Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Các hình thức tổ chức công tác tuyên huấn trong sinh viên sư phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.43 KB, 103 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vị trí tầm quan trọng công tác tuyên huấn trong các trường sư phạm
Công tác tuyên huấn nói chung và trong các trường đào tạo chuyên
nghiệp nói riêng, nơi đào tạo những cán bộ, chuyên gia chuyên ngành cho
đất nước phát triển luôn luôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Trong những
ngày đầu vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
đã chăm lo, đào tạo, huấn luyện những thanh niên yêu nước trong các tổ
chức Tâm tâm xã, Cộng sản đoàn, giác ngộ họ và trở thành Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng vĩ đại và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, nhân
dân ta đã giành được độc lập dân tộc, thống nhất đất nước hoàn toàn và
đang vững bước tiến vào thế kỷ XXI trên con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Làm nên những thành tựu vĩ đại đó có lực lượng to lớn là thanh niên,
học sinh, sinh viên. Mỗi bước trưởng thành của dân tộc Việt Nam đều có
tuổi trẻ tham gia nhiệt tình và sáng tạo, được Đảng tổ chức, lãnh đạo, giáo
dục, tuyên truyền và huấn luyện. Thực chất đó chính là công tác tuyên huấn
của Đảng, của các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội.
Ngày nay, cả nước đang ra sức thực hiện hai niệm vụ chiến lược
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc thống
nhất, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
"Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp", như Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định. Muốn vậy, phải khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn
lực (nhất là nguồn nội lực), chiến lược con người có vai trò quyết định nhất
đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Điều đó, đã được ghi rõ
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội: "Giáo dục và đào tạo gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát
triển khoa học, kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới
1
Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách


hàng đầu" [1, tr. 13].
Luật Giáo dục, trong phần đầu nêu rõ:
"Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà
nước và của toàn dân.
Để phát triển sự nghiệp giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý nhà
nước về giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh" [3, tr. 7].
"Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành
với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc" [3, tr. 8].
Như vậy, vai trò của giáo dục đào tạo cực kỳ quan trọng, nhưng
trong tính thống nhất hoàn chỉnh giữa năng lực và phẩm chất, không thể
thiếu công tác giáo dục chính trị tư tưởng nói chung và công tác tuyên huấn
nói riêng trong nhà trường, đặc biệt quan trọng hơn là đối với sinh viên các
trường sư phạm. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài: Các hình thức tổ
chức công tác tuyên huấn trong sinh viên sư phạm để xây dựng đề tài
nghiên cứu, hy vọng góp phần vào tổng kết những hình thức tuyên huấn
phù hợp với sinh viên các trường đại học và cao đẳng sư phạm.
Chuẩn bị hành trang cho thế hệ trẻ bước vào thời kỳ mới là một
công việc cực kỳ to lớn, có ý nghĩa trọng đại. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã khẳng định: "Sự nghiệp
đổi mới có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị
trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có
vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không là tùy thuộc vào lực
2
lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Công

tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, quyết định sự thành bại của
cách mạng Việt Nam".
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Công tác chính trị tư tưởng trong các trường học và các tổ chức
chính trị xã hội luôn luôn đặt ở vị trí chiến lược hàng đầu trong chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, là nội dung chủ yếu trên mặt trận tư
tưởng. Mỗi giai đoạn thời kỳ cách mạng Đảng đã xác định, lựa chọn những
hình thức, biện pháp tuyên huấn cho phù hợp nhằm đạt được mục tiêu cụ
thể, tiến tới giành mục tiêu chiến lược lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Sau thắng lợi mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất hòa
bình cùng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Chính phủ đã có nhiều
chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo, hướng dẫn các cấp, các ngành thực hiện tốt
công tác chính trị tư tưởng. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, và nhất là khi
Liên Xô và hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu khủng hoảng
toàn diện, sụp đổ, thì công tác chính trị tư tưởng lại càng được quan tâm hơn.
Ngày 3/8/1977, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IV) đã ra Chỉ thị 14
CT/TW về việc tổ chức đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng,
xuất phát từ tình hình cách mạng nước ta đã chuyển từ chiến tranh sang
thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước. Tình hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi
phải tăng cường công tác tuyên huấn, tuyên truyền trực tiếp, phải nhanh
chóng xây dựng và củng cố đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên là lực
lượng tuyên truyền có tổ chức của Đảng. Chỉ thị 14 CT/TW khẳng định:
"Đó là công cụ quan trọng hàng đầu trong việc tuyên truyền, giáo dục
đường lối chính sách, truyền bá những quan điểm của Đảng về những vấn
đề thời sự lớn, về những vấn đề mới đặt ra trong cuôc sống, trong công
cuộc xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới, con người
mới, hướng dẫn sự suy nghĩ và hành động của toàn dân theo Nghị quyết
của Đại hội Đảng". Ngày 7 tháng 6 năm 1997, Thường vụ Bộ Chính trị ra
3
Thông báo số 71-TB/TW về việc tăng cường lãnh đạo và đổi mới công tác

tuyên truyền miệng. Hội nghị toàn quốc về công tác tư tưởng văn hóa hàng
năm, và đặc biệt tại thành phố Hồ Chí Minh tháng 3 năm 1999 có ý nghĩa
quan trọng. Báo cáo công tác tư tưởng văn hóa năm 1998, phương hướng
nhiệm vụ năm 1999 đã khẳng định vị trí vai trò công tác tư tưởng, văn hóa
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phương
hướng chung cần nắm vững là nâng cao ý chí kiên định những vấn đề có
tính nguyên tắc của cách mạng mà Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) đã nêu
lên về mục tiêu lý tưởng, nền tảng tư tưởng, nguyên tắc sinh hoạt Đảng,
nâng cao sù thống nhất ý chí và hành động theo Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị
quyết của Đảng và pháp luật Nhà nước. Nêu cao tinh thần chủ động, sáng
tạo, ý thức cần kiệm, vượt qua khó khăn, thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã
hội hàng năm. Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống theo gương Bác Hồ,
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí của công.
Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống các quan điểm
sai trái của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội
Ngày 30/5/1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 34-CT/TƯ "về
tăng cường công tác chính trị, tư tưởng; củng cố các tổ chức đảng, đoàn
thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các trường học".
Trong khi chăm lo đào tạo toàn diện, chúng ta cần đặc biệt chú trọng giáo
dục nhân cách, giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức cho học sinh, sinh
viên. Muốn thế, cần làm tốt công tác tuyên huấn, giáo dục chính trị tư
tưởng trong nhà trường, trước hết là đối với cán bộ, đảng viên, học sinh,
sinh viên.
Tất cả các Chỉ thị, Thông báo, Hướng dẫn của Trung ương đều
khẳng định vị trí của công tác tuyên huấn, báo cáo viên, tuyên truyền viên
là lực lượng nòng cốt, chủ lực, là công cụ quan trọng hàng đầu trong việc
tuyên truyền giáo dục quan điểm đường lối nghị quyết của Đảng, đưa tiếng
nói của Đảng trực tiếp đến với các cán bộ đảng viên và quần chúng. Và là
người góp phần hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mọi người theo
4

đường lối, nghị quyết của Đảng (tính định hướng), đồng thời cũng là người
nắm bắt và hướng dẫn dư luận xã hội.
Hàng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị công tác tư
tưởng, chính trị trong các trường đại học và cao đẳng. Tổng kết những việc
đã làm được, những yếu kém hạn chế, đề xuất những biện pháp để làm tốt
hơn công tác giáo dục tư tưởng chính trị, công tác tuyên huấn trước yêu cầu
ngày càng cao của cách mạng.
Hạn chế lớn nhất hiện nay của công tác tuyên huấn trong các trường
sư phạm là chưa làm rõ tính đặc thù của ngành. Chưa hệ thống hóa nội
dung cơ bản nhất trực tiếp đến công tác giáo dục - đào tạo và ngành sư
phạm. Hình thức tuyên huấn chưa được đổi mới, cả nội dung nhất là biện
pháp và điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật.
3. Điểm mới của đề tài
- Hệ thống hóa những hình thức tuyên huấn cơ bản nhất đối với
sinh viên sư phạm với nội dung phù hợp với ngành sư phạm - đào tạo giáo
viên có chất lượng cao toàn diện phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc.
- Cung cấp những tư liệu lịch sử về truyền thống dân tộc Việt Nam,
về Đảng Cộng sản Việt Nam, về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về tuổi trẻ, về
Ngành Sư phạm và trường Đại học Sư phạm Hà Nội hơn 50 năm xây dựng
và phát triển, với những hình thức tổ chức tuyên huấn phong phú, thích
hợp. Qua đó sinh viên có cơ sở tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc,
của Ngành Sư phạm, của Nhà trường và nêu cao trách nhiệm làm vẻ vang
thêm trang sử chói lọi đó.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu các hình thức tổ chức công tác tuyên huấn
trong sinh viên, nhằm góp phần đánh giá đúng thực trạng của việc tuyên
truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác tuyên huấn đối với sinh viên
sư phạm trong thời gian vừa qua. Từ đó đưa ra những giải pháp những hình
5

thức tuyên huấn cho phù hợp, nhằm làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền,
giáo dục về mọi mặt đối với sinh viên sư phạm trong thời gian tới.
Đề tài tập trung giải quyết một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Tìm hiểu khái niệm tuyên huấn và đề xuất những nội dung cơ bản
của công tác tuyên huấn cần được giáo dục và rèn luyện lý tưởng cách
mạng đối với sinh viên hiện nay.
- Thông qua nghiên cứu, điều tra xã hội học để đánh giá thực trạng
việc đào tạo chính trị tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục đối với sinh viên
sư phạm.
- Xác định các giải pháp chủ yếu và những hình thức tuyên huấn
nhằm làm tốt hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tuyên huấn, rèn luyện
phÊn đấu trở thành những giáo viên vừa "hồng" vừa "chuyên" ở các trường
sư phạm.
5. Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó đặc biệt chú ý sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học.
Đề tài bám sát các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, của
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đề tài có tham khảo một số kết quả của các công
trình nghiên cứu có liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài góp phần làm rõ khái niệm và cấu trúc của
phạm trù tuyên huấn, tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng. Đề xuất
một số nội dung cần chú trọng khi tuyên truyền giáo dục đối với sinh viên.
Đưa ra những giải pháp nhằm làm tốt hơn nữa công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng; đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục đối với sinh viên các
trường sư phạm.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài
liệu tham khảo cho cán bộ, sinh viên các trường sư phạm và mọt số trường
6

khác trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên huấn đối với sinh
viên.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài cấu tạo gồm 3 chương:
Chương 1: Công tác tuyên huấn và những nội dung cơ bản cần
giáo dục và rèn luyện đối với sinh viên sư phạm
Chương 2: Thực trạng công tác tuyên huấn, giáo dục chính trị
tư tưởng đối với sinh viên sư phạm
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt hơn
nữa công tác tuyên huấn, giáo dục chính trị tư
tưởng đối với sinh viên sư phạm trong giai đoạn
mới
8. Kế hoạch thực hiện và những hình thức sản phẩm của đề tài
- Đề tài được thực hiện trong hai năm (1999, 2000).
Sau khi được phê chuẩn và cấp kinh phí, Ban Chủ nhiệm đề tài tổ
chức lực lượng nghiên cứu, cộng tác viên và tư vÊn khoa học. Từ tháng
6/1999 đến tháng 12/1999 tập hợp tư liệu và nghiên cứu lý luận cơ bản. Từ
tháng 01/2000 đến tháng 12/2000 tiến hành thông qua hoàn thiện đề tài. Từ
tháng 01/2001 đến tháng 5/2001 góp ý, sửa chữa và nghiệm thu đề tài.
- Đề tài có một bộ phận sản phẩm gồm các chuyên luận, các báo
cáo thực tế, báo cáo tổng quan nghiên cứu (toàn văn và tóm tắt) có thể
được sử dụng trong và ngoài trường.
7
Chương 1
CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
CẦN GIÁO DỤC VÀ RÈN LUYỆN ĐỐI VỚI SINH VIÊN SƯ PHẠM
1. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN, GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG
TRONG VIỆC HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH SƯ PHẠM
Vị trí vai trò công tác tuyên huấn
Công tác tuyên huấn, giáo dục chính trị tư tưởng trong các trường

học nói chung và trong các trường sư phạm nói riêng có ý nghĩa to lớn, góp
phần vào quá trình hoàn thiện nhân cách sư phạm - những thầy giáo, cô
giáo đóng vai trò quyết định chất lượng giáo dục, sự phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước.
Công tác tuyên huấn là tuyên truyền và huấn luyện. Tuyên truyền:
giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi người tán thành, ủng hộ làm theo
những chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, của Chính phủ, pháp luật
của Nhà nước. Nội dung chủ yếu của tuyên truyền là đường lối, chính sách
của Đảng.
Công tác là công việc của nhà nước hoặc đoàn thể. Các hình thức
công tác tuyên huấn - Đó là cách thể hiện, cách tiến hành một hoạt động,
dùng nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục.
Mỗi giai đoạn của cách mạng đều có nội dung và các hình thức
tuyên huấn riêng cho phù hợp. Song đều thống nhất ở mục đích của công
tác tuyên huấn là giải thích rõ những nội dung cơ bản đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước, tổ chức vận động đông đảo quần chúng nhân dân
sáng tạo tham gia trở thành cao trào cách mạng, hoàn thành thắng lợi mục
tiêu giành độc lập dân tộc hoàn toàn, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nếu trước
đây, mục tiêu đấu tranh là chống các đế quốc xâm lược và các thế lực thù
địch giành độc lập cho dân tộc, đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột
8
giành ruộng đất cho dân cày - vấn đề dân chủ cho nông dân; thì ngày nay,
cả nước hòa bình thống nhất, mục tiêu phấn đấu của dân tộc Việt Nam là
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc thống
nhất - đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Trong chặng đường tiếp
theo, phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng, văn hóa, giáo dục chính trị
nói chung và công tác tuyên huấn nói riêng là làm cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân quán triệt sâu sắc và đầy đủ về những quan điểm chỉ đạo,

những nguyên tắc đường lối chính trị - đường lối đổi mới đúng đắn của
Đảng, nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa [6] - như Văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
đã khẳng định.
Ngay trong quá trình vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã
thấy rõ khả năng to lớn của thanh niên. Những thanh niên, học sinh, sinh
viên ưu tú đều được Bác Hồ rèn luyện, giáo dục, vận động tuyên truyền,
giác ngộ. Người đã lựa chọn được những thanh niên ưu tú trong tổ chức
Tâm tâm xã, giác ngộ họ và lập ra nhóm Cộng sản đoàn vào tháng 2 năm
1925, gồm có 9 người. Đó là một trong những tổ chức cơ sở của Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt
Nam do Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Trong tác
phẩm Đường cách mệnh, trong khi Người khẳng định "công nông là chủ, là
gốc cách mệnh", thì "học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của
cách mệnh". Như vậy, thanh niên học sinh, sinh viên là lực lượng quan
trọng của cách mạng - là tương lai của dân tộc đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh sớm phát hiện và là người Việt Nam đầu tiên thấy được sức mạnh,
sức sáng tạo của tuổi trẻ. Thư gửi các học sinh nhân dịp ngày khai trường
đầu tiên (tháng 9 năm 1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Non sông
Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
9
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em".
Công tác tuyên huấn, với nhiệm vụ trọng tâm là giáo dục truyền
thống về dân tộc anh hùng, Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhằm góp phần quan trọng giáo dục tư tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống, tinh thần tự lực, tự cường sáng tạo, trách nhiệm
của tuổi trẻ nói chung và của thanh niên, sinh viên các trường đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp nói riêng; hình thành nhân cách con người

mới xã hội chủ nghĩa: yêu nước, lao động sáng tạo, làm chủ, và có tinh thần
quốc tế trên lập trường của giai cấp công nhân. "Đó là những con người
phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới,
đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội" [5, tr. 5]. Vì vậy, mọi chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải quán triệt việc chăm sóc, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế
hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hóa đất nước.
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN GIÁO DỤC VÀ RÈN LUYỆN
ĐỐI VỚI SINH VIÊN SƯ PHẠM
Do mục tiêu đào tạo của các trường sư phạm nhằm đào tạo những
thầy giáo, cô giáo có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực nghề nghiệp giỏi -
những chuyên gia chuyên trách của ngành sư phạm. "Cần kết hợp giáo dục
bề rộng mang tính chất đa ngành với giáo dục về một ngành, nghề, thường
là liên ngành, tập trung vào các kỹ năng và năng lực, hai loại giáo dục này
làm cho cá nhân có khả năng sống trong nhiều hoàn cảnh luôn biến động,
hành động có hiệu quả và có thể thay đổi nghề nghiệp. Tất cả những điều
này đòi hỏi ở người thầy rất nhiều, nhất là ở phương pháp giảng dạy,
phương pháp truyền thụ kiến thức, nó tùy thuộc ở trình độ, năng lực và
phong cách của người thầy. Ở đây, chúng ta đang nói đến một ngành khoa
10
học: khoa học sư phạm, một lĩnh vực quan trọng bậc nhất của nền giáo dục
bất cứ ở mức độ nào, ở thời kỳ nào" [14, tr. 73] - như cố Thủ tướng Chính
phủ Phạm Văn Đồng đã khẳng định.
Nội dung của công tác tuyên huấn đối với các trường sư phạm bao
gồm nhiều vấn đề, song cần tập trung vào một số vấn đề chủ yếu: giáo dục
truyền thống (bao gồm truyền thống dân tộc, truyền thống ngành sư phạm,
truyền thống nhà trường); giáo dục lý tưởng cách mạng - mà nội dung hàng
đầu là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - đó là lý tưởng cách

mạng cao đẹp nhất và là lẽ sống của dân tộc Việt Nam, tuổi trẻ Việt Nam;
giáo dục tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo; giáo dục đạo đức cách mạng
và những kỹ năng nghiệp vụ sư phạm - