này. Mỗi sinh viên
1
tự hình thành và phát triển nhân cách của mình nhờ hoạt động học tập của
chính họ mà không ai có thể làm thay được, cho dù trong dạy học có sự điều
khiển, hướng dẫn trợ giúp của giảng viên. Sinh viên chỉ thực sự học khi họ
tự chiếm lĩnh kinh nghiệm khoa học và điều chỉnh quá trình lĩnh hội này cho
phù hợp với bản thân mình. Như vậy, có thể khẳng định rằng mọi quá trình
học đều là quá trình tự học. Mục tiêu của quá trình dạy học cũng là mục
tiêu của hoạt động tự học. Tự học không chỉ tạo ra tri thức bền vững cho
sinh viên, mà còn hình thành những phẩm chất cao đẹp cho mỗi người, phù
hợp với xu thế đi lên của thời đại.
Sinh viên mầm non, những người giáo viên tương lai, họ làm công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ thơ từ 0 đến 6 tuổi - lứa tuổi mà sự trưởng
thành về cơ thể, phát triển trí tuệ, tình cảm, xã hội rất nhanh và nhạy cảm,
thời kỳ “người” đang được hình thành và phát triển. Công việc của họ cần
phải khéo léo, chu đáo, tỉ mỉ, có trách nhiệm cao, dịu dàng để đưa trẻ thơ
đến với thực tiễn xã hội, với nền văn hoá dân tộc và nền văn minh thế giới.
Để trở thành giáo viên mầm non giỏi trong tương lai, đòi hỏi sinh viên ngay
từ khi còn học dưới mái trường Đại học cần phải có tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo trong học tập và nghiên cứu để có được tri thức, kỹ năng
vững chắc phục vụ nghề nghiệp sau này của chính họ. Vậy hoạt động tự học
của sinh viên trong thời gian học tập là vấn đề hết sức quan trọng.
Qua tìm hiểu thực tiễn tại trường Đại học Đồng Tháp, chúng tôi thấy rằng
sinh viên mầm non hoạt động tự học của họ còn ở mức độ thấp, việc tổ chức tự
học cho sinh viên chỉ mới dừng lại ở định hướng bằng kế hoạch dạy học, bản
hướng dẫn tự học, nhắc nhỡ, động viên, khuyến khích chứ chưa đi sâu tìm hiểu
hướng dẫn các biện pháp tổ chức hoạt động tự học để đạt hiệu quả tốt. Điều
này chưa phát huy được tính tích cực của sinh viên, chất lượng học tập chưa
cao, rất ít sinh viên giỏi, không có sinh viên xuất sắc, đã ảnh hưởng đến chất
lượng dạy học của nhà trường cũng như công việc của họ sau khi ra trường.
2
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài luận văn cao học
để nghiên cứu là: “Một số biện pháp phát huy hiệu quả hoạt động tự học
của sinh viên mầm non Trường Đại học Đồng Tháp” với mong muốn góp
phần vào chương trình phát triển hoạt động tự học - vấn đề đang được toàn
ngành quan tâm.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích phân tích thực trạng hoạt động tự học
của sinh viên, từ đó đề xuất biện pháp và tác động sư phạm nhằm phát huy
hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo của nhà trường.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động tự học của sinh viên mầm non Trường Đại học Đồng Tháp.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp phát huy hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên
mầm non Trường Đại học Đồng Tháp.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Kết quả đào tạo của Trường ĐH Đồng Tháp phụ thuộc rất nhiều vào
hoạt động tự học của sinh viên. Nếu tìm ra biện pháp phát huy hiệu quả hoạt
động tự học cho họ một cách thích hợp theo hướng tự nghiên cứu, tự rèn
luyện tay nghề trong học tập thì sẽ nâng cao chất lượng học tập, năng lực
nghiệp vụ của sinh viên và chất lượng đào tạo của Nhà trường nói chung.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tập trung giải quyết một số nhiệm vụ
như sau:
5.1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
5.2. Tìm hiểu và phân tích thực trạng hoạt động tự học của sinh viên mầm
non Trường Đại học Đồng Tháp.
3
5.3. Đề ra một số biện pháp phát huy hiệu quả hoạt động tự học cho sinh
viên mầm non Trường Đại học Đồng Tháp.
5.4. Thực nghiệm biện pháp tác động nhằm phát huy hiệu quả hoạt động tự
học cho sinh viên mầm non Trường Đại học Đồng Tháp.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Chỉ nghiên cứu sinh viên năm thứ 2 ngành mầm non hệ Đại học Trường
Đại học Đồng Tháp.
- Chỉ nghiên cứu ở học phần Giáo dục học Nhà trẻ.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích, so sánh, hệ thống hoá, rút ra kết luận từ các tài
liệu, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề
cần nghiên cứu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Điều tra bằng phiếu ankét
Điều tra sinh viên, giảng viên, cán bộ quản lý. Mục đích của phương
pháp này là thông qua phiếu điều tra nhằm thu thập thông tin về hoạt động
tự học của sinh viên.
7.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát hoạt động tự học của sinh viên, quan sát qua giờ dạy, diễn
biến các hoạt động của sinh viên do Khoa, Trường tổ chức để tìm hiểu hoạt
động tự học của sinh viên.
7.2.3. Phương pháp đàm thoại
Thông qua trò chuyện với sinh viên, giảng viên nhằm thu thập thông tin
về vấn đề nghiên cứu.
7.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Gặp cán bộ giỏi về lĩnh vực này để trao đổi làm sáng tỏ các vấn đề lý
luận và thực tiễn.
4
7.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Nghiên cứu sản phẩm của sinh viên (bài thu hoạch, bài thi, vở ghi chép
bài học, vở ghi chép tự học, bài chuẩn bị của sinh viên…) và kết quả học tập
của sinh viên.
7.2.6. Thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm áp dụng một số biện pháp phát huy hiệu quả hoạt động tự
học của sinh viên nhằm đánh giá và kiểm nghiệm lại các biện pháp phát huy
hiệu quả hoạt động tự học cho sinh viên mầm non như đã đề xuất.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Dùng phương pháp thống kê toán học (phần mềm SPSS 16.0) để xử lý
số liệu thu được trong quá trình nghiên cứu.
