MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào đầu thế kỷ XXI, con người lại một lần nữa được coi là vị trí trung
tâm, nguồn lực vô tận, nhân tố quyết định mục tiêu của sự phát triển xã hội.
Đảng và Nhà nước ta đã thực sự quan tâm đến nguồn lực con người, xem
nguồn lực con người là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất
nước. Từ quan điểm đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2 của
BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đã khẳng định:
" Thực sự coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh
tế-xã hội" [13;29].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam tiếp
tục nhấn mạnh: "Phát triển GD-ĐT là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người-yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững" [14;108].
Trong GD-ĐT, CBQL nhà trường là lực lượng rất quan trọng trong
các trường học. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, đội ngũ
CBQL nhà trường cần phải đáp ứng được những yêu cầu cao về phẩm chất
và năng lực quản lý nhà trường. Chính vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu
một cách nghiêm túc để xây dựng được một hệ thống lý luận, tập hợp được
các kinh nghiệm về xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL nhằm cung cấp
cơ sở khoa học cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL ngày càng
tốt hơn.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, tiểu học là bậc học có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, là bậc học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành
phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền móng vững chắc cho
giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Đội ngũ
CBQL trường tiểu học với trọng trách là những người "Quy định chất
lượng giáo dục", CBQL trường tiểu học phải hội tụ được một cách đầy đủ
Trang
1
những yêu cầu về phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý để thực hiện mục
tiêu giáo dục tiểu học.
Xuất phát từ thực tiễn quản lý giáo dục bậc tiểu học ở tỉnh Quảng
Bình, chúng tôi thấy thực trạng đội ngũ CBQL trường tiểu học tỉnh Quảng
Bình trong những năm qua tuy đã đáp ứng được yêu cầu về công tác quản
lý, nhưng trước yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới thì
vấn đề quản lý trường tiểu học còn có những bất cập. Cụ thể:
- Một số cán bộ được bổ nhiệm mới chưa được đào tạo bồi dưỡng về
lý luận và nghiệp vụ QLGD.
- Một sè CBQL trường tiểu học do nghiệp vụ sư phạm không vững
vàng nên chưa hội tụ đủ uy tín với giáo viên, vì vậy họ không bao quát
được sự phát triển đồng bộ của nhà trường.
- Một sè CBQL trường tiểu học là giáo viên giỏi, nhưng còn thiếu về
kiến thức quản lý nhà trường, về pháp chế, về quản lý tài chính, thiếu năng
lực tổ chức các điều kiện phục vụ mục tiêu giáo dục.
- Có CBQL trường tiểu học năng động tháo vát trên từng khâu cụ thể
của việc điều hành nhà trường, nhưng tầm nhìn của họ hạn chế nên không
thúc đẩy được nhà trường phát triển ổn định vững chắc…
Để khắc phục những tồn tại nêu trên, cần thiết phải có những giải pháp
mang tính chiến lược và các biện pháp cụ thể nhằm xây dựng và phát triển
đội ngũ CBQL trường tiểu học của tỉnh Quảng Bình, nhằm tạo ra được một
đội ngò CBQL trường tiểu học phát triển đồng bộ, góp phần nâng cao hiệu
quả công tác quản lý và chất lượng giáo dục tiểu học của tỉnh nhà.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Các biện
pháp xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học tỉnh Quảng Bình
đến năm 2010”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vấn đề có liên quan, đề tài
nhằm đề xuất một số biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL
Trang
2
trường tiểu học tỉnh Quảng Bình đến 2010. Trên cơ sở đó để đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ CBQL trường tiểu học đủ về số lượng, đảm bảo về chất
lượng, hợp lý về cơ cấu, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý
trường tiểu học ở địa phương, phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
3.1.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học tỉnh Quảng
Bình.
3.1.2. Khách thể khảo sát
- Lãnh đạo phòng giáo dục huyện (thành phố) tỉnh Quảng Bình: 07 người
- CBQL trường tiểu học: 100 người
- Giáo viên tiểu học: 80 người
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học
tỉnh Quảng Bình.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, đội ngũ CBQL trường tiểu học tỉnh Quảng Bình tuy đã đáp
ứng được yêu cầu công tác quản lý, nhưng trước yêu cầu phát triển của đất
nước trong thời kỳ đổi mới thì còn có những bất cập. Nếu xây dựng được
các biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học, sẽ tạo
ra được một đội ngũ CBQL trường tiểu học phát triển đồng bộ, góp phần
nâng cao hiệu quả công tác quản lý.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đội ngò CBQL trường tiểu học có nhiều chức danh. Phạm vi đề tài chỉ
tập trung nghiên cứu các biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL
là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trường tiểu học, trên cơ sở thực trạng và
định hướng phát triển bậc tiểu học tỉnh Quảng Bình đến 2010.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trang
3
6.1. Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục nói chung và cán bộ quản lý trường tiểu học
nói riêng.
6.2. Khảo sát thực trạng đội ngũ CBQL trường tiểu học và thực trạng
công tác xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học ở tỉnh Quảng Bình.
6.3. Đề xuất các biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL
trường tiểu học tỉnh Quảng Bình đến 2010, khảo nghiệm tính cần thiết và
khả thi của các biện pháp.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Là các phương pháp phân tích, tổng hợp; mô hình hóa lý thuyết;
phân loại hệ thống lý thuyết để tiến hành tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ
về những vấn đề lý luận có liên quan đến xây dựng và phát triển đội ngũ
CBQL trường tiểu học.
* Mục đích
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp; mô hình hóa lý thuyết; phân loại
hệ thống lý thuyết về những vấn đề lý luận có liên quan đến xây dựng và
phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học, khai thác một cách có chọn lọc
những công trình đi trước, làm tiền đề cho việc xây dựng một số khái niệm
công cụ phục vụ cho đề tài, làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực tiễn.
* Nội dung
- Thu thập tài liệu khoa học, các công trình đi trước; các văn bản,
chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước; Bộ GD-ĐT; của UBND tỉnh
Quảng Bình, Sở GD-ĐT Quảng Bình… có liên quan đến xây dựng và phát
triển đội ngũ CBQL trường tiểu học.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra viết
* Mục đích: Thu thập số liệu để làm rõ thực trạng đội ngũ CBQL và
công tác xây dựng đội ngũ CBQL trường tiểu học tỉnh Quảng Bình.
Trang
4
* Nội dung:
- Sử dụng tài liệu lưu trữ hiện có tại các phòng giáo dục đÓ thu thập số
liệu đã tổng hợp có liên quan đến công tác XD và PT đội ngũ CBQL
trường tiểu học.
- Xây dựng các phiếu trưng cầu ý kiến về số lượng, chất lượng, cơ cấu
về đội ngũ CBQL trường tiểu học để làm rõ thực trạng và đề xuất cho tương
lai.
- Đối chiếu, so sánh 2 kết quả trên để đánh giá rõ thực trạng và đề xuất
cho tương lai về đội ngũ CBQL trường tiểu học tỉnh Quảng Bình.
7.2.2. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
* Mục đích: Thu thập ý kiến đánh giá của các chuyên gia về xây
dựng và phát triển đội ngò CBQL trường tiểu học hiện tại cũng như
phương hướng phát triển, triển vọng của đội ngũ CBQL trường tiểu học và
kinh nghiệm thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, kiểm chứng tính cấp thiết,
tính khả thi của các biện pháp một cách khách quan nhằm giảm thiểu
những sai sót trong quá trình nghiên cứu.
* Nội dung: Xây dùng 3 loại phiếu gồm 187 phiếu trưng cầu ý kiến về
việc xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học cho 3 khách thể khảo
sát.
7.2.3. Phương pháp trò chuyện
* Mục đích: Hỗ trợ cho phương pháp điều tra viết, phương pháp lấy ý
kiến chuyên gia, đồng thời kiểm tra độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
* Nội dung: Trao đổi ý kiến với đội ngũ các cán bộ, giáo viên lâu năm
có kinh nghiệm, có uy tín, giáo viên trẻ mới ra trường về việc xây dựng và
phát triển đội ngò CBQL trường tiểu học.
7.2.4. Phương pháp khảo nghiệm
* Mục đích: Nhằm kiểm định tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề ra.
* Nội dung:
Trang
5
Xây dựng phiếu điều tra trưng cầu ý kiến về tính cần thiết và tính khả thi
của các biện pháp đề ra
7.3. Các phương pháp bổ trợ khác
7.3.1. Phương pháp mô hình hóa
7.3.2. Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê
8. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 phần chính
- MỞ ĐẦU (đề cập những vấn đề chung)
- 3 CHƯƠNG
Chương I: Cơ sở lý luận về xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL
trường tiểu học
Chương II: Thực trạng đội ngũ CBQL trường tiểu học, thực trạng công tác
xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học tỉnh Quảng Bình
Chương III: Các biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL
trường tiểu học tỉnh Quảng Bình đến 2010
- KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục
Trang
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGÒ CBQL TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Ngay từ những ngày đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Bác Hồ đã rất quan tâm đến phát triển sự nghiệp giáo dục, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh đến việc XD và PT đội ngũ nhà giáo Việt Nam.
Trong chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam từ nay đến 2010,
Ngành GD-DT đã rất coi trọng đến công tác XD và PT đội ngũ CBQL ở
các cấp học, bậc học. Mấy năm gần đây, có nhiều bài viết của nhiều tác giả
đã bàn về vấn đề xây dựng đội ngũ Nhà giáo nói chung, đội ngũ CBQL nói
riêng. Trong các bài viết đó các tác giả đã đề cập đến vai trò của đội ngũ
Nhà giáo, đội ngũ CBQL, đến yêu cầu về chất lượng của đội ngũ trong
công tác đào tạo thế hệ trẻ và đã đưa ra một số giải pháp để thực hiện công
tác XD và PT đội ngũ Nhà giáo, đội ngũ CBQL.
Có thể thấy, ở nhiều cơ sở giáo dục đã có những tác giả của các luận
văn thạc sỹ chuyên ngành QLGD như: Nguyễn Minh Quang, Võ Hào, Lê
Quốc Băng, Phan Quang Vinh, Trần Văn Hạnh , đã đề cập đến công tác
XD và PT đội ngũ CBQL trong các trường phổ thông đến cao đẳng, đại
học. Song các đề tài khoa học của các tác giả nói trên đều mang tính đặc
thù ở từng địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo
dục. Riêng ở tỉnh Quảng Bình cho đến nay theo những tài liệu mà chúng tôi
bao quát được vẫn chưa có tác giả nào đề cập đến công tác XD và PT đội
ngũ CBQL trường tiểu học một cách đầy đủ và có hệ thống.
Thấm nhuần Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII, Nghị quyết Đại
hội lần thứ IX của Đảng về tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, Nghị quyết
Trung ương 6 khóa IX, Nghị quyết 11 của Bộ chính trị khóa IX, Nghị
quyết Đảng bộ tỉnh Quảng Bình, chỉ thị 02-CT/TU ngày 23/1/2001 của
Thường vụ tỉnh ủy Quảng Bình về công tác quy hoạch cán bộ đến năm
Trang
7
2010 và công văn số 109/GD-ĐT này 20/8/2004 của Ngành giáo dục
Quảng Bình về báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện kết luận Hội nghị Trung
ương 6 khóa IX về GD-ĐT khẳng định: "Việc XD và PT đội ngũ CBQL đã
thực hiện có nề nếp, đã có tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm cho hoạt
động này". Tuy nhiên việc tìm hiểu, phân tích đánh giá và xây dựng các
biện pháp cho việc phát triển đội ngũ chưa được nghiên cứu với tư cách
như một đề tài khoa học. Các đánh giá chủ yếu dựa trên thực tiễn và kinh
nghiệm, chưa được xây dựng hoàn chỉnh trên cơ sở lý luận khoa học nên
hiệu quả chưa cao. Do vậy, trong luận văn này chúng tôi mong muốn sẽ
đưa ra một hệ các biện pháp phù hợp với đặc điểm tình hình của địa
phương trong công tác XD và PT đội ngũ CBQL trường tiểu học tỉnh
Quảng Bình trước yêu cầu và nhiệm vụ mới.
1.2. Lý luận về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.1. Khái niệm quản lý
Lịch sử đã chứng minh rằng, để tồn tại và phát triển, ngay từ khi loài
người xuất hiện trên trái đất, con người đã liên kết nhau thành các nhóm
nhằm chống lại sự tiêu diệt của thú dữ và thiên nhiên, đồng thời cũng xuất
hiện một loạt các mối quan hệ: quan hệ giữa con người với con người, giữa
con người với thiên nhiên, giữa con người với xã hội và cả quan hệ giữa con
người với chính bản thân mình. Trong quá trình đó đã xuất hiện một số
người có năng lực chi phối được người khác, cũng như điều khiển mọi hoạt
động của nhóm sao cho phù hợp với mục tiêu chung. Những người đó đã
đóng vai trò thủ lĩnh để quản lý nhóm, điều đó đã làm nẩy sinh nhu cầu về
quản lý. Như vậy, quản lý xuất hiện từ rất sớm và tồn tại, phát triển đến ngày
nay.
Trong lịch sử nhân loại có nhiều danh nhân nổi tiếng đã đề cập đến vấn đề
quản lý, chức năng quản lý, đặc trưng của quản lý ở từng góc độ khác nhau.
Ngay từ thời Khổng Tử, ông đã đề cao và xác định rõ vai trò cá nhân
của người làm công tác quản lý, đó là: Người quản lý mà chính trực thì
Trang
8
không cần nhiều công sức mà vẫn khiến người ta làm theo; người quản lý
mà không chính trực thì vất vả mấy cũng không ai làm theo.
C.Mác cũng đã nói đến tới sự cần thiết của quản lý, coi quản lý là một
đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch sử của đời sống xã hội. Ông viết:
"Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành
trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa
những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải là những chức năng chung,
tức là những chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung
của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân của những khí quan độc
lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy
mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng" [26;24].
Hoạt động của con người ngày càng đa dạng, phức tạp nên quản lý
còng đa dạng, phức tạp và phong phú. Chính sự đa dạng, phức tạp và
phong phú đó cho nên có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản
lý. Dưới đây là một số quan niệm chủ yếu:
Quan niệm của các tác giả nước ngoài về quản lý:
Theo Afanaxev: “Quản lý con người có nghĩa là tác động đến anh ta,
sao cho hành vi, công việc và hoạt động của anh ta đáp ứng những yêu cầu
của xã hội, tập thể, để những cái đó có lợi cho cả tập thể và cá nhân, thúc
đẩy sự tiÕn bộ của cả xã hội lẫn cá nhân” [1;27].
Harold Koontz, Cyril Odonnell và Heinz Weihrich đều cho rằng:
“Quản lý là hoạt động đảm bảo sự phối hợp giữa nổ lực các cá nhân nhằm
đảm bảo mục tiêu quản lý trong điều kiện chi phí thời gian, công sức, tài
lực, vật lực Ýt nhất đạt được kết quả cao nhất” [21;33].
Frederch Wiliam Taylor (Mỹ), HenryFayol (Pháp), MaxWebber
(Đức) lại khẳng định: Quản lý là khoa học đồng thời là một nghệ thuật
thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Quan niệm của các tác giả trong nước về quản lý:
Trang
9
“Quản lý” là từ Hán Việt được ghép giữa từ “Quản” và từ “Lý”.
“Quản” là sự trông coi, chăm sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định.
“Lý” là sự sửa sang, sắp xếp, làm cho nó phát triển. Như vậy, “Quản lý” là
trông coi, chăm sóc, sửa sang làm cho nó ổn định và phát triển.
Từ điển Tiếng Việt-Viện Ngôn ngữ học định nghĩa: "Quản lý là trông
coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định. Là tổ chức và điều khiển các
hoạt động theo những yêu cầu nhất định" [38;772].
Giáo trình quản lý hành chính Nhà nước của Học viện hành chính
quốc gia chỉ rõ: “Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình
xã hội và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với
quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra và đúng ý chí của người quản lý”
[20;8].
Theo một số nhà khoa học như:
- TS. Nguyễn Bá Dương: “Hoạt động quản lý là sự tác động qua lại
một cách tích cực giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý qua con
đường tổ chức, là sự tác động điều khiển, điều chỉnh tâm lý và hành động
của các đối tượng quản lý, lãnh đạo cùng hướng vào hoàn thành những
mục tiêu nhất định của tập thể và xã hội” [8;55].
- Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là những tác động có định hướng, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận
hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định" [36;130]
- Nguyễn Kỳ, Bùi Trọng Tuân: "Quản lý được hiểu là việc bảo đảm
hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ thống
và môi trường, là chuyển động của hệ thống đến trạng thái mới thích ứng
với hoàn cảnh mới" [23;6]
- Giáo sư Đỗ Hoàng Toàn: "Quản lý là sự tác động có tổ chức của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra
trong điều kiện biến động của môi trường" [34;16].
Trang
10
- Trần Kiểm: "Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích
đến tập thể người-thành viên của hệ-nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi
và đạt tới mục đích dự kiến" [22;15].
- PGS.TS. Trần Quốc Thành: “Quản lý là sự tác động của chủ thể
quản lý để chỉ huy, điều khiển hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và
hoạt động của con người nhằm đạt được mục đích, đúng với ý chí nhà
quản lý, phù hợp với quy luật khách quan” [33;1].
Các khái niệm trên đây, tuy khác nhau về cách diễn đạt, song chúng
có chung những nét đặc trưng cơ bản chủ yếu sau đây:
- Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
- Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích.
- Hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá
nhân nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Như vậy, qua các cách giải thích về quản lý như trên, chúng ta thấy:
- Trong quản lý có người chỉ huy, điều khiển và có người, đồ vật hoặc sự
việc bị chỉ huy, bị điều khiển. Hai đối tượng này tác động qua lại và quy định
lẫn nhau.
- Trong quản lý phải có mục đích, nhiệm vụ hoạt động chung. Có thể
nói, tính mục đích là thuộc tính vốn có trong hoạt động xã hội, đặc biệt là
trong hoạt động quản lý. Khi thực hiện nhiệm vụ quản lý, chủ thể quản lý
luôn luôn hướng theo mục đích xác định và lôi cuốn đối tượng bị quản lý
thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Qua các tác giả trong cũng như ngoài nước, tuy có nhiều cách hiểu,
cách diễn đạt khác nhau, song có thể nói rằng: Quản lý là hệ thống những
tác động có chủ định, phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý
đến khách thể quản lý (đối tượng quản lý) nhằm khai thác và tận dụng tốt
nhất những tiềm năng và cơ hội của khách thể quản lý để đạt đến mục tiêu
quản lý trong một môi trường luôn biến động.
Như vậy, khái niệm quản lý bao hàm các khía cạnh:
Trang
11
Hệ thống quản lý gồm 2 hệ liên kết nhau, đó là sự liên kết giữa chủ thể
quản lý với đối tượng quản lý. Khi chỉ ra chủ thể quản lý thì phải chỉ ra đối
tượng quản lý và ngược lại.
- Trả lời được câu hỏi: Ai quản lý? Thì đó là chủ thể quản lý. Do đó,
chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức do người
cụ thể lập nên. Cá nhân làm chủ thể quản lý được gọi chung là CBQL. Ví
dụ ở bình diện vĩ mô toàn cầu là Tổng thư ký Liên hợp quốc; ở trong một
nước là Tổng thống hoặc Thủ tướng; ở trong một ngành là Bộ trưởng ở
bình diện vi mô một doanh nghiệp là giám đốc; ở một nhà trường là hiệu
trưởng
- Trả lời được câu hỏi: Quản lý ai? Quản lý cái gì? Quản lý sự việc
gì? thì đó là đối tượng quản lý. Do đó, đối tượng quản lý có thể là một cá
nhân, một nhóm hay một tổ chức hoặc có thể là một vật thể (cỗ máy, kho
tàng ) hoặc có thể là sự việc (luật lệ, quy chế ). Khi đối tượng quản lý là
một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức được con người đại diện có thể trở
thành chủ thể quản lý cấp dưới thấp hơn theo hệ thống cấp bậc. Ví dụ: Chủ
tịch huyện là đối tượng quản lý của chủ tịch tỉnh nhưng chủ tịch huyện lại
là chủ thể quản lý của chủ tịch xã Điều đó có nghĩa là khi nói chủ thể hay
đối tượng quản lý là người hoặc tổ chức được con người đại diện phải đặt
trong mối quan hệ tổ chức cụ thể.
Giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý có mối quan hệ tác động
qua lại tương hỗ nhau. Chủ thể quản lý nẩy sinh các động lực quản lý, còn
khách thể quản lý thì làm nẩy sinh các giá trị vật chất và tinh thần, đáp ứng
nhu cầu của con người, thỏa mãn mục đích của chủ thể quản lý.
Công cụ quản lý là các phương tiện mà chủ thể quản lý dùng để tác
động đến đối tượng quản lý như các văn bản luật, quyết định, chỉ thị,
chương trình, kế hoạch
Phương pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý. Phương pháp quản lý rất phong phú và đa dạng: Phương
Trang
12
pháp thuyết phục, phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính-tổ chức,
phương pháp tâm lý-giáo dục ; tùy theo từng tình huống cụ thể mà sử
dụng các phương pháp khác nhau hoặc kết hợp các phương pháp với nhau.
Mục tiêu của quản lý là tạo ra, tăng thêm và bảo vệ lợi Ých của con người.
Do đó, hoạt động quản lý có thể biểu diễn qua sơ đồ sau:
Trang
13
Sơ đồ 1: Mô hình về quản lý
Như vậy, quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của
chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng một hệ thống luật lệ, các chính
sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi
trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng.
Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành, tập hợp con người, công cụ,
phương tiện, tài chính , để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm đạt mục
tiêu định trước. Chủ thể muốn kết hợp được các hoạt động của đối tượng
theo một định hướng của quản lý thì phải tạo ra được “Quyền uy” buộc đối
tượng phải tuân thủ. Với ý nghĩa đó, chóng ta có thể khẳng định thêm rằng
quản lý không chỉ là khoa học, nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội mà
còn đòi hỏi sự khôn khéo, linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo, nhạy cảm và tinh
tế rất cao; phải biết “Cương” và “Nhu”; phải có “Tài”, “Tầm” và “Tâm”.
Với tư cách là yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong việc duy trì và
phát triển một tổ chức. Vì vậy người quản lý phải thực hiện 4 nhóm chức
năng: Kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
Chức năng thứ nhất: Kế hoạch hóa là khởi điểm của một quá trình
quản lý. Kế hoạch hóa là quá trình vạch ra các mục tiêu và quy định
phương thức đạt được mục tiêu (đó là con đường, cách thức, biện pháp cho
hoạt động trong tương lai)
Trang
14
Chñ thÓ
Qu¶n lý
C«ng cô
qu¶n lý
Ph ¬ng ph¸p
Qu¶n lý
Kh¸ch thÓ
Qu¶n lý
Môc tiªu
Qu¶n lý
M«i tr êng qu¶n lý
Chức năng thứ hai: Tổ chức là một quá trình phân công và phối hợp
các nhiệm vụ, sắp xếp nguồn lực theo những cách thức nhất định để đảm
bảo thực hiện tốt các mục tiêu đã được vạch ra.
Để thực hiện vấn đề phân phối và sắp xếp nguồn nhân lực, chức năng
tổ chức thực hiện những nội dung sau:
- Xác định cấu trúc của tổ chức
- Xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực (gồm quy hoạch đội ngũ,
tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, thẩm định, thuyên chuyển, đề bạt, sa
thải )
- Xác định cơ chế hoạt động, các mối quan hệ của tổ chức
- Tổ chức lao động một cách khoa học của người quản lý
Lê Nin- người thầy của cách mạng vô sản đã từng nói: "Hãy cho
chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, chúng tôi sẽ đảo lộn cả
nước Nga". Câu nói bất hủ đó của Người chúng ta đã hiểu rõ tổ chức và vai
trò tổ chức trong bất kỳ một hệ thống chính trị nào.
Chức năng thứ ba: Chỉ đạo là phương thức tác động của chủ thể quản
lý tới đối tượng quản lý nhằm điều khiển tổ chức vận hành theo đúng kế
hoạch để đạt được mục đích, mục tiêu đề ra.
Chức năng thứ tư là kiểm tra: Hoạt động kiểm tra bao gồm việc kiểm
tra, giám sát, theo dõi, phát hiện, xử lý tình huống và kết quả hoạt động
kiểm tra cũng là một quá trình tự điều khiển.
Các chức năng này liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một chu trình
quản lý. Ngoài 4 chức năng cơ bản nêu trên, trong quá trình quản lý còn có
thêm 2 vấn đề quan trọng là: thông tin quản lý và quyết định quản lý.
Thông tin quản lý là dữ liệu về việc thực hiện các nhiệm vụ đã được
xử lý giúp cho người quản lý hiểu được về đối tượng quản lý mà họ đang
quan tâm để phục vụ cho việc đưa ra các quyết định quản lý cần thiết trong
quá trình quản lý. Do đó thông tin quản lý không những là tiền đề của quản
lý mà còn là huyết mạch quan trọng để duy trì (nuôi dưỡng) quá trình quản
Trang
15
lý. Thụng tin qun lý l c s ngi qun lý a ra nhng quyt nh
ỳng n, kp thi v cú hiu qu.
Quyt nh qun lý l sn phm ca ngi qun lý trong quỏ trỡnh thc
hin cỏc chc nng qun lý.
Quỏ trỡnh qun lý c th hin qua s sau:
S 2: Quỏ trỡnh qun lý
1.2.2. Khỏi nim qun lý giỏo dc
QLGD l mt loi hỡnh qun lý xó hi, tc l qun lý mi hot ng
giỏo dc trong xó hi. Da vo khỏi nim Qun lý mt s nh nghiờn cu
v giỏo dc a ra nhiu nh ngha v QLGD , mt s nh ngha in
hỡnh nh sau:
Quan im ca cỏc nh nghiờn cu nc ngoi:
Hc gi ni ting M.I.Kụnacụp: QLGD l tp hp nhng bin phỏp
t chc, cỏn b, k hoch húa, ti chớnh cung tiờunhm m bo vn
hnh bỡnh thng ca cỏc c quan trong h thng giỏo dc, tip tc
phỏt trin v m rng h thng c v mt s lng ln cht lng [27].
P.V.Khuụminxky:QLGD l tỏc ng cú h thng, cú k hoch, cú
mc ớch ca ch th qun lý cỏc cp khỏc nhau n tt c cỏc khõu
ca h thng giỏo dc nhm m bo vic giỏo dc Cng sn ch ngha
cho th h tr, m bo s phỏt trin ton din v hi hũa ca h [29].
Quan im ca cỏc nh nghiờn cu Vit Nam:
"QLGD theo ngha tng quan l hot ng iu hnh, phi hp cỏc
lc lng xó hi nhm y mnh cụng tỏc o to th h tr theo yờu cu
xó hi hin nay" [35;5].
Trang
16
Thông tin quản lý
Quyết định quản lý
Kiểm tra
Kế hoạch hóa
Tổ chức
Chỉ đạo
"QLGD, QL trường học có thể hiểu đó là một chuỗi tác động hợp lý
(có mục đích, tự giác, có kế hoạch, có hệ thống) mang tính tổ chức, sư
phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên va học sinh, đến những lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng cộng
tác phối hợp tham gia vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm làm cho
quy trình này vận hành tới việc hoàn thành những mục đích đã dự kiến"
[35;6].
GS. Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thÓ quản lý (hệ giáo dục)
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của
Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà
tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học-giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục
tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [31;7]
PGS.TS. Đặng Quốc Bảo: “QLGD theo nghĩa tổng quan là điều hành,
phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu phát triển của xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục
thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho
mọi người. Cho nên, QLGD được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục
quốc dân” [4].
TS. Đỗ Ngọc Đạt: "QLGD là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý trong hệ thống giáo dụ, sử dụng tốt
nhất tiềm năng và điều kiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra theo
đúng luật định và thông lệ hiện hành" [16;8].
Mặc dù những định nghĩa trên có nhiều cách diễn đạt khác nhau
nhưng đều nêu lên bản chất của QLGD là hệ thống những tác động có tính
định hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá trình
hoạt động giáo dục nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục trong một
môi trường luôn luôn biến động.
Các thành tố đó là:
Trang
17
- Mục tiêu giáo dục (MTGD)
- Nội dung giáo dục (NDGD)
- Phương pháp giáo dục (PPGD)
- Lực lượng giáo dục (Người dạy)
- Đối tượng giáo dục (Người học)
- Phương tiện giáo dục (điều kiện)
Các thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ và có tác động qua lại lẫn nhau.
Khái niệm QLGD trên đây đồng nghĩa với quản lý hệ thống giáo dục
có thể là hệ thống các trường học đóng ở một địa phương xác định hoặc hệ
thống trường học trong phạm vi cả nước. Với mục tiêu của nền giáo dục
cách mạng thì QLGD phải tuân thủ các nguyên tắc:
- Quán triệt các đường lối giáo dục của Đảng
- Nguyên tắc tập trung dân chủ
- Nguyên tắc khoa học
- Nguyên tắc tính hiệu quả
1.2.3. Khái niệm quản lý nhà trường
Trường học là một tổ chức giáo dục cơ sở mang tính Nhà nước-xã
hội, là nơi tác động qua lại với môi trường đó. Vì vậy, người ta đã đưa ra
định nghĩa về nhà trường như sau:
“Nhà trường là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, thực hiện chức
năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho một nhóm dân cư nhất
định của xã hội đó. Nhà trường được tổ chức sao cho việc kiến tạo kinh
nghiệm xã hội nói trên đạt được các mục tiêu mà xã hội đó đặt ra cho
nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan
niệm của xã hội” [3;62].
Theo GS. Nguyễn Ngọc Quang:" Quản lý nhà trường là thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là
đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo
Trang
18
dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành GD-ĐT, đối với thế hệ trẻ và với từng
học sinh, việc quản lý nhà trường phổ thông là quản lý hoạt động dạy và
học, làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này đến trạng thái khác để
dần tiến tới mục tiêu đào tạo" [30;34].
Nhà trường thực hiện chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội
thông qua quá trình sư phạm. Quá trình sư phạm là quá trình kiến tạo các
điều kiện và cơ hội để cá thể người lĩnh hội, chiếm lĩnh kinh nghiệm xã
hội, thực hiện việc xã hội hóa nhân cách của mình.
Trong bối cảnh hiện đại, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một
thiết chế chuyên biệt của xã hội để giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ thành những
công dân hữu Ých cho tương lai. Thiết chế đó có mục đích rõ ràng, có tổ
chức chặt chẽ, được cung ứng các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện
chức năng của mình mà không một thiết chế nào có thể thay thế được. Bản
chất giai cấp của nhà trường đã được khẳng định bởi tính mục đích cũng
như cách thức vận hành của nó và một điều được khẳng định nữa là: Khi
nhà trường thực hiện chức năng giáo dục trong xã hội cụ thể, bản sắc văn
hóa dân tộc in dấu Ên sâu đậm trong toàn bộ hoạt động của nhà trường.
Từ đó, ta có thể hiểu: Nhà trường là một thiết chế xã hội thực hiện
chức năng tái tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sù duy trì và phát triển của
xã hội, thiết chế chuyên biệt này hoạt động trong tính quy định của xã hội
và theo những dấu hiệu phân biệt nói trên.
GS. VS. Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lý giáo dục của Đảng để tiến tới mục tiêu
giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, đối với thế hệ trẻ và đối
với từng học sinh” [18;22].
PGS.TS. Đặng Quốc Bảo: “Trường học là một thiết chế xã hội trong
đó diễn ra quá trình đào tạo, giáo dục với sự hoạt động tương tác của 2
Trang
19
nhân tố: “thầy - trò”. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và guồng
máy của hệ thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở” [3;63].
Mặc dù từng tác giả có nêu lên những định nghĩa khác nhau, nhưng vẫn
nổi bật lên cái chung, cái bản chất của quản lý nhà trường là hệ thống những
tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý làm cho nhà trường
vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng để thực hiện thắng
lợi mục tiêu đào tạo của ngành giáo dục giao phó cho nhà trường.
Vì vậy, quản lý nhà trường là phải quản lý toàn diện. Đó là:
- Quản lý đội ngũ nhà giáo
- Quản lý học sinh
- Quản lý quá trình dạy học-giáo dục
- Quản lý cơ sở vật chất trang thiết bị trường học
- Quản lý tài chính trường học
- Quản lý mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng
1.3. Lý luận về xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học
1.3.1. Khái niệm cán bộ quản lý, đội ngũ CBQL
1.3.1.1. Khái niệm cán bộ, về đội ngũ
* Khái niệm về cán bộ
“Cán bé” là một khái niệm, tên gọi người có chức vụ trong một tổ
chức, một cơ quan; người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong một tổ
chức, một cơ quan. Khái niệm cán bộ xuất hiện trong đời sống chính trị của
nước ta từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Trong từ điển Tiếng Việt, “Cán bé” được định nghĩa như sau:
- Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước,
Đảng và đoàn thể.
- Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người không có chức vụ.
Cho đến nay, từ “Cán bé” đã được dùng với rất nhiều nghĩa khác
nhau:
Trang
20
- Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ “Cán bé” được dùng với 2 nghĩa:
một là, để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn
viên hay hội viên; hai là, những người làm công tác chuyên trách có hưởng
lương trong các tổ chức đảng và đoàn thể.
- Trong quân đội là những chỉ huy từ tiểu đội trở lên (cán bộ tiểu đội,
trung đội ) và là sĩ quan từ cấp uý trở lên.
- Trong hệ thống Nhà nước, từ “Cán bé” được hiểu cơ bản là trùng với
từ công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan Nhà nước thuộc
ngành hành chính, tư pháp, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời, từ “Cán
bé” cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh
đạo.
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có
khác nhau, nhưng về cơ bản, từ “Cán bé” bao hàm nghĩa chính của nó là "Bé
khung", là "Nòng cốt", là "Chỉ huy". Như vậy, có thể quan niệm một cách
chung nhất, “Cán bé” là một khái niệm để chỉ những người có chức vụ, có
nghiệp vụ chuyên môn, có vai trò cương vị nòng cốt trong mét tổ chức, một
cơ quan, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức, cơ quan và các
quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành góp phần định hướng sự
phát triển của tổ chức. Cán bộ tốt sẽ góp phần xây dựng tổ chức, cơ quan tốt
và ngược lại tổ chức, cơ quan tốt lại là môi trường để cán bộ tu dưỡng, rèn
luyện tiến bộ.
* Khái niệm về đội ngũ:
Từ điển Tiếng Việt giải thích: “Đội ngũ là tập hợp một số đông
người, cùng chức năng nghề nghiệp thành một lực lượng” [40;328].
Khái niệm đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách khá
rộng rãi như: Đội ngũ tri thức, đội ngũ thanh niên xung phong, đội ngũ
giáo viên…Các khái niệm đó đều xuất phát theo cách hiểu thuật ngữ quân sự
Trang
21
về đội ngũ, đó là gồm nhiều người, tập hợp thành một lực lượng, hàng ngũ
chỉnh tề.
Tuy nhiên ở một nghĩa chung nhất chúng ta hiểu: Đội ngũ là tập hợp
một số đông người, hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều
chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nghề, nhưng có chung mục
đích xác định; họ làm việc theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi Ých vật
chất và tinh thần cụ thể.
Như vậy, khái niệm về đội ngũ có thể diễn đạt nhiều cách khác nhau,
nhưng đều thống nhất: Đó là một nhóm người, một tổ chức, tập hợp thành
một lực lượng để thực hiện mục đích nhất định. Do đó, người quản lý nhà
trường phải xây dựng, gắn kết các thành viên tạo ra đội ngũ, trong đó mỗi
người có thể có phong cách riêng, nhưng phải có sự thống nhất cao về mục
tiêu cần đạt tới.
1.3.1.2. Khái niệm CBQL, đội ngũ CBQL
Theo Từ điển Tiếng Việt, CBQL là: “ Người làm công tác có chức vụ
trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ”
[38;105].
CBQL là chủ thể quản lý gồm những người giữ vai trò tác động, ra
lệnh, kiểm tra đối tượng quản lý. CBQL là người chỉ huy, lãnh đạo, tổ chức
thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ của tổ chức. Người quản lý vừa là người
lãnh đạo, quản lý cơ quan đó vừa chịu sự lãnh đạo, quản lý của cấp trên.
CBQL có thể là trưởng hoặc phó trưởng của một tổ chức được cơ
quan cấp trên bổ nhiệm bằng quyết định hành chính Nhà nước. Cấp phó
giúp việc cho cấp trưởng, chịu trách nhiệm trước cấp trưởng và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về công việc được phân công.
CBQL được phân ra nhiều cấp bậc khác nhau: CBQL cấp trung ương,
CBQL cấp địa phương, CBQL cấp cơ sở.
Tóm lại, CBQL là chủ thể quản lý, là người có chức vụ trong tổ chức
được cấp trên ra quyết định bổ nhiệm; người có vai trò dẫn dắt, tác động, ra
Trang
22
lệnh, kiểm tra đối tượng quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu của đơn vị.
Người CBQL phải có phẩm chất và năng lực nổi trội hơn người khác, là
tấm gương cho mọi người trong đơn vị noi theo.
Từ khái niệm đội ngũ, đội ngũ CBQL nói trên, chúng ta hiểu: Đội ngò
CBQL nhà trường chính là những người đứng đầu nhà trường hoặc các tổ
chức của nhà trường, được tập hợp lại thành một lực lượng
1.3.2. Nhân cách của CBQL trường tiểu học
Nhân cách gắn liền với mỗi con người, mỗi cá nhân cụ thể được sống và
làm việc trong mét giai đoạn lịch sử nhất định. Theo từ Hán-Việt, khái niệm
nhân cách được hiểu theo nghĩa ghép của 2 từ "nhân" và từ "cách". Từ "nhân"
cũng có nhiều nghĩa, nhưng ở đây ta chỉ dừng lại ở nghĩa "người" (hiểu những
gì tốt đẹp nhất của con người), còn từ "cách" có thể hiểu là "tư cách", "phong
cách" Bản thân của từ "cách" là cách ứng xử, hành vi của con người trong các
quan hệ xã hội, là phẩm chất tâm lý, đặc điểm cá nhân.
"Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm tâm lý và các kiểu hành vi,
hoạt động của mỗi người được hình thành, phát triển và chịu sự chi phối
của các mối quan hệ xã hội, là chủ thể hoạt động tích cực thúc đẩy xã hội
phát triển" [18;203]
Như vậy, nói đến nhân cách là nói đến con người với tư cách là một thành
viên của xã hội, một chủ thể của các mối quan hệ và hoạt động. Với tư cách đó,
nhân cách bao gồm tất cả những đặc điểm, phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong
mét con người. Những thuộc tính này được hình thành trong quá trình tác động
qua lại giữa người đó với những người khác trong xã hội.
Nhân cách được hình thành và phát triển dưới nhiều ảnh hưởng của
những nhân tố di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân. Trong đó,
mỗi nhân tố có vai trò riêng của nó. Nhân tố bẩm sinh, di truyền tạo ra tiền đề
cho sự phát triển. Nhân tố môi trường đóng vai trò điều kiện, chi phối sự hình
thành và phát triển. Nhân tố giáo dục luôn giữ vai trò chủ đạo. Còn nhân tố hoạt
Trang
23
động, rèn luyện, giao tiếp của cá nhân đóng vai trò quyết định trực tiếp đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người.
Khi nói đến nhân cách, người ta thường nói đến định hướng giá trị. Vì
vậy trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách nói chung, nhân cách
của người CBQL nói riêng cần quan tâm đến việc định hướng các giá trị xã hội
tích cực, nhất là trong bối cảnh thang giá trị xã hội đang có sự biến động do ảnh
hưởng của nền kinh tế thị trường hiện nay.
Theo truyền thống văn hóa của người Việt Nam, nhân cách gồm 2 phần
cơ bản là: "đức" (phẩm chất) và "tài" (năng lực). Theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng được thể hiện 2 mặt cơ bản, đó
là đức và tài, trong đó đức là nền tảng. Người quan niệm, trong con người phải
bao gồm cả đức và tài không thể thiếu và xem nhẹ mặt nào: "có tài mà không
có đức là vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". đó chính
là cốt lõi của nhân cách nói trên.
Theo quan điểm của Đảng, thể hiện ở Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII: "Coi trọng cả đức và tài, đức
là gốc". Theo quan điểm này, Nghị quyết này cũng đã cụ thể hóa hai mặt
đức và tài của người cán bộ lãnh đạo và quản lý được thể hiện ở 2 nhóm
phẩm chất như sau:
* Nhóm phẩm chất về chính trị-tư tưởng (đạo đức)
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc.
- Tận tụy phục vụ nhân dân.
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
- Phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật Nhà nước.
- Cần, kiệm, liêm, chính.
- Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhòng.
- Có ý thức tổ chức kỷ luật.
Trang
24
- Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân
dân tín nhiệm.
* Nhóm phẩm chất về năng lực (lãnh đạo, quản lý)
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước.
- Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm
việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra đối với người cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước cần có
thêm các phẩm chất sau đây:
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng.
- Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, có khả năng
tổng kết thực tiễn.
- gương mẫu về đạo đức, lối sống.
- Tác phong dân chủ.
- Có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết nội bé.
- Có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý.
Cùng quan niệm Êy VS. Phạm Minh Hạc đã đưa ra cấu trúc tâm lý đức và
tài như sau [17;67]:
- Phẩm chất (đức) bao gồm:
+ Các phẩm chất xã hội (hay đạo đức-chính trị)
+ Các phẩm chất cá nhân (hay đạo đức-tư cách)
+ Các phẩm chất ý chí của cá nhân (như tính mục đích, tính quyết đoán,
kiên trì, chịu đựng )
+ Cung cách ứng xử (hay tác phong)
- Năng lực (tài):
+ Năng lực xã hội hóa: Thích ứng, sáng tạo, cơ động, mềm dẻo.
+ Năng lực chủ thể hóa: Tính độc đáo, bản lĩnh cá nhân,
+ Năng lực hành động: Hành động có mục đích, chủ động, tích cực.
+ Năng lực giao lưu: Thiết lập và duy trì quan hệ
Trang
25