Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Các biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở trường Kỹ thuật Phát thanh -Truyền hình tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.12 KB, 106 trang )

Mở đầu
1- Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp Hiện đại hoá và Công nghiệp hoá đất nước. Đào tạo
nghề cho người lao động giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển
nguồn nhân lực cho các quốc gia trên thế giới và trong phạm vi quốc gia tạo
nên sức mạnh nội sinh của từng địa phương, vì lực lượng lao động được đào
tạo nghề bao giờ cũng là lực lượng sản xuất trực tiếp và quyết định nhất trong
cơ cấu lao động kỹ thuật.
Đào tạo nghề giải quyết vấn đề quan trọng trong giải quyết việc làm, nó
không tạo ra việc làm ngay nhưng nó là biện pháp quan trọng nhất tạo thuận
lới cho quá trình giải quết việc làm. Dạy nghề giúp cho người lao động có
chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề từ đó có thể mưu cầu cuộc sống, xin vào
làm việc trong các cơ quan doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác
nhau, hoặc có thể tự lập tạo ra việc hoạt động kinh doanh, sản xuất của cá
nhân ngay tại quê hương, bản quán hoặc tại mảnh vườn thửa ruộng của gia
đình.
Trong giai đoạn hiện nay đào tạo nghề là một trong những yếu tố quan
trọng, cơ bản nhất đảm bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia và
mỗi địa phương. Nhận thức được tầm quan trọng đó Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm và xác định vấn đề việc làm, vấn đề dân số, vấn đề phân bổ dân
cư vào vị trí hàng đầu trong chính sách phát triển Kinh tế - Xã hội. Điều đó đã
được chứng minh trong việc hoạch định chính sách, chiến lược Kinh tế - Xã
hội ở các Văn kiện của Đảng. Ở các văn bản quy phạm pháp luật và trong
thực tế của công tác điều hành đất nước của chính phủ. Đảng, Nhà nước,
Chính phủ luôn đặt vấn đề con người và giải quyết việc làm là vị trí trọng
tâm. Lấy lợi Ých của người lao động làm cơ sở cho mọi chính sách ra đời và
tồn tại.
Đứng trước những thay đổi của sự nghiệp Công nghiệp hoá Hiện đại
hoá đất nước như vậy Thanh Hoá càng phải có một lực lượng người lao động
1
1


được đào tạo nghề căn bản và nhất là lĩnh vực nghề Điện tử - Phát thanh
Truyền hình. Để cho người dân từ Hải đảo xa xôi đến các vùng sâu, vùng cao,
vũng lõm đều được nghe tiếng nói của Đảng, nắm được chủ trương chính
sách của Nhà nước, bày cho nhau cách làm ăn, đồng thời đều được xem
những hình ảnh sống động của các kênh truyền hình. Một món ăn tinh thần
cực kỳ hấp dẫn, một vũ khí tuyên truyền vô cùng hiệu quả của Đảng bộ tỉnh
nhà. Để làm được việc đó Thanh Hoá đã có 8 trường dạy nghề cấp tỉnh 27
trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề ở các huyện và một số trường
Cao đẳng, Trung học và cả Đại học cũng tham gia dạy nghề cho người lao
động. Nhưng Thanh Hoá cũng duy nhất có 1 trường Kỹ thuật Phát thanh -
Truyền hình với chức năng đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, đào tạo lại cho đội
ngũ cán bộ kỹ thuật nhân viên nghiệp vụ đang công tác ở 530 xã, phường đã
có đài truyền thanh cơ sở trên tổng số 636 xã của toàn tỉnh. 27 Đài truyền
thanh, phát thanh và truyền hình ở các huyện 30 trạm thu vệ tinh phát lại
truyền hình ở các vùng và ở đài phát thanh truyền hình khu vực khá hiện đại.
Truờng Kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình Thanh Hoá được thành lập
theo Quyết định 127/TC - UBHCTH ngày 01/03/1973. Mặc dù đã được thành
lập và trưởng thành qua hơn 30 năm trường cũng đã đào tạo nhiều thế hệ cán
bộ kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ đã và đang công tác hiệu quả ở trong tỉnh và
các tỉnh bạn. Nhưng đứng trước yêu cầu mới trước xu thế phát triển như vũ
bảo ngày nay của lĩnh vực điện tử công nghệ thông tin và thiết bị viễn thông
trên phạm vi Quốc gia và Quốc tế. Đội ngũ cán bộ của nhà trường hầu hết
mới tốt nghiệp ở các trường Đại học, Cao đẳng kỹ thuật về để làm nhiệm vụ
giảng dạy. Cơ sở vật chất các thiết bị dạy nghề trước đây phần lớn là của các
nước Đông Âu và đã qua nhiều năm sử dụng nên đã xuống cấp và rất lạc hậu.
Giáo trình giảng dạy chưa thay đổi kịp, các thiết bị dạy nghề hiện nay đắt đỏ,
việc đầu tư cho dạy nghề còn hạn chế. Do đó có những bất cập từ đó ảnh
hưởng không nhỏ đến công tác quản lý và chất lượng đào tạo trong nhà
trường. Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu:" Các biện
2

2
pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nghề ở trường Kỹ thuật Phát thanh -Truyền hình tỉnh Thanh Hoá" nhằm góp
phần nâng cao chất lượng quản lý, phát triển đội ngũ giáo viên và đào tạo của
nhà trường nói riêng cũng như góp vào một trong những quan điểm trong
quản lý để nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường dạy nghề khác trong tỉnh
nói chung.
2 - Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao
chất lượng đạo tạo nghề ở trường Kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình tỉnh
Thanh Hoá.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Công tác quản lý phát triển đội ngũ giáo viên ở trường kỹ thuật Phát
Thanh - Truyền hình Thanh Hoá
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Mối quan hệ giữa các biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên và
chất lượng đào tạo nghề.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng đào tạo nghề ở trường Kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình
tỉnh Thanh Hoá còn nhiều mặt hạn chế và nhiều bất cập bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nếu đề xuất được các biện pháp, phát
triển đội ngũ giáo viên dựa trên những nét đặc thù của nhà trường, phù hợp
với thực tế của tỉnh cũng như đảm bảo mục tiêu đào tạo nội dung đào tạo,
chương trình môn học một cách hợp lý để quả lý phát triển đội ngũ giáo viên
nhằm hướng tới nâng cao được chất lượng đào tạo nghề ở trường Kỹ thuật
Phát thanh - Truyền hình Thanh Hoá.
5- Giới hạn của đề tài
3
3

- Do thời gian nghiên cứu không được nhiều trong đề tài này chúng
tôi chỉ tập trung trong khai thác các biện pháp quản lý có liên quan đến chất
lượng đào tạo.
- Qúa trình đào tạo và nhất là đào tạo nghề có rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo, song đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu việc
xây dựng các biện pháp quản lý nhằm nâng các chất lượng đào tạo nghề ở
trường Kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình tỉnh Thanh Hoá.
- Chỉ nghiên cứu cho cán bộ làm công tác quản lý lãnh đạo trong
công việc phát triển đội ngũ giáo viên của nhà trường (cho đồng chí Hiệu
Trưởng).
- Chỉ nghiên cứu qúa trình đào tạo nghề trong lĩnh vực ngành hẹp đó
là ngành Phát thanh - Truyền hình của Tỉnh.
6- Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc quản lý quá trình đào tạo nghề
có liên quan đến chất lượng đào tạo trong các trường dạy nghề của tỉnh.
6.2. Nghiên cứu thực trạng quản lý đào tạo nghề ở trường Kỹ thuật Phát
thanh - Truyền hình tỉnh Thanh Hoá.
6.3. Đề xuất biện pháp quản lý, phát triển giáo viên nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo nghề ở Trường Kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình tỉnh Thanh
Hoá.
7 - Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Nghiên cứu lý luận
Tổng hợp nghiên cứu phân tích những chủ chương của Đảng và của
Nhà nước liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Những công trình sách, tạp chí,
luận án, luận văn trong và ngoài nước liên quan đến đề tài.
7.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Sử dụng hai bộ câu hỏi điều tra: Bộ câu hỏi dành cho cán bộ, giáo
viên nhà trường (Phụ lục 1). Bộ câu hỏi dành cho học sinh đang học nghề ở
trường Kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình tỉnh Thanh Hoá (Phụ lục 2)
4

4
- Phỏng vấn một số cán bộ quản lý, một số giáo viên có tâm huyết có
kinh nghiệm để tìm hiểu thực tiễn của nhà trường nhằm làm sáng tỏ hơn nội
dung nghiên cứu bằng phương pháp điều tra.
- Quan sát cách thức tổ chức quản lý của lãnh đạo và cán bộ quản lý
các cấp. Quan sát tình hình giảng dạy của giáo viên dạy giỏi, của giáo viên
mới vào nghề. Quan sát tình hình học tập của học sinh để nắm tình hình thực
tế đang diễn ra ở nhà trường.
- Tổng kết, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn của trường Kỹ thuật Phát
thanh -Truyền hình tỉnh Thanh Hoá về công tác quản lý đào tạo nghề.
7.3. Phương pháp bổ trợ
- Sử dụng thống kê toán học để xử lý kết quả nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia.
Chương 1
Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
5
5
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên ngành
giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề
Giáo dục là quá trình chuyển giao những kinh nghiệm lịch sử từ thế hệ
này sang thế hệ khác là quá trình truyền đạt những kiến thức khoa học, tri
thức của xã hội cho những công dân của đất nước. Đất nước ta công tác giáo
dục và dạy học đã được coi trọng từ những năm đầu của thế kỷ 11. Tuy nhiên
phương pháp dạy học xưa phần nhiều chỉ là cách " nấu sử rồi kinh" bước sang
thời kỳ phát triển hiện đại các ngành học cũng được phân định rạch ròi hơn,
giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp cũng có khoảng cách cụ thể,
nếu giáo dục phổ thông là quá trình giới thiệu và khái quát để dần dần con
người hình thành nhân cách, thì giáo dục chuyên nghiệp hình thành kỹ năng,
kỹ xảo, xác định ngành nghề của mỗi công dân trong một xã hội nhất định dể
duy trì sự sống và duy trì sự phát triển của toàn xã hội. Vừa thoát khỏi cảnh

đô hộ trầm luân trong đau khổ của hơn một trăm năm dưới ách đô hộ và cai trị
của chế độ thực dân Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi 3 thứ giặc xếp vào
hàng nguy hiểm nhất của một dân tộc đó là: " giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại
xâm" Trong cuộc chiến tranh "trường kỳ" với hàng trăm ngàn khó khăn, gian
khổ phải đương đầu với một đế quốc lớn có tiềm năng quân sự và kinh tế
đứng đầu thế giới. Đảng, Bác Hồ và Nhà nước vẫn chủ chương vừa chiến đấu
vừa xây dựng.
Thực hiện chính sách mở cửa Đảng và Nhà nước lại có chủ chương xã
hội hoá giáo dục và đào tạo, làm cho sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp chung
của mọi người dân, với quyết tâm cháy bỏng. Chiến thắng nghèo nàn và lạc
hậu với chiến lược cực kỳ sáng suốt và vô cùng sáng tạo của Đảng đó là đi tắt
đón đầu. Thực chất phát triển giáo dục nói chung và phát triển giáo viên của
ngành giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề nói riêng đó là cách nâng cao ý
thức của toàn xã hội đối với giáo dục huy động các lực lượng các nguồn lực
cuả xã hội để phát triển quy mô và chất lượng của giáo dục, đồng thời biến
6
6
giáo dục thành quyền và nghĩa vụ của mọi người dân, thành phúc lợi của toàn
dân, thành dịch vụ cho mỗi cá nhân có nhu cầu và điều kiện muốn học tập,
phát triển. Đây cũng là cách để cho nền giáo dục nước nhà có chất lượng cao,
có khả năng đào tạo những người thực tài, có tầm mắt chiến lược toàn cầu, có
ý thức vươn lên hàng đầu, có năng lực sáng tạo cái mới và cạnh tranh quốc tế,
có khả năng biến trí thức thành sản phẩm mang lợi Ých kinh tế.
Xuất phát từ những nhận thức trên nên từ năm 1990 đến nay các chính
sách của nhà nước tập trung cho lĩnh vực giáo dục đào tạo và phát triển giáo
viên tương đối tập trung.
Ngày 24/ 11/1993 Chính Phủ ban hành nghị định số 90/CP về đa dạng
hoá các loại hình trường lớp và hình thức đào tạo.
Quyết định 255/CT của Chính phủ: Chuyển một số trường trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề từ các bộ, tổng cục về trực thuộc các Tổng Công

ty.
Quyết định số 2461 và 2463 của bộ Giáo dục và Đào tạo ngày
07/11/1992 về xây dựng các trung tâm giáo dục thường xuyên ở tỉnh, thành
phố, huyện, xã với mục đích tạo cơ hội cho mọi người.
Quyết định số 191/QĐ ngày 01/10/1986 của tổng cục dạy nghề và
quyết định số 1317/QĐ ngày 19/06/1993 của bộ Giáo dục và Đào tạo về phát
triển mạng lưới các trung tâm dạy nghề tại các quận huyện.
Ngày 11/12/ 1998 Chủ tịch nước đã công bố lệnh ban hành luật giáo
dục, luật có hiệu lực ngày 01/01/1999 sau 6 năm thi hành luật giáo dục ngày
27/06/2005 chủ tịch nước lại công bố lệnh ban hành luật giáo dục mới dựa
trên cơ sở những nội dung của luật ban hành năm 1998 đã được sửa đổi ở
nhiều điều khoản cho phù hợp với xu thế phát triển của đất nước, khu vực và
quốc tế.
Tại chương IV "nhà giáo" điều 70 luật đã ghi " 1: Nhà giáo là người
làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường cơ sở giáo dục khác". Về
chính sách điều 80 ghi " Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Nhà nước có
7
7
chính sách bồi dưỡng nhà giáo về chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình
độ chuẩn hoá nhà giáo. Nhà giáo được cử đi học nâng cao trình độ, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ được hưởng lương và phụ cấp theo quy định của
Chính Phủ". Điều 81 quy định về chế độ tiền lương; điều 82 quy định thêm về
chính sách đối với nhà giáo: Luật đã thể hiện cao nhất về việc phát triển
không ngừng nghỉ về cả số lượng, chất lượng, kinh tế và chính sách cho mọi
người làm công tác giáo dục và giảng dạy điều đó đã thể hiện tính ưu việt của
đường lối lãnh đạo của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước dành cho
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý Giáo dục - Đào tạo nói chung.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Quản lý là một nhu cầu xuất hiện rất sớm. Là một phạm trù tồn tại

khách quan được ra đời từ bản thân quá trình quản lý xã hội, quản lý con
người . Ở mỗi quốc gia, ở từng địa phương, đơn vị nó tồn tại từ nhiều đời nay.
Từ khi xã hội loài người xuất hiện biết tập trung nhau lại để chống trọi với
thiên nhiên và thú dữ. Tức là từ khi xã hội có sự phân công lao động và hợp
tác để lao động. Chính từ sự phân công hợp tác này nhằm đạt kết quả nhiều
hơn, cao hơn trong công việc. Để đạt được ước nguyện Êy phải có sự chỉ huy,
phối hợp điều hành, kiểm tra, nghĩa là có người đứng đầu. Hoạt động quản lý
được nảy sinh và phát triển từ nhu cầu tất yếu đó: C.Mác đã viết: " Bất cứ lao
động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô lớn đều
yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà sự hoạt động. Sự chỉ đạo đó phải
làm chức năng chung tức là chức năng phát sinh từ sự khác nhau của vận
động chung của cơ thể sản xuất với những hoạt động tác nhân của những khí
quan độc lập hợp thành cơ chế sản xuất đó. Một nhạc sỹ độc tấu thì tự điều
khiển lấy mình nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng". {1 trang
29;30}
8
8
Như vậy có thể nói hoạt động quản lý là tất yếu nảy sinh khi con người
lao động tập thể và tồn tại ở mọi loại hình tổ chức, ở mọi triều đại xã hội từ
đó khái niệm quản lý được nhiều tác giả đưa ra theo nhiều cách tiếp cận khác
nhau.
Ví như cách giải thích của từ điển Tiếng Việt:" Quản lý là một tổ chức
và điều hành các hoạt động theo những yêu cầu nhất định". {25 trang 789}
Theo Harol Koontz " Quản lý là một hoạt động thiết yếu bảo đảm sự
hoạt động nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức".
{9 trang 31}
Còn F.W Taylor khẳng định:" Quản lý là biết được chính xác điều bạn
muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc
một cách tốt nhất và rẻ nhất. {trang 89}
Theo AnNapu F.F:" Quản lý là một hệ thống xã hội chủ nghĩa là một

khoa học và là một nghệ thuật tác động vào một hệ thống xã hôị, chủ yếu là
quản lý con người nhằm đạt được những mục tiêu xác định. Hệ thống đó vừa
động, vừa ổn định bao gồm nhiều thành phần có tác động qua lại lẫn nhau.
{17 trang 75}
Thomas. J. Robins Wayned Morrison cho rằng:" Quản lý là một nghề
nhưng cũng là một nghệ thuật, một khoa học. {26 trang 19}
Theo M. Follet:" Quản lý là một nghệ thuật khiến cho công việc của
mình được thực hiện thông qua người khác "
Ở nước ta có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý:
Theo tác giả Nguyễn Văn Bình:" Quản lý là một nghệ thuật đạt được
mục tiêu đã đề ra thông qua điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt
động của những người khác". {14 trang 178}
Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn:" Quản lý là sự tác động có tổ chức, có
định hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến chuyển của môi trường. {3 trang 43}
9
9
Tác giả Mai Hữu Khuê thì quan niệm:"Quản lý là sự tác động có mục
đích tới tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định
và mục đích đã định trước. {11 trang 19;20}
Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ quan niệm rằng:"Quản lý là một quá
trình có định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý là một hệ thống là quá
trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những
mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý
mong muốn". {6 trang17}
Theo Nguyễn Ngọc Quang:" Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể quản
lý) nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến". {15 trang 24}
Qua đọc các khái niệm trên tuy nhấn mạnh mặt này hay mặt khác

nhưng điểm chung thống nhất đều xác định quản lý là hoạt động có tổ chức,
có mục đích nhằm đạt tới mục tiêu xác định. Trong công việc quản lý bao giờ
cũng có chủ thể quản lý, khách thể quản lý quan hệ với nhau bằng những tác
động quản lý.
Nói một cách khái quát nhất, có thể xem quản lý là: Một quá trình tác
động có chủ đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được
mục tiêu chung.
- Chức năng của hoạt động quản lý
Một dạng hoạt động quản lý đặc biệt mà thông qua đó chủ thể quản lý
tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định gọi là
chức năng quản lý. Có nhiều cách phân chia các chức năng quản lý, ở nước ta
trong quy trình quản lý người ta thường sử dụng các bước: Lập kế hoạch, tổ
chức, biên chế nhân sự, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra kết quả.
+ Lập kế hoạch là bước quan trọng cơ bản nhất trong số các bước nhằm
xác định khối lượng công việc, định mục đích chọn mục tiêu, khái quát các
công việc phải làm đặt ra những quy định, xây dựng biên pháp chọn cách thực
tế để tổ chức đạt đến mục tiêu đã chọn, nói một cách khác lập kế hoạch là dự
10
10
kiến những vấn đề, những ý tưởng của chủ thể quản lý để đạt được mục đích
và đi đến mục tiêu.
+ Tổ chức là bước xây dựng những quy chế đặt ra mối quan hệ giữa các
thành viên trong tổ chức, giữa các bộ phận với bộ phận trong tổ chức. Xác
định có tính định tính và định lượng chức năng nhiệm vụ giữa các thành viên,
giữa các bộ phận để thông qua đó chủ thể quản lý tác động đến các khâu, các
mắt xích trong tổ chức và đối tượng quản lý để đạt hiệu quả cao nhất. Thực
hiện được những chủ trương, định hướng của kế hoạch: LêNin đã từng nói về
công tác tổ chức:" Hãy cho tôi những người BônSê Vích chân chính có kỷ
luật tôi sẽ làm đảo tung đất nước Nga bảo thủ, man dợ".
+ Về biên chế nhân sự là việc bố trí sắp xếp các cương vị, các công

việc trong cơ cấu tổ chức. Dựa trên khả năng sở trường, sở đoản, trình độ
năng lực thông qua tuyển chọn sắp xếp cho phù hợp qua mỗi một công việc,
thời gian cần đánh giá khách quan để có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo điều
chỉnh con người sao cho công việc vẫn tiến hành thường xuyên, liên tục hiệu
quả cao hơn so với công việc bước đầu .
+ Chỉ đạo thực hiện là công việc thường xuyên của người quản lý,
phải đặt tất cả mọi hoạt động của bộ máy trong tầm quan sát và xử lý, ứng xử
kịp thời đảm bảo cho người bị quản lý luôn luôn phát huy tính tự giác và tính
kỷ luật. Nói một cách khái quát nhất đây là quá trình tác động gây ảnh hưởng
của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã định.
+ Kiểm tra đánh giá là nhiệm vụ quan trọng của người quản lý. Trong
công tác lãnh đạo, quản lý và chỉ huy: Bác Hồ đẫ từng nói:" Không có kiểm
tra đánh giá coi như không có lãnh đạo". Qua đó đủ thấy vai trò kiểm tra đánh
giá, rót ra bài học điều chỉnh mọi hoạt động của khách thể quản lý là việc làm
không thể thiếu của chủ thể quản lý.
1.2.2. Quản lý giáo dục và quản lý đào tạo.
- Quản lý giáo dục
11
11
Quản lý giáo dục là một bộ phận quan trọng trong quản lý xã hội. Theo
nghĩa rộng, quản lý giáo dục là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội.
Quá trình đó bao gồm các hoạt động giáo dục của bộ máy nhà nước, của hệ
thống giáo dục quốc dân, của các tổ chức xã hội, của gia đình Theo nghĩa
hẹp, quản lý giáo dục là những tác động có mục đích, có hệ thống có khoa
học, có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý, là qúa trình dạy và
học diễn ra trong các cơ sở giáo dục. Cũng như quản lý, quản lý giáo dục
cũng còn nhiều khái niệm.
+ Theo M.I Kondakop:"Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về số lượng cũng như chất

lượng". {7 trang 93}
+Theo P.V Khudominxky:" Quản lý là hệ thống giáo dục có thể hiểu
là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể
quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến
các trường, các Sở Giáo dục khác ) nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục
XHCN cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung
của Chủ nhĩa XH cũng như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát
triển thể lực, tâm lý trẻ em, thiếu niên và thanh niên. {8 trang 10}.
+Theo Phạm Minh Hạc:"Quản lý nhà trường(quản lý giáo dục nói
chung) là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm
của mình tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến
hành mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với ngành giáo dục với thế hệ trẻ và
với từng học sinh".{16 trang 61}
+ Theo Nguyễn Ngọc Quang:" Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý làm cho hệ
vận hành theo đường lối, nguyên lý của Đảng thực hiện được các tính chất
của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy, giáo
12
12
dục thế hệ trẻ, đưa thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến tiến lên
trạng thái về chất". {15 trang 7}
Trên cơ sở các khái niệm trên về quản lý giáo dục và đào tạo, có thể rót
ra khái niệm chung nhất như sau:
Quản lý giáo dục chính là quá trình tác động có định hướng của ngành
quản lý giáo dục trong việc vận dụng nguyên lý, phương pháp chung nhất của
khoa học nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Những tác động đó thực chất
là những tác động khoa học có kế hoạch quá trình dạy và học theo mục tiêu
đào tạo.
- Quản lý đào tạo
Đào tạo là một lĩnh vực bao gồm tất cả các hoạt động của nhà trường

nhằm cung cấp kiến thức và giáo dục học sinh, sinh viên. Đó là công việc kết
nối mục tiêu đào tạo, thiết kế chương trình đào tạo thực hiện chương trình và
các vấn đề liên quan đến giảng dạy, giám sát, đánh giá, kiểm tra cho điểm
cùng các quy trình đánh giá khác, các chính sách liên quan đến chuẩn mực và
cấp bằng ở lĩnh vực đào tạo chuyên nghiệp ở các cơ sở đào tạo.
Quản lý đào tạo là một quá trình tổ chức điều khiển, kiểm tra, đánh giá
các hoạt động đào tạo của toàn hệ thống theo kế hoạch và chương trình nhất
định nhằm đạt được các mục tiêu của toàn hệ thống.
- Chức năng của quản lý đào tạo
Mục tiêu của quản lý bao gồm việc ổn định duy trì quá trình đào tạo đáp
ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội trong giai đoạn trước mắt và đổi mới phát
triển quá trình đào tạo đón đầu những tiến bộ kỹ thuật và Kinh tế - Xã hội.
Để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý đào tạo cần tiến hành các
bước theo quy trình như sau:
+ Lập kế hoạch: dự kiến mọi hoạt động của giáo dục và đào tạo có
chương trình, mục tiêu, biện pháp cụ thể, rõ ràng. Dự kiến tường minh các
điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
13
13
+ Tổ chức và hình thành những cơ cấu cần thiết tương ứng với mục
tiêu đề ra.
+ Chỉ huy điều hành: Thực hiện nhiệm vụ tác nghiệp trong quá trình
thực hiện kế hoạch, trong khi điều hành nên tập trung chỉ huy điều hành một
cách nhịp nhàng thống nhất.
+ Kiểm tra: Sử dụng công tác kiểm tra thường xuyên, đột xuất quá
trình đào tạo đi đến việc đánh giá, tổng kết kinh nghiệm đào tạo và điều chỉnh
những phát sinh so với kế hoạch ban đầu để đạt được mục tiêu.
Như vậy quản lý đào tạo thực chất là quản lý các nội dung và các yếu
tố sau:
+ Mục tiêu đào tạo (M)

+ Nội dung đào tạo (N)
+ Phương pháp đào tạo (P)
+ Lực lượng đào tạo (chủ thể là thầy, cô) (Th)
+ Đối tượng đào tạo (chủ thể là học trò) (Tr)
+ Hình thức tổ chức đào tạo (H)
+ Điều kiện đào tạo (Đ)
+ Môi trường đào tạo (Mô)
+ Quy chế đào tạo (Q)
+ Bộ máy tổ chức đào tạo (B)
Trong quá trình duy trì công tác đào tạo các yếu tố trên luôn luôn vận
động và tác động qua lại lẫn nhau làm nảy sinh những tình huống do vậy các
nội dung phải kịp thời xử lý để công tác giáo dục, đào tạo và nhà trường phát
triển liên tục.
1.2.3. Phát triển đội ngũ giáo viên
Phát triển đội ngũ giáo viên có thể hiểu là một quá trình tăng tiến về
mọi mặt của đội ngũ giáo viên trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm
cả sự tăng thêm về quy mô, số lượng và chất lượng giáo viên. Đó là sự tiến bộ
14
14
về nhận thức, học vấn, khả năng chuyên môn đạt đến chuẩn và trên chuẩn của
yêu cầu, các tiêu chí dành cho giáo viên nói chung và giáo viên dạy nghề nói
riêng (đối với giáo viên dạy nghề còn phát triển tốt hơn về kỹ năng, kỹ xảo,
về tay nghề)
Trong đó phải đặc biệt chú ý đến sự phát triển bền vững:
Theo định nghĩa của hội đồng thế giới về phát triển bền vững (WCED)
thì "Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các yêu cầu hiện tại và có
khả năng thích ứng với yêu cầu của thế hệ kế tiếp sau".
Phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề đó là: Có đủ lực lượng giáo viên
cần thiết, tổ chức giảng dạy các lớp học sinh đúng quy chuẩn như: Học lý
thuyết không quá 35 em /lớp / thầy. Khi tổ chức thực hành nghề không quá 18

học sinh/ lớp/ thầy. (Điều 13 Quyết định 775 - BLĐTB - XH/ ngày
09/08/2001 về quy chế trường dạy nghề).
Nếu trước năm 2001 tỷ lệ giáo viên trên học sinh phụ thuộc vào từng
nhóm nghề, từng lớp học với khả năng tuyển sinh của mỗi trường thì từ năm
2001 đến nay tỷ lệ theo quyết định 775 - BLĐTB - XH là quy định bắt buộc.
Về chất lượng giáo viên trước năm 2001 để đào tạo công nhân bậc 3/7
giáo viên chỉ là những người tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật (đối giảng dạy lý
thuyết) người có tay nghề cao hơn đối tượng đào tạo một bậc là đủ chuẩn. Từ
2001 đến nay quyết định 775 - BLĐTB - XH quy định: "Giáo viên trường
dạy nghề giảng dạy lý thuyết Ýt nhất phải tốt nghiệp ở một trường Cao đẳng
sư phạm kỹ thuật, Đại học sư phạm kỹ thuật hoặc Cao đẳng kỹ thuật, Đại học
kỹ thuật ở một ngành nhất định phù hợp với ngành nghề đào tạo và phải được
học bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm bậc I và bậc II. Giáo viên hướng dẫn thực
hành phải có tay nghề kỹ thuật bậc 5/7 trở lên và những nghệ nhân của nghề
đào tạo ".
1.2.4. Biện pháp và bịên pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên
- Biện pháp
15
15
Theo "Từ điển tiếng Việt" (1992) thì bịên pháp là: "Cách làm, cách giải
quyết một vấn đề cụ thể". {25 trang78}
- Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ
Trong khái niệm về quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng thì
biện pháp quản lý là tổ hợp các cách thức hành động của chủ thể quản lý tác
động lên đối tượng quản lý để giải quyết những vấn đề cụ thể của hệ quản lý
nhằm làm cho hệ vận hành phát triển đạt được mục tiêu mà chủ thể quản lý đề
ra phù hợp với quy luật khách quan. Từ khái niệm trên chúng ta biết rằng các
biện pháp quản lý trong nhà trường là cách thức để người quản lý tiến hành
tác động vào đội ngũ giáo viên nhằm đạt được mục tiêu mà nhà trường đề ra.
1.2.5. Chất lượng và quản lý chất lượng đào tạo

- Chất lượng đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo
+ Chất lượng đào tạo
Chất lượng là khái niệm mang nhiều thiên ý về định tính bởi khái
niệm chất lượng rất rộng. Nói đến chất lượng ai cũng nghĩ đến những nét trìu
tượng mang ý nghĩa của định tính nó như nằm sâu trong phạm trù dạo đức nó
rất Ýt những tiêu chí mang tính cụ thể, khách quan. Giống như khái niệm về
văn hoá và uy tín, khái niệm chất lượng khi được đưa từ thực tiễn vào nghiên
cứu không còn mang đầy đủ đặc tính ban đầu nữa. Ý định đưa ra mét quan
niệm chính xác cho chất lượng là Ýt khả thi. Cách hiểu chất lượng theo quan
điểm của Sallis là dễ hiểu hơn cả, theo Sallis chất lượng được hiểu theo nghĩa
tương đối và nghĩa tuyệt đối.
Chất lượng mang ý nghĩa tuyệt đối: Trong cuộc sống hàng ngày chất
lượng được hiểu như là một sản phẩm mang ý nghĩa hoàn hảo hơn cả, nó
hoàn mỹ mà các thứ cùng chủng loại, kiểu cách có chuẩn mực rất cao cũng
không thể hoặc khó có thể vượt qua. Như vậy cũng có nghĩa là một tiêu chí
nào đó đặt ra luôn được đảm bảo giá trị và giá trị sử dụng tuyệt đối hơn cả.
16
16
Quan niệm chất lượng theo nghĩa tương đối: Một sản vật, một tiêu chuẩn
một dịch vụ hay bất kể một loại quan niệm nào đó được người ta gắn với nó.
Các sản vật, những dịch vụ được coi là chất lượng khi chúng đạt được những
chuẩn mực nhất định được quy định trước. Chất lượng không được coi là cái
đích mà nó được coi là phương tiện. Các sản vật thường dùng hàng ngày được
coi là chất lượng khi nó đạt được những tiêu chí chuẩn mực nhất định. Theo
cách hiểu của người tiêu dùng thì chất lượng là cái làm hài lòng, hoặc vượt
những nhu cầu và mong muốn của người sử dụng.
"Chất lượng đào tạo được hiểu là một tiêu thức phản ánh các mức độ của
kết quả hoạt động giáo dục và đào tạo có tính liên tục từ khởi đầu quá trình
đào tạo đến kết thúc quá trình đó". {20 trang 29}
Chất lượng đào tạo không được xem ở khâu cuối cùng, ở kết quả cuối

cùng của quá trình đào tạo. Theo lý thuyết điều khiển học nếu xem chất lượng
đào tạo là "đầu ra" thì "đầu ra" không tách khỏi được "đầu vào" mà nó được
nằm trong một hệ thống với khâu giữa là quá trình đào tạo (hoạt động dạy và
học) của thầy và trò.
Khái niệm chất lượng đào tạo liên quan chặt chẽ với khái niệm hiệu
quả đào tạo, nói đến hiệu quả đào tạo là nói đến các mục tiêu đã đạt ở mức độ
nào, sự đáp ứng kịp thời các yêu cầu của nhà trường và sự chi phí tiền của,
sức lực, thời gian sao cho Ýt nhất nhưng đem lại hiệu quả nhất. Vì thế chất
lượng đào tạo có thể xem là giá trị sản phẩm mà quá trình dạy học - giáo dục
mang lại lợi Ých cho xã hội, nhà trường, gia đình và học viên. Trong điều
kiện nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay. Chất lượng đào tạo là một khái
niệm tương đối, nó phụ thuộc vào yêu cầu khách quan của người sử dụng lao
động chứ không do ý chí của người làm công tác đào tạo quy định.
Chất lượng đào tạo chịu tác động bởi rất nhiều khâu nhưng trong đó có
6 khâu quan trọng nhất đó là:
* Mục tiêu, nội dung, chương trình phương pháp giáo dục và đào tạo
17
17
* Những vấn đề quản lý, cơ chế quản lý, các quy chế, cách thức tổ
chức kiểm tra đánh giá chất lượng
* Đội ngũ giáo viên
* Tập thể học sinh
* Cơ sở vật chất kỹ thuật và tài chính
* Chế độ sử dụng và đãi ngộ đối với người được đào tạo
Mức độ tác động của 6 khâu nói trên không như nhau. Vì vậy để nâng
cao chất lượng đào tạo cần phải tìm các biện pháp trong các khâu đó.
- Nâng cao chất lượng đào tạo
Nâng cao chất lượng đào tạo là sự cải tiến các tác động vào các khâu
trong quá trình đào tạo nhằm thu được hiệu quả giáo dục và đào tạo cao nhất.
Như vậy nâng cao chất lượng đào tạo chính là sự cải tiến hệ thống tổ hợp các

biện pháp để tăng hiệu quả, hiệu suất của mọi khâu trong quá trình đào tạo
nhằm đạt kết quả đào tạo cao nhất.
Nâng cao chất lượng đào tạo đòi hỏi cải tiến liên tục ở mọi khâu, mọi
công đoạn, mọi thời gian đào tạo có liên quan tới người dạy, người học, người
quản lý, người phục vụ…
1.3. Phát triển đội ngũ giáo viên - yếu tố quyết định việc nâng cao chất
lượng đào tạo nghề
- Trong ngành Giáo dục - Đào tạo cũng có khá đông lực lượng nhân
viên kỹ thuật, nghiệp vụ làm công việc ở các ngành khác, không phải là "nhà
giáo". Như Bác Sỹ, Kế toán, nhân viên thư viện, lái xe, văn phòng, bảo vệ, kỹ
thuật viên phụ trách các phòng thí nghiệm. Thiết bị khoa học kỹ thuật ….
nguồn nhân lực này cũng cần được tuyển dụng, quản lý phù hợp với đặc điểm
tính chất của ngành giáo dục với môi trường lao động sư phạm.
- Tuy nhiên nói đến nguồn nhân lực giáo dục phải đề cập đến đội ngũ
nhà giáo, lực lượng sư phạm chủ yếu trong hệ thống giáo dục quốc dân là các
cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên, giảng viên.
18
18
- Trong xã hội để việc hình thành nhân cách cho các thế hệ kế tiếp sau.
Quan điểm của Đảng, của Bác Hồ coi nhân cách là một chủ thể xã hội có ý
thức trong hoạt động và giao tiếp xã hội.
- Theo Phạm Minh Hạc "Con người với tư cách là tột đỉnh tiến hoá của
thế giới sinh vật và tiếp tục phát triển con người thành cá thể rồi cá nhân và
nhân cách. Khi con người là đại diện của loài ta gọi là cá thể. Với tư cách
thành viên xã hội ta gọi là cá nhân như là thực thể độc lập và khi nó có đủ khả
năng để trở thành chủ thể của hoạt động học tập, lao động, vui chơi, con
người trở thành nhân cách".
- K.K Platonop quan niệm " Nhân cách một con người với tư cách là tồn
tại có ý thức, có lý trí, có ngôn ngữ và năng lực hoạt động, lao động. Nhân cách
không tồn tại bên ngoài xã hội, bởi vì chỉ có trong xã hội, trong tập thể, mỗi con

người mới được hình thành như là một nhân cách và được thể hiện trong việc
tiếp xúc với những người khác. Nói một cách ngắn gọn, nhân cách, đó là một
con người có tư cách là một vật (chủ thể) mang ý thức". Ông còn nhấn mạnh "
con người và nhân cách, khác với con vật ở chỗ họ có ý thức. Mọi thuộc tính và
đặc điểm của nhân cách con người, do các tư chất bẩm sinh quy định, đều được
thể hiện và hình thành trong hoạt động của họ. Đồng thời hoạt độnh của con
người lại phụ thuộc vào các đặc điểm và thuộc tính nhân cách của họ"… Học
thuyết về sự thống nhất giữa nhân cách và hoạt động của nó là tư tưởng cơ bản
của tâm lý học, Xô viết, và chỉ có trên cơ sở của sự thống nhất đó mới có thể
nghiên cứu có kết quả những mặt khác nhau cảu nhân cách". Theo quan điểm
này K.K Platonop rất phù hợp với quan niệm " Cấu trúc nhân cách hai thành
phần" của người Việt Nam chóng ta thường dùng đó là "Tâm" và "Tài". Hay
theo Hồ Chí Minh "Đức" và "Tài", phẩm chất và năng lực. (cụm thừ này có rất
nhiều trong các văn bản của Đảng, Nhà Nước).
- Như vậy quá trình hướng nghiệp, tuyển chọn, đào tạo, quản lý, sử dụng,
đánh giá lao động sư phạm ở các cấp trình độ với tư cách là nhân cách nhà
giáo của xã hội Việt Nam trong điều kiện lịch sử của thời kỳ Công nghiệp
19
19
hoá, hiện đại hoá đất nước. Với quan điểm này của các bộ Đảng việc phát
triển đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên dạy nghề nói riêng chính là cơ sở,
là điều kiện của việc tạo ra những "máy cái" để sản sinh ra những "máy con"
hay nói đúng hơn đó là cách rèn đúc ra những "Khuôn mấu tinh xảo, chuẩn
mực, ưu việt" để từ đó làm cơ sở cho việc tạo ra hàng loạt những sản phẩm có
giá trị về mặt xã hội tiêu chuẩn về Pháp luật, chuẩn mực về quy phạm đạo
đức.
- Nhà giáo là những người luôn có lý tưởng, hoài bảo nghề nghiệp, trách
nhiệm xã hội và mong muốn giáo dục, đào tạo ra những con người đáp ứng
mong đợi của xã hội. Nhà giáo là những người có khả năng hội đủ các yếu tố
như:

+ Năng lực hiểu học sinh.
+ Trí thức và tầm hiểu biết của nhà giáo
+ Năng lực chế biến tài liệu học tập
+ Năng lực dạy học
+ Năng lực ngôn ngữ
+ Năng lực giao tiếp sư phạm
+ Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục
+ Năng lực nghiên cứu khoa học
- Nhà giáo có vị thế và vai trò trong xã hội đó là:
+ Vị thế của nhà giáo trong giáo dục truyền thống
+ Vị thế của nhà giáo trong xã hội hiện đại
+ Vai trò xã hội của nhà giáo
+ Vai trò nhà chuyên môn
+ Vai trò nhà giáo dục
+ Vai trò người tổ chức
+ Vai trò người cố vấn
- Phát triển đội ngũ giáo viên còn bao hàm cả phát triển số lượng, phát
triển khả năng chuyên môn. Khả năng về sư phạm, khả năng nắm bắt những
20
20
tâm tư tình cảm của học sinh để kịp thời phát huy vai trò nhà giáo dục, nhà tổ
chức và người cố vấn.
- Ở các cơ sở đào tạo nghề nói chung, ở trường Kỹ thuật Phát thanh -
Truyền hình Thanh Hoá nói riêng, có được đông đảo giáo viên giỏi ở tay
nghề, thành thục phương pháp giảng dạy, có đủ phẩm chất và tiêu chất của
nhà giáo đó chính là yếu tố quyết định để nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Không ai khác chính là đội ngũ giáo viên mới có khả năng nâng cao chất
lượng trong Giáo dục - Đào tạo, trong hướng nghiệp và dạy nghề mới giúp
cho học sinh thân yêu của mình biết yêu nghề, biết phát huy năng lực và sức
mạnh nội sinh của mình.

1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc quản lý phát triển đội ngũ giáo viên
1.4.1. Những yếu tố khách quan.
Đất nước ta từ khi thực hiện chính sách mở cửa đến nay với phương
châm đa phương hoá các quan hệ. Xu thế tham gia hội nhập ở khu vực và
thế giới đang đòi hỏi Đảng phải tích cực đổi mới về chiến lược và sách lược
trong đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp Công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước.
Sau nghị quyết TW 2 khoá 8 Đảng, Nhà nước đã công bố luật giáo dục
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 06 năm 1999. Xác định Giáo dục - Đào tạo là
quốc sách hàng đầu, đầu tư cho Giáo dục là đầu tư cho sự phát triển.
Tháng 07 năm 2005 luật giáo dục tiếp tục được sửa đổi. Chính sách cho
giáo dục và đào tạo càng được khẳng định chắc chắn hơn nữa. Đảng và Nhà
nước đã đưa công tác giáo dục và đào tạo thành xã hội hoá trong giáo dục.
Mọi tầng lớp nhân dân, mọi người mọi cấp, mọi ngành đều phải quan tâm đến
giáo dục đào tạo.
Yêu cầu mới đối với giáo viên trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước đó là tăng nhanh tỷ trọng phát triển công nghiệp, dịch vụ, do
vậy mỗi giáo viên trong tình hình mới đều phải tự đào tạo và tự đào tạo lại
21
21
nhằm làm cho kỹ năng tay nghề khả năng chuyên môn ngang tầm với quốc tế
và khu vực đó là nhanh tróng đưa đất nước Việt Nam nói chung và các cơ sở
đào tạo của mình nói riêng sớm hoà vào dòng thác phát triển công nghiệp,
dịch vụ và du lịch của "Những con rồng Châu Á"
Trong nhân dân nhận thức về đào tạo nghề đã có một bước chuyển đổi
nhảy vọt xã hội đã quý trọng tay nghề, người công nhân có kỹ thuật khả năng
và cơ hội tìm kiếm việc làm đã dể dàng hơn, sức lao động đã được đề cao
hơn.
1.4.2. Những yếu tố chủ quan.
- Đội ngũ giáo viên

+ Tại Nghị quyết TW II khoá VIII của BCHTW Đảng đã khẳng
định: "Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội
tôn vinh, giáo viên phải có đủ đức, tài". Vì lẽ đó nhà trường phải quan tâm
phát triển tài lực, nhân cách của người thầy giáo điều đó được thể hiện ở các
mặt:
+ Người thầy giáo phải nắm vững kiến thức chuyên môn, kỹ thuật,
thuộc chương trình giảng dạy, các kiến thức liên quan và phải có trình độ tay
nghề thành thạo.
+ Người thầy giáo phải có phẩm chất đạo đức tốt, nhà giáo dục phải có
kiến thức sư phạm nghề nghiệp vững chắc, có kỹ năng học thành thạo và có
hiệu quả.
- Cán bộ quản lý đào tạo
Để quản lý có hiệu quả thì người quản lý trực tiếp cần phải am hiểu
chuyên môn, kỹ thuật, nghề nghiệp theo các chuyên ngành đào tạo của nhà
trường, đồng thời phải có kiến thức và năng lực quản lý nhất định đáp ứng
được với các hoạt động đào tạo của nhà trường. Người cán bộ quản lý cần
phải:
22
22
+ Thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường bằng cách đồng thời giao
nhiệm vụ cho người khác sao cho phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo
một cách có hiệu quả nhất của người được giao nhiệm vụ.
+ Chịu trách nhiệm bảo đảm các mục tiêu đào tạo của nhà trường được
thực hiện một cách chuẩn xác, khoa học và đúng kế hoạch.
+ Thường xuyên tìm cách tiếp thu vận dụng cái mới vào trong công tác
quản lý đào tạo.
+ Khi triển khai công việc cần phải hướng dẫn cụ thể và giám sát chặt
chẽ trong quá trình thực hiện.
- Phương tiện dạy học và cơ sở vật chất kỹ thuật
Ở tất cả các trường dạy nghề và cơ sở sản xuất có dạy nghề thì phương

tiện dạy học và cơ sở vật chất của trường, của cơ sở đào tạo là những yếu tố
rất quan trọng. Nó góp phần quyết định chất lượng đào tạo của nhà trường để
đảm bảo về yêu cầu cơ sở vật chất phục vụ đào tạo nên cần phải:
+ Cung cấp đầy đủ thiết bị máy móc, phương tiện kỹ thuật, nguyên,
nhiên vật liệu cần thiết cho quá trình đào tạo.
+ Thường xuyên mua sắm bổ sung thêm trang thiết bị, sửa chữa, nâng
cấp, kéo dài tuổi thọ của thiết bị, nhà xưởng, phòng học, phòng thí nghiệm,
thư viện Đáp ứng được nhu cầu giảng dạy và học tập của giáo viên và học
sinh.
+ Cung cấp đầy đủ giáo trình sách tham khảo, sách giáo khoa phục vụ
cho giảng dạy và học tập.
+ Trang bị các phương tiện hỗ trợ dạy học hiện đại nhằm nâng cao
hiệu quả dạy học, học sinh nắm được những thiết bị mới không bỡ ngỡ,
choáng ngợp trước những thiết bị tiên tiến ngay từ khi ra trường hoặc đến làm
việc ở những cơ quan, xí nghiệp trong và ngoài nước.
1.5. Các mô hình quản lý giáo dục nghề nghiệp ở một số nước trên thế
giới
23
23
Đã nhiều thập kỷ qua, rất nhiều nước trên thế giới đã duy trì sự tồn tại
của giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân của mình. Loại
hình giáo dục này nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ Cao đẳng nghề,
Trung cấp nghề, kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ, Công nhân kỹ thuật
nhằm đáp ứng sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đặc điểm của đội ngũ
nhân lực Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề nhân viên kỹ thuật, Công nhân kỹ
thuật có tương xứng với yêu cầu của quốc gia đó hay không phần nhiều phụ
thuộc vào năng lực đào tạo của địa phương và chính phủ đó quy định. Đây
chính là lực lượng đông đảo để làm phong phú, đa dạng và đáp ứng yêu cầu
của nguồn nhân lực. Việc nghiên cứu mô hình tổ chức và quản lý giáo dục
nghề nghiệp ở một số quốc gia sẽ giúp ta so sánh, tham khảo và vận dụng một

cách sáng tạo vào cách thức quản lý giáo dục nghề nghiệp ở nước ta trong giai
đoạn Cách mạng mới.
1.5.1. Ở Cộng hòa liên bang Đức
Giáo dục chuyên nghiệp là một bộ phận trung học cấp hai của hệ thống
giáo dục quốc dân với các loại hình trường đa dạng. Ngoài trường phổ thông
mang tính không chuyên nghiệp chỉ nhằm mục tiêu đào tạo chuẩn bị lên Đại
học còn có các trường phổ thông chuyên nghịêp, trường hỗn hợp Học sinh
các loại trường này có thể vào học ở các trường Đại học chuyên nghành. Ở
trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề sau khi học xong học sinh được
phép vào học trường Cao đẳng còn với các loại hình trường dạy nghề khác tại
nhà trường, xí nghiệp Sau khi tốt nghiệp chủ yếu học sinh ra làm việc sơ
cấp. Do các loại hình trường rất đa dạng nên không có mô hình tổ chức quản
lý đồng nhất giữa các trường nhất là các bang khác nhau, có trường công lập,
trường tư thục, có trường thuộc công ty tư nhân chuẩn bị phần nhân lực cho
công ty mình Do đó khó có thể tìm thấy hệ thống mô hình chung, những
nét chung nhất về tổ chức quản lý đã được quy định trong Bộ luật giáo dục
24
24
của toàn Liên Bang và được cụ thể hoá trong bộ luật và quy chế của từng
Bang
1.5.2. Ở Cộng hòa Pháp
- Trong hệ thống giáo dục quốc dân của Pháp thì giáo dục chuyên
nghiệp là một bộ phận của giáo dục trung học. Bậc trung học của Pháp có 3
loại trường.
+ Trường Phổ thông sơ trung
+ Trường Trung học phổ thông và công nghệ
+ Trường Trung học chuyên nghiệp.
- Trường trung học chuyên nghiệp ở Pháp không chỉ đào tạo kỹ thuật
viên, cán bộ trung cấp mà còn đào tạo cả công nhân.
- Về bộ máy tổ chức của nhà trường có một Hiệu trưởng do Trưởng Bộ

Giáo dục trực tiếp chỉ định. Bên cạnh Hiệu trưởng có Hội đồng nhà trường có
vai trò tư vấn về các vấn đề ngân sách, nội quy, quy định của nhà trường,
quyết định các vấn đề thực hiện các điều khiển về luật và quy chế trong nhà
truờng và các vấn đề tài chính.
- Hội đồng nhà trường gồm:
+ 1 Chủ tịch hội đồng
+ 1 thành viên thực hiện kểm tra việc quản lý hành chính và
chuyên môn
+ 5 đại biểu giáo viên
+ 5 đại biểu địa phương sở tại của trường.
1.5.3. Ở Nhật Bản và Hoa Kỳ
- Trường trung học chuyên nghiệp được đào tạo dài hạn 5 năm. Thông
thường ở các nước này, các loại trường tư thuộc vào các công ty tư nhân mà
công ty của họ khá lớn. Các nhà trường trong công ty đào tạo công nhân ngay
trong công ty mình và có thể đào tạo cho công ty khác theo hợp đồng. Mô
25
25

×