8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Xác định thực trạng hoạt động tự học của sinh viên mầm non, khoa
Tiểu học - Mầm non, Trường ĐH Đồng Tháp.
- Xác định nguyên nhân ảnh hưởng đến mức độ hoạt động tự học của
sinh viên mầm non, khoa Tiểu học - Mầm non, Trường ĐH Đồng Tháp.
- Bước đầu thử nghiệm và khẳng định biện pháp tác động phát huy
hiệu quả hoạt động tự học cho sinh viên mầm non khoa Tiểu học - Mầm
non, Trường ĐH Đồng Tháp.
5
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở Việt Nam
Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, nền giáo dục Việt
nam đã rất quan tâm đến hoạt động học tập của học sinh. Hoạt động tự học
cũng đã từng bước được quan tâm, ngày càng được cải tiến, xóa dần những
phương pháp truyền thụ một chiều hoặc theo kiểu máy móc, đã làm cho học
sinh luôn gắn với thầy giáo hay còn gọi là lối học vẹt, học tầm chương, một
sự bắt chước rập khuôn, máy móc, thiếu sáng tạo.
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã coi tự học, tự đào tạo là con đường
phát triển suốt đời của mỗi người trong điều kiện kinh tế xã hội hiện tại và
cả mai sau và coi đó là truyền thống quí báu của dân tộc Việt Nam.
Luật Giáo dục ghi rõ: “Phương pháp đào tạo trình độ cao đẳng, trình
độ đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng
lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực
hành, tạo điều kiện cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng
dụng” [26]. Điều này cho thấy, Nhà nước ta đã đề cao chính năng lực sáng
tạo của người học, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục để tạo
nên chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo.
Trong di sản tư tưởng giáo dục của chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã
đề cập rất sâu sắc về hoạt động tự học. Người đã dạy: “Cách học tập: Lấy tự
học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”. Như vậy theo cách nói của
Bác, phương châm học tập là ngoài lấy việc tự học làm chính thì việc học
còn phải qua thảo luận nhóm và có sự hướng dẫn của thầy [30]. Về công tác
huấn luyện và kiểm tra, Người nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn
6
việc tự học”. Người khuyên: “Không phải có thầy thì học, thấy thầy không
đến thì đùa, phải biết tự động học tập”[6].
Từ những năm 60 của thế kỷ 20, những tư tưởng về tự học, tổ chức
hoạt động tự học được nhiều tác giả trình bày trực tiếp hay gián tiếp trong
các công trình nghiên cứu khoa học về tâm lý học, giáo dục học, phương
pháp giảng dạy bộ môn.
Các nhà giáo dục học Việt Nam như: Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ,
Phan Trọng Luận, Nguyễn Kỳ, Nguyễn Mạnh Tường… đã chỉ ra các biện
pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tự học là hình thành ý thức
tự học, tự bồi dưỡng, phương pháp tự học, đảm bảo các điều kiện vật chất
của người học, kiểm tra thường xuyên. Cụ thể:
- GS.TS. Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) cùng các tác giả: Nguyễn Kỳ,
Vũ Văn Tảo, Bùi Tường với tác phẩm: Quy trình dạy tự học [35].
- Phan Trọng Luận: “Tự học, một chìa khóa vàng của giáo dục”. Tạp
chí Giáo dục 2/1995 [19].
- GS.TS. Nguyễn Cảnh Toàn với tác phẩm: “Luận bàn về kinh
nghiệm tự học” [34].
- Trần Bá Hoành: “Vị trí của tự học - tự đào tạo của quá trình dạy
học”. Tạp chí Giáo dục 7/1998 [9].
- Lê Khánh Bằng đã khẳng định: Đối với thời đại ngày nay, thời đại
bùng nổ thông tin, kiến thức tri thức học được trong nhà trường dù có nhiều
bao nhiêu đi nữa cũng không đủ, vì vậy người sinh viên phải tự xây dựng
cho mình một ý chí và năng lực tự học suốt đời, phải xây dựng mục tiêu và
kế hoạch học tập, tự chọn phương thức học tập thích hợp cho mình trong
phạm vi cho phép, tự võ trang cho mình một phương pháp tự học tốt [4].
- GS. Trần Bá Hoành, GS. Thái Duy Tuyên cùng nhiều tác giả thuộc
Viện khoa học - Giáo dục cũng đã nghiên cứu, khai thác và vận dụng vào
thực tế những biện pháp nâng cao hoạt động tự học vào một số trường Đại
học và Cao đẳng đã góp phần nâng cao chất lượng học tập của sinh viên.
7
Đồng thời có nhiều đề tài thạc sỹ, tiến sỹ trong những năm gần đây đã
nghiên cứu vấn đề này như:
- Bùi Thị Toan: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng tự học sinh
viên trường CĐSP Thành phố Hồ Chí Minh ”. Luận văn Thạc sỹ Giáo dục
năm 1999 [33].
- Lê Xuân Minh: “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự học cho
sinh viên tại Học viện Ngân hàng Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh”.
Luận văn Thạc sỹ Giáo dục năm 2002 [21].
- Đoàn Thị Huyền: “Một số biện pháp nâng cao hoạt động tự học cho
sinh viên khoa Giáo dục Mầm non trường CĐSP Yên Bái ”. Luận văn Thạc
sỹ Giáo dục năm 2003 [15].
- Nguyễn Thu Nga: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động tự học cho sinh viên khoa Tiểu học trường Cao đẳng cộng đồng
Hà Tây ”. Luận văn Thạc sỹ Giáo dục học năm 2003 [25].
1.1.2. Ở nước ngoài
Tư tưởng về vấn đề tự học của người học đã được đề cập từ thời cổ
đại, các nhà giáo dục đã thấy rõ tầm quan trọng của tự học.
- Khổng Tử dạy học trò: “Học cho rộng, hỏi cho kỹ, phản biện cho
sáng tỏ, làm cho hết sức. Có điều không học, nhưng đã học điều gì không
hay không thôi. Có điều không hỏi, nhưng đã hỏi điều gì mà không biết
không thôi. Có điều gì không phản biện, nhưng đã phản biện điều gì mà
không minh bạch không thôi. Có điều gì không nghĩ, nhưng đã nghĩ điều
gì mà không nghĩ đến nơi không thôi. Có điều gì không làm, nhưng đã
làm điều gì mà chưa tận lực, không thôi. Người ta dụng công một, ta dụng
công một mà không được thì phải dụng công gấp trăm. Người ta dụng
công mười, ta dụng công mười mà không thành thì phải dụng công gấp
nghìn lần để kỳ được mới thôi. Nếu quả theo được đạo ấy thì tuy ngu rồi
cũng thành sáng”.
8
Vậy theo Khổng Tử thì học tập phải tham khảo nhiều tài liệu, tìm hiểu
bài thật sâu qua điều tra vặn hỏi, học phải có bình luận đánh giá và thực
hành cho thật nhiều với một quyết tâm cao thì trước chưa thạo nhưng rồi
cũng sẽ thành thạo [30].
- Nhà sư phạm vĩ đại Tiệp Khắc J.A.Cômenxky (1592-1670) khẳng
định: “Không có khát vọng học tập, không có khát vọng suy nghĩ thì sẽ
không trở thành tài năng”.
- Nhà Giáo dục J.J. Roussau (1712-1778), Pestalozi (1746-1827),
Disterever (1790-1886), Usinxki (1824-1890) đã quan tâm đến sự phát triển
trí tuệ con người, tính độc lập sáng tạo của học sinh, phát huy yếu tố tiềm ẩn
bên trong con người.
- NA Rubakin, Smit Man Hebơc nói rằng: “Quan tâm đến việc giáo
dục động cơ học tập đúng đắn là điều kiện để học sinh tích cực chủ động
trong hoạt động tự học” [24].
- A.P. Primaco, GX. Encônhin: Kỹ năng tự học là điều kiện cần thiết
đảm bảo cho người học đạt kết quả cao [1].
- A.M. Machiuskin, A.V. Detrovski, X.P. Bararov đề ra biện pháp tự
học là thông qua việc thiết kế các bài tập nhận thức, bài tập nêu vấn đề.
- Montaigne: “Tốt hơn là ông thầy nên để cho học trò tự lên phía
trước mà nhận xét bước đi của họ, đồng thời giảm bớt tốc độ của thầy cho
phù hợp với sức của trò” .
- SD. Shama và Shakti.R. Ahmed (Ấn Độ) với tác phẩm: “Phương
pháp dạy học ở Đại học”. Tác giả cho rằng, người học phải là người tham
gia tích cực vào quá trình “nhận biết - học - dạy” [29].
- Các nhà giáo dục Mác xít TA. Ilina, R. Retzke, GX. Catxchue đã
khẳng định vai trò to lớn của hoạt động tự học và quan tâm đến nhiều khía
cạnh tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả của người học.
9
Nói tóm lại, các tác giả trong và ngoài nước đã có cách nhìn toàn
diện, về hoạt động tự học, đều xem hoạt động tự học là một trong những
hình thức tổ chức dạy học mà hoạt động của người học là hoạt động tự tìm
tòi và khám phá. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả hoạt
động tự học của sinh viên trong điều kiện hiện nay, cần tiếp thu và vận dụng
những kinh nghiệm, những tư tưởng quý báu đó.
1.2. Lý luận chung về hoạt động tự học
1.2.1. Một số khái niệm về hoạt động tự học
1.2.1.1. Khái niệm về hoạt động
Con người sống là con người hoạt động. Hoạt động là phương thức
tồn tại của con người. Theo tâm lý học mácxít, cuộc sống con người là một
dòng hoạt động, con người là chủ thể của các hoạt động thay thế nhau. Hoạt
động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa con người với thế
giới tự nhiên, xã hội. Đó là quá trình chuyển hoá năng lực lao động và các
phẩm chất tâm lý khác của bản thân thành sự vật, thành thực tế và quá trình
ngược lại là quá trình tách những thuộc tính của sự vật, của thực tế quay về
với chủ thể, biến thành vốn liếng tinh thần của chủ thể.
Chúng ta có thể hiểu hoạt động là quá trình tác động qua lại giữa con
người với thế giới xung quanh để tạo ra sản phẩm về phía thế giới và sản
phẩm về phía con người.
Trong quá trình tác động qua lại đó, có hai chiều tác động diễn ra
đồng thời, thống nhất và bổ sung cho nhau:
Chiều thứ nhất là quá trình tác động của con người với tư cách là chủ
thể vào thế giới (thế giới đồ vật). Quá trình này tạo ra sản phẩm mà trong đó
chứa đựng các đặc điểm tâm lý của người tạo ra nó. Hay nói khác đi, con
người đã chuyển những đặc điểm tâm lý của mình vào trong sản phẩm. Sản
phẩm là nơi tâm lý của con người được bộc lộ. Quá trình này được gọi là
quá trình xuất tâm hay quá trình đối tượng hoá.
10
Chiều thứ hai là quá trình con người chuyển những cái chứa đựng
trong thế giới vào bản thân mình. Đó là quá trình con người có thêm kinh
nghiệm về thế giới, những thuộc tính, những qui luật của thế giới… được
con người lĩnh hội, nhập vào vốn hiểu biết của mình. Đồng thời con người
cũng có thêm kinh nghiệm tác động vào thế giới, rèn luyện cho mình những
phẩm chất cần thiết để tác động có hiệu quả vào thế giới. Quá trình này là
quá trình hình thành tâm lý ở chủ thể. Còn gọi là quá trình nhập tâm hay quá
trình chủ thể hoá.
Như vậy, trong hoạt động, con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế
giới, vừa tạo ra tâm lý của chính mình. Có thể nói tâm lý của con người chỉ
có thể bộc lộ, hình thành trong hoạt động và thông qua hoạt động.
1.2.1.2. Khái niệm về tự học
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa: Tự học là học một cách
tự động: “Phải biết tự động học tập”. Tự động học tập tức là học tập một
cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc nhỡ, không chờ ai giao
nhiệm vụ. Tự học chính là tự quản lý việc học tập, tự mình vạch kế hoạch
học tập cho chính mình, rồi tự mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một
cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá
việc học của mình.
Theo Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, sử dụng
các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ
bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ,
tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (trung thực, khách quan, có chí
tiến thủ, không ngại khó ngại khổ, kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý
muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi) để chiếm lĩnh một lĩnh vực
hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sỡ hữu của mình”.
Tự học là sự chiếm lĩnh kinh nghiệm của nhân loại, dưới ảnh hưởng của
những tác động dạy.
11
Tự học là yếu tố trội và có những đặc điểm riêng:
- Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học.
- Tự học phản ánh tính tự giác và sự nỗ lực học tập của người học.
Đây cũng là biểu hiện của hứng thú học tập.
- Tự học phản ánh khả năng tổ chức và tự điều khiển của người học,
nhằm đạt được kết quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định, với nội dung
học tập nhất định.
Tự học là học khi không có thầy và cả khi không có thầy, người học biết
tự xác định mục tiêu, tự lập kế hoạch, tự đánh giá việc học tập của bản thân. Tự
học là học mà không cần có sự giám sát bên ngoài, tự động là “tự động học
tập” nó thể hiện tính tự giác, tích cực, tự lực rất cao trong quá trình lĩnh hội.
Tự học là quá trình tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh những tri
thức, kỹ năng kỹ xảo của chính bản thân người học.
Tự học là một hình thức tổ chức dạy học ở đại học. Đây là dạng tổ
chức nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức, kỹ năng kỹ
xảo do bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp theo hoặc
không theo chương trình và sách giáo khoa qui định. Khi người học tích cực
tự giác phát huy hết những phẩm chất và năng lực của mình vào quá trình
chiếm lĩnh tri thức thì khi đó họ tiến hành tự học.
Căn cứ vào những đặc điểm trên, ta có thể phân loại tự học theo các
kiểu sau đây:
- Tự học kiểu mò mẫm: Vốn tri thức và kỹ năng có được từ kiểu
học này là vốn kinh nghiệm thu nhận được từ trong cuộc sống lam lũ của
những người lao động.
- Kiểu tự học không cần thầy hướng dẫn: Là kiểu tự học của người
có trình độ học vấn nhất định. Kiểu này cho phép người học phát huy năng
lực, sở trường của mình và có thể đạt được những trình độ học vấn rất cao.
12
- Kiểu tự học có sự hướng dẫn từ xa của thầy: Kiểu tự học này
được tiến hành một cách có tổ chức, có kế hoạch với hệ thống tài liệu hướng
dẫn tự học và sách giáo khoa soạn riêng cho người tự học.
- Kiểu tự học trong hoạt động dạy học: Đây là kiểu tự học của tất
cả những ai đang theo học trong các trường học. Kiểu tự học này được tiến
hành một cách linh hoạt phù hợp với từng bậc học, từng loại hình trường
học, nhưng không làm mất đi đặc điểm chung là có sự hướng dẫn trực tiếp
của thầy giáo.
1.2.1.3. Khái niệm về hoạt động tự học
Hoạt động tự học chính là hoạt động tự tìm tòi, khám phá để chiếm lĩnh
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo theo chương trình nội dung học tập. Đồng thời qua hoạt
động tự học sẽ tạo ra phương pháp tự học và năng lực tự học cho mỗi người.
Trong quá trình dạy học ở đại học, cao đẳng, sinh viên có thể tiến
hành hoạt động tự học dưới nhiều hình thức khác nhau trong những điều
kiện khác nhau:
Một là: Hoạt động tự học của sinh viên diễn ra dưới sự điều khiển
trực tiếp của giảng viên và những phương tiện kỹ thuật ở trên lớp. Trong
hình thức này sinh viên phải tự phát huy những phẩm chất và những năng
lực của mình như khả năng chú ý, óc phân tích, năng lực khái quát hoá, tổng
hợp hoá… để tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà giáo viên định
hướng cho.
Hai là: Hoạt động tự học của sinh viên cũng có thể diễn ra nhằm đáp
ứng nhu cầu hiểu biết riêng, bổ sung và mở rộng tri thức ngoài chương trình
đào tạo và cũng không cần có sự điều khiển trực tiếp của giáo viên.
Ba là: Hoạt động tự học của sinh viên cũng có thể diễn ra khi không
có sự điều khiển trực tiếp của giáo viên. Ở đây sinh viên phải tự sắp xếp quỹ
thời gian và điều kiện vật chất để tự ôn tập, tự củng cố, tự đào sâu những tri
thức hoặc hình thành kỹ năng, kỹ xảo nào đó theo yêu cầu của thầy giáo
hoặc theo chương trình đào tạo của nhà trường.
13
Hoạt động tự học của sinh viên có tầm quan trọng đặc biệt trực tiếp
quyết định chất lượng, hiệu quả học tập, góp phần quyết định vào hiệu quả
đào tạo của nhà trường sư phạm. Mọi tác động về nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học cũng thông qua mọi sự nỗ lực hoạt động của mọi
cá nhân, của mọi sinh viên mới có hiệu quả.
Trong học tập, năng lực tự học có tầm quan trọng lớn lao đối với bản
thân mỗi người học. Có được năng lực này người học tự mình có thể chiếm
lĩnh được kiến thức mà không cần có sự hỗ trợ nào từ bên ngoài. Một trong
những yếu tố cơ bản tạo nên năng lực tự học trong hoạt động tự học chính là
kỹ năng tự học. Kỹ năng tự học được hình thành và bồi dưỡng qua nhiều hình
thức, đồng thời những kết quả và chất lượng của việc tự học có được tốt hay
không còn phải tính đến việc rèn luyện kỹ năng tự học cho mỗi người.
Như vậy, hoạt động tự học chính là hoạt động tự tìm tòi, khám phá để
chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo theo chương trình nội dung học tập.
Đồng thời qua hoạt động tự học sẽ tạo ra phương pháp tự học và năng lực tự
học cho mỗi người.
1.2.1.4. Khái niệm về kỹ năng tự học
Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả một công việc nào đó bằng
cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động với
những điều kiện cho phép. Kỹ năng biểu hiện trình độ các thao tác tư duy,
năng lực hành động và mặt kỹ thuật của hành động.
Đối với người học, hoạt động tự học bao gồm nhiều hành động kế tiếp
nhau như quan sát, ghi chép, đọc, hệ thống hoá, giải bài tập… Để có thể tự
học, người học phải nắm được những tri thức về hành động, phải vận dụng
những tri thức đó để tiến hành các hành động nhằm thu được những kết quả
hành động phù hợp với mục đích. Nói một cách khác, người học phải có
những kỹ năng tự học phù hợp với môn học.
Kỹ năng tự học là khả năng thực hiện có kết quả một hay một nhóm
hành động tự học bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã
có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép.
14
Kỹ năng tự học có thể chia ra làm bốn nhóm sau đây:
- Nhóm các kỹ năng kế hoạch hoá hoạt động tự học.
- Nhóm các kỹ năng nghe và ghi bài trên lớp.
- Nhóm các kỹ năng ôn tập.
- Nhóm các kỹ năng đọc sách.
1.2.2. Vai trò của hoạt động tự học
Hoạt động tự học là hoạt động chiếm một vị trí quan trọng trong quá
trình dạy học cũng như đào tạo của nhà trường sư phạm.
Tự học, tự đào tạo là nhân tố quyết định đến chất lượng và hiệu quả
học tập của người học.
Quá trình dạy học bao gồm hai mặt quan hệ hữu cơ đó là: hoạt động
dạy của người dạy và hoạt động học của người học. Người dạy đóng vai trò
tổ chức, lãnh đạo điều khiển và định hướng hoạt động học cho người học.
Người học vừa là đối tượng tác động của dạy học vừa là chủ thể của quá
trình đó. Trong khi các dạng hoạt động khác của con người hướng vào việc
làm thay đổi đối tượng, khách thể của hoạt động thì hoạt động học tập rèn
luyện làm cho chính chủ thể hoạt động thay đổi. Bằng hoạt động học tập
mỗi sinh viên tự hình thành và phát triển nhân cách của mình, không ai có
thể làm thay mặc dù trong dạy học và giáo dục luôn có sự định hướng của
giáo viên. Tác động của người dạy - giáo viên (ngoại lực) chỉ có thể được
phát huy thông qua hoạt động tích cực, tự lực, chủ động sáng tạo của người
học - tự học (nội lực). Như vậy trong quá trình dạy học và đào tạo, tự học có
vai trò rất quan trọng, được biểu hiện ở chỗ:
- Tự học là hoạt động giúp sinh viên lĩnh hội vững chắc hệ thống những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
- Tự học là hoạt động giúp sinh viên rèn luyện để phát triển năng lực
nhận thức, hình thành và phát triển các phẩm chất trí tuệ.
15
- Tự học không chỉ giúp cho sinh viên tích luỹ được vốn tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, mà trong quá trình độc lập giải quyết các nhiệm vụ học tập,
các thao tác trí tuệ của sinh viên cũng trở nên thành thạo, vững chắc. Sinh
viên không ngừng phát huy tính tích cực nhận thức, tự mình rèn luyện các
thao tác trí tuệ, dần dần hình thành các phẩm chất hoạt động trí tuệ cần thiết
như: tính định hướng, tính bề rộng, tính chiều sâu, tính linh hoạt, tính mềm
dẻo, tính phê phán, tính khái quát… Không những vậy, tự học còn giúp cho
sinh viên hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, tính kiên
trì, óc phê phán, bồi dưỡng hứng thú khoa học, lòng say mê nghiên cứu khoa
học và những phẩm chất nhân cách khác.
Tự học là con đường tự khẳng định, là con đường sống, con đường
thành đạt của những ai muốn vươn lên đỉnh cao trí tuệ của thời đại thông tin
siêu tốc như hiện nay.
Tự học, tự rèn luyện là con đường quan trọng nhất để sinh viên sư phạm
ngày nay - giáo viên sau này, không ngừng nâng cao trình độ của mình.
Như vậy, trong quá trình dạy học ở đại học, tự học chiếm một vị trí
quan trọng và có vai trò to lớn. Nếu nhà trường và thầy cô giáo bồi dưỡng
cho sinh viên ý chí và năng lực tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy tiềm năng to
lớn vốn có của họ, tạo nên động lực nội sinh vốn có của quá trình học tập,
vượt lên những kích thích bên ngoài như biện pháp thi đua, khen thưởng,
trách phạt. Khả năng tự học chính là “nội lực”, là nhân tố giữ vai trò quyết
định chất lượng đào tạo. Thầy cô giáo là lực lượng có vai trò quan trọng
trong việc định hướng, động viên, cổ vũ cho sinh viên tự học đúng hướng.
1.2.3. Nội lực và ngoại lực của người tự học
1.2.3.1. Nội lực của người tự học
a. Người học cần có một nền tảng học vấn nhất định
Người học đang theo học một khoá học tức là phải đạt một trình độ
cao hơn mức hiện có của mình trong một thời gian nhất định. Muốn xây nhà
16
phải có “nền móng vững”, “có bột mới gột nên hồ”, điều này nhất định đòi
hỏi người học phải có một nền tảng học vấn nhất định. Để có được một trình
độ cao hơn, người học cần phải tìm lại các sách vở, tài liệu để ôn lại và khi
cần có thể tra cứu những kiến thức cũ quan trọng mà người học đã quên.
b. Người học cần có mục đích - động lực - nhu cầu học thực sự để từ đó
có ý chí, nghị lực và lòng kiên trì theo đuổi việc tự học
Ngay từ đầu, người học cần xác định rõ mục đích, động lực và nhu
cầu thực sự việc tự học của mình, từ đó củng cố ý chí, nghị lực, lòng kiên trì
và niềm tin theo đuổi việc tự học đến cùng. Nhu cầu học tập và mục đích
học càng rõ ràng chính đáng thì động lực càng mạnh, giúp người học tăng
thêm nghị lực và ý chí kiên trì cũng như lòng kiên trì theo đuổi việc học
được thành công.
Các mục đích, nhu cầu đó có thể là:
- Để làm tốt hơn công việc của mình; muốn khẳng định năng lực của mình.
- Do muốn đạt một trình độ cao hơn hiện nay để có thể được thăng tiến
hoặc chờ đợi một cơ may xin việc phù hợp hoặc chuyển đổi nghề nghiệp.
- Muốn làm gương về nghị lực tinh thần và kết quả học tập…
- Muốn hoà nhập và nắm bắt những kiến thức và công nghệ mới đang
diễn ra hàng ngày để không bị tụt hậu.
- Xem việc học và khám phá tri thức là niềm vui của cuộc sống.
Có rất nhiều mục đích, nhu cầu và động lực thôi thúc người học, có
được động cơ và mục đích càng rõ ràng, trong sáng, người học có nhiều
niềm vui và say mê trong việc học. Tự học muốn có kết quả thì càng cần tự
giác học tập, hơn thế nữa, tiến tới niềm vui và say mê trong việc học.
Người xưa đã nói:
“Học mà chưa thấy vui thì chưa gọi là học” - Tư Mã Quang.
“Biết mà học, không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say
mê mà học” - Sách Luận ngữ.
17
c. Người học cần có phương pháp tự học đúng đắn và khoa học
Để đạt được mục đích học tập, không thể “tốc chiến tốc thắng” mà
được, theo qui luật của nhận thức, sự tích luỹ kiến thức phải đi theo con
đường “mưa dầm, thấm sâu” và phải có phương pháp đúng đắn, khoa học.
Kiến thức mà ta muốn chiếm lĩnh không phải là thứ “mỳ ăn liền”, việc học
không thể đốt cháy giai đoạn được. Kiến thức thì mênh mông vô hạn, sau
một chặng đường học tập hay tự học có thể nhiều công thức hay định lý sẽ
bị quên đi, cái còn lại ở trong ta lại là phương pháp, phương pháp tư duy,
phương pháp ứng xử, phương pháp giải quyết vấn đề… mà cái đó mới là
quan trọng cho cuộc đời và nghề nghiệp của mỗi con người.
“Điều chủ yếu không phải là nhồi nhét một mớ kiến thức hỗn độn…
mà là phương pháp suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp học
tập, phương pháp giải quyết vấn đề” - Phạm Văn Đồng.
Vì vậy, đối với người học cần phải có phương pháp học đúng đắn,
khoa học.
Phương pháp đúng có nghĩa là người học cần:
- Có kế hoạch học và thời gian biểu tự học khoa học và phù hợp với điều
kiện của mình. Người học biết vạch ra một lộ trình dài hạn (cho cả khoá học
hay một giai đoạn học) và lộ trình ngắn hạn cụ thể (cho việc học một, hay hai
ba bộ môn, hay một số chương mục ở một giáo trình nào đó). Việc có một kế
hoạch đúng và phù hợp giúp người học có một cái đích rõ ràng để phấn đấu
và tạo một nếp làm việc có khoa học: có mục tiêu rõ ràng, có hạn định thời
gian tức là có thể “đo đếm” kết quả mà người học đã gặt hái được.
- Biết cách tự học và tự nghiên cứu học liệu giáo trình (biết cách đọc để
học, biết phát hiện, nghe - nhìn, ghi chép, tóm tắt, tổng kết, tìm được bản
chất cốt lõi của kiến thức để ghi nhớ, tái hiện…).
- Biết cách chất vấn, tìm thắc mắc để hỏi (tự hỏi mình, hỏi bạn bè, trợ
giảng, thầy giáo, hay bất cứ ai có khả năng). Người xưa đã nói “Học thầy
không tày học bạn”; Khổng Tử cũng dạy rằng “Mẫn nhi hiếu học, bất xỉ hạ
18
vấn” có nghĩa rằng: “Người sáng suốt mà chăm học thì không xem việc hỏi
kẻ kém hơn mình là xấu hổ”.
d. Người học phải biết vận dụng
Vận dụng điều mới học được để trả lời các câu hỏi, để làm bài tập…
và đặc biệt là vận dụng vào nghiệp vụ, vào thực tiễn công việc hàng ngày
của mình. Người học, đặc biệt là tự học phải thường xuyên vận dụng, là vì:
- Có vận dụng thì mới đạt được mục đích học của mình: học để làm gì?
Và mới đo đếm được kết quả mục tiêu của việc học mà mình đang theo đuổi.
- Có vận dụng thì người học mới nhớ lâu được, một kiến thức mà
không vận dụng hoặc vận dụng ít thì sẽ rất chóng quên.
- Có vận dụng người học mới thấy kiến thức đó là cần thiết, cần thiết
cho việc trả lời các câu hỏi, làm bài tập, cần thiết để vận dụng vào các môn học
khác hay vào thực tế công việc của mình ở một góc độ nào đó; hoặc nhờ kiến
thức đó mà người học có thể lý giải được một hiện tượng nào đó trong tự nhiên
hoặc xã hội, lúc ấy người học sẽ thấy sự bổ ích và hứng thú với kiến thức đã
học được, từ đó người học càng hăng say khám phá những kiến thức mới.
Người xưa đã nói:
- “Học phải đi đôi với hành”.
- “Học rộng điều gì, không bằng biết phần cốt yếu của điều ấy; biết
phần cốt yếu của điều ấy, không bằng thực hành điều ấy” - Chu Hy.
- “Biết không phải là khó; Làm mới khó”.
- “Vi học chi tự: bác học chi, thẩm vấn chi, thận tư chi, minh biện chi,
dốc hành chi” có nghĩa rằng: “Việc học phải có thứ tự: phải học rộng, phải
hỏi kỹ, phải nghĩ chín, phải suy xét, phải có thực hành” - Sách “Tính lý”.
đ. Người học phải biết tận dụng hết những thuận lợi trong điều kiện,
hoàn cảnh của mình và khắc phục được những khó khăn trong quá trình tự học
Mỗi người đều có những hoàn cảnh riêng, có những thuận lợi và khó khăn
riêng; một sự vật thường có hai mặt của nó đấy là cách nhìn biện chứng.
19
Ví dụ: Người lớn tuổi bận trăm công nghìn việc, đầu óc bị phân tán,
hay quên… thì làm sao tự học tốt như các em học sinh được? Người lớn
tuổi, tuy có những nhược điểm trên nhưng họ có những lợi thế khác: đó là
bề dày kinh nghiệm sống và kinh nghiệm nghề nghiệp, người trưởng thành
do đã từng trải nên thường có ý chí và nghị lực cao hơn, tính độc lập cao
hơn và có mục đích rõ ràng hơn các em tuổi vị thành niên. Những người lớn
tuổi khi học bao giờ cũng muốn vận dụng và có điều kiện để vận dụng ngay
vào công việc và nghiệp vụ của mình.
Như vậy, người học phải biết tận dụng hết các điều kiện thuận lợi trong
hoàn cảnh của mình và biết khắc phục các khó khăn trong quá trình tự học.
1.2.3.2. Ngoại lực của người tự học
Ngoài yếu tố nội lực, người tự học muốn thành công tất yếu phải dựa
vào yếu tố ngoại lực, nếu chỉ nói có nội lực không là duy ý chí. Ngoại lực
tác động vào việc tự học là toàn bộ các yếu tố của cơ chế, môi trường, điều
kiện, phương tiện… có liên quan tới việc học của người tự học. Người học
cần biết các yếu tố ấy để khai thác và tận dụng triệt để những mặt thuận lợi
của ngoại lực và khắc phục những khó khăn trong điều kiện và hoàn cảnh
của mình.
Một số yếu tố ngoại lực quan trọng nhất:
- Người học đang học trong và theo một mô hình đào tạo nào? (chính
qui, tại chức, chuyên tu, từ xa…)
- Người học đang học trong một cơ chế nào?
Để đất nước hội nhập với thế giới, bước vào thời kỳ công nghiệp hoá
và hiện đại hoá thuận lợi thì phương châm “giáo dục cho mọi người”, “đào
tạo liên tục”, “học suốt đời” phải trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động
giáo dục và đào tạo.
Các văn kiện của Đảng đã chỉ rõ: “Đa dạng hoá các loại hình giáo dục
- đào tạo, tạo cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù hợp với
20
nhu cầu và hoàn cảnh của mình…” Nghị quyết Hội nghị TW II. Đảng
CSVN khoá VIII.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã từng bước thể chế hoá các nghị quyết của Đảng
và Luật Giáo dục thành các văn bản pháp quy (các thông tư, Quy chế…).
Tất cả các chủ trương chính sách trên, người học cần phải biết, vì đó
là hành lang pháp lý rất căn bản tạo cho người học một niềm tin, một chỗ
dựa, một cơ chế, là nguồn ngoại lực động viên cổ vũ việc “học suốt đời ”cho
một xã hội học tập thực sự.
- Người học quan niệm về sự quản lý của cơ quan đào tạo như thế nào?
Các cơ sở đào tạo phải thực hiện đúng các thông tư của Bộ GD&ĐT,
cụ thể hoá thành các qui định của nhà trường để quản lý các hệ đào tạo.
Người học nên quan niệm việc quản lý của nhà trường là một ngoại
lực rất cần thiết cho việc tự học của mình; việc quản lý càng đầy đủ, chặt
chẽ, càng đúng qui chế bao nhiêu thì càng thúc đẩy người học học nghiêm
túc, chất lượng và kết quả học tập càng thực chất bấy nhiêu. Chính vì vậy,
người học cần tự giác chấp hành sự quản lý ấy, xem đó là ngoại lực hỗ trợ
tích cực giúp mình trong cả một chặng đường học tập.
- Người học tự học bằng những học liệu và phương tiện gì?
Nội dung kiến thức và thông tin được truyền tải tới người học thông
qua các loại học liệu, bao gồm:
+ Học liệu dạng in ấn (giáo trình, tài liệu tham khảo).
+ Học liệu dạng nghe - nhìn: băng hình, băng tiếng, truyền hình,
truyền thanh, đĩa VCD, DVD…
+ Học liệu sử dụng công nghệ thông tin: sách giáo khoa điện tử,
thư viện điện tử, các trang Wed, nối mạng internet…
Người học cần coi các dạng học liệu là một nguồn ngoại lực quan
trọng bậc nhất trong quá trình tự học, nó vừa là công cụ vừa là phương tiện
để người học chiếm lĩnh tri thức. Người học cần tuỳ theo hoàn cảnh của
21
mình mà tìm tòi, chọn lọc và khai thác triệt để các dạng học liệu nhằm hỗ
trợ cho việc tự học của mình đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.4. Đặc điểm tự học của sinh viên
Tự học là quá trình tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri thức, hình
thành kỹ năng, kỹ xảo của chính bản thân người học.
Việc tự học của sinh viên đòi hỏi tính độc lập, tự chủ rất cao, phải biết
vận dụng các quá trình tâm lý vào điều khiển một cách có ý thức, có lý trí
công việc học tập của mình. Điều đó, sinh viên được trưởng thành về mặt xã
hội, về tư tưởng tình cảm của nhân cách.
Quá trình dạy học ở đại học là một quá trình có hệ thống, hoạt động dạy
và hoạt động học có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hoạt động là một nhân
tố trung tâm mang tính đa dạng, mà tự học là một bộ phận không thể tách rời,
đảm bảo cho sinh viên hoàn thành nhiệm vụ học tập nghề nghiệp.
Hoạt động tự học của sinh viên có phạm vi rất rộng, có thể diễn ra
dưới sự tổ chức, điều khiển trực tiếp của giảng viên, hoặc tự học hoàn toàn
độc lập, không có sự chỉ đạo của giảng viên. Phạm vi đề tài này chúng tôi
chỉ xem xét hoạt động tự học của sinh viên ngoài giờ lên lớp, trong quá trình
dạy học và luôn đặt dưới sự chỉ đạo của giảng viên.
Trong quá trình dạy học, sinh viên không chỉ là đối tượng tác động
của giảng viên mà còn là chủ thể tích cực sáng tạo trong quá trình dạy học,
thể hiện quá trình nhận thức độc đáo có tính chất nghiên cứu của sinh viên.
Họ không chấp nhận chân lý một cách thụ động, áp đặt mà họ là chủ thể tự
nguyện, tích cực và có ý thức tự giải quyết các mâu thuẫn bên trong, giữa
một bên là nhu cầu hiểu biết ngày càng cao, khối lượng nhiệm vụ học tập
ngày càng lớn với một bên là điều kiện hiện có về năng lực học tập, thời
gian tự học còn hạn chế. Mâu thuẫn liên tục nảy sinh, liên tục được giải
quyết bởi chính bản thân sự tự lực của sinh viên, làm cho tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo và toàn bộ nhân cách của họ vận động và phát triển từ thấp đến cao.
22
Nhờ vậy, sinh viên thích ứng nhanh với thực tiễn đời sống xã hội, với nghề
nghiệp, phát triển mọi nhu cầu, hứng thú, đồng thời phát triển hệ phương
pháp tự học, tự nghiên cứu của mình.
Mặt khác, trong quá trình học tập, sinh viên đã bắt đầu thực sự tham
gia hoạt động tìm kiếm chân lý mới. Đó là hoạt động tập dượt nghiên cứu
khoa học được tiến hành ở các mức độ từ thấp đến cao tùy theo yêu cầu của
chương trình. Hoạt động nghiên cứu khoa học này giúp sinh viên từng bước
vận dụng những tri thức khoa học, phương pháp luận khoa học, những phẩm
chất, tác phong của nhà nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết một cách
khoa học những vấn đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp đặt ra.
Quá trình học tập của sinh viên đại học, cao đẳng được đặc trưng bởi
tính chất nghề nghiệp ở trình độ cao, cả về mặt kiến thức nghề nghiệp và hệ
thống kỹ năng nghề. Học ở đại học, cao đẳng còn là “học về phương pháp”,
phương pháp đặc thù cho ngành nghề xác định và phương pháp tư duy sáng
tạo. Người học tự lực học tập, tự giác chuẩn bị về nghề nghiệp tương lai của
mình. Muốn vậy, sinh viên luôn tự thúc đẩy mình một cách mạnh mẽ bằng hệ
thống động cơ học tập và tự học, kết hợp với mọi mặt trong suốt quá trình đào
tạo, hình thành và phát triển năng lực tự học, hoàn thành tốt những nhiệm vụ
nhận thức mà giảng viên đề ra, thống nhất sự chỉ đạo của giảng viên.
1.2.5. Các yếu tố dẫn đến hiệu quả của hoạt động tự học
1.2.5.1. Động cơ
Động cơ hoạt động là yếu tố thúc đẩy trực tiếp của hành động, tạo nên
khát vọng, hứng thú, sự chú ý liên tục, giúp chủ thể vượt qua mọi khó khăn,
trở ngại đạt tới mục đích đã định.
Động cơ nhận thức được hình thành và phát triển dựa trên cơ sở các
nhu cầu, hứng thú nhận thức như: ham hiểu biết, mong muốn hoàn thành
nhiệm vụ, tò mò khoa học, khát vọng tri thức, không bằng lòng với kiến
thức đã có.
23
Động cơ tự học là lực đẩy bên trong, là nguyên nhân trực tiếp của
hoạt động tự học, nó biểu hiện ở sự khát khao, ham muốn tự tìm kiếm những
tri thức, kỹ năng kỹ xảo, vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục đích học
tập đã định.
Động cơ tự học của người học quyết định kết quả tự học trong quá
trình tự học: hứng thú nhận thức và nhu cầu phát triển nghề nghiệp tạo nên
sự mong muốn chiếm lĩnh những tri thức, kỹ năng kỹ xảo và rèn luyện nghề
nghiệp trong quá trình đào tạo.
1.2.5.2. Kỹ năng tự học
Kỹ năng tự học là yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng và hiệu quả của
hoạt động tự học vì nó giúp cho người học hoàn thành nhiệm vụ học tập và
thoả mãn nhu cầu nhận thức. Ngược lại, nhiệm vụ học tập và các nhu cầu
nhận thức đòi hỏi người học phải có cách thức mới trong việc thu nhận tri
thức. Vậy kỹ năng tự học là điều kiện cần và luôn phải hoàn thiện để giúp
người học biến động cơ thành kết quả cụ thể.
1.2.5.3. Cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất như tài liệu, các phương tiện trợ giúp (máy vi tính,
video, dụng cụ trực quan…), môi trường học tập, trạng thái sức khoẻ… là
yếu tố trợ giúp người học chiếm lĩnh tri thức một cách hiệu quả.
1.2.6. Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên
Hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên được chúng tôi đánh giá ở 2
tiêu chí:
- Kết quả nắm một số biện pháp tự học.
- Kết quả nắm tri thức bộ môn Giáo dục học Nhà trẻ.
Mỗi tiêu chí dựa trên 2 tiêu chuẩn:
+ Tri thức: Sinh viên thu nhận đầy đủ, chính xác, khái quát, độ sâu
những tri thức cơ bản của tài liệu học tập.
24
+ Kỹ năng: Biết vận dụng tri thức đã học một cách linh hoạt, mềm dẻo
vào việc học, lập kế hoạch tự học, đọc sách, nghiên cứu tài liệu, ghi chép, phân
tích, tổng hợp, khái quát, giải quyết các yêu cầu nhiệm vụ môn học.
Để đánh giá kết quả tri thức và năng lực của sinh viên, chúng tôi đã
sử dụng thang đánh giá của B.S. Bloom về 6 mức độ: biết, hiểu, vận dụng,
phân tích, tổng hợp, và đánh giá. Nghĩa là đánh giá kết quả hoạt động tự học
của sinh viên dựa trên năng lực ghi nhớ chính xác, hiểu nội dung đã học, có
thể vận dụng một cách sáng tạo. Ngoài ra, sinh viên cần phải có khả năng
phân tích, tổng hợp, đánh giá.
Thang đo được chia dưới dạng điểm từ 1 đến 10 và được phân loại theo
các tiêu chí như sau:
Điểm số Xếp loại Các tiêu chí
Điểm 9 - 10 Xuất sắc Hiểu sâu kiến thức, lập luận logic, chặt
chẽ và mang tính sáng tạo.
Điểm 8 Giỏi Tổng hợp và khái quát đưa ra những ý
kiến đánh giá nội dung bài học.
Điểm 7 Khá
Vận dụng kiến thức giải quyết các tình
huống và các vấn đề trong thực tiễn một
cách hợp lý và sáng tạo.
Điểm 6 Trung bình khá
Vận dụng kiến thức giải quyết các tình
huống và các vấn đề trong thực tiễn hợp lý.
Điểm 5 Trung bình
Hiểu được nội dung cơ bản của bài học,
diễn đạt được nội dung bằng ngôn ngữ
của mình.
Điểm dưới 5
- Điểm 3 - 4
- Điểm 1- 2
Yếu - Nhận biết chưa đầy đủ bài học, chưa
phân biệt được nội dung bài học.
- Hoàn toàn không hiểu bài học hoặc nhận
thức sai về nội dung bài học.
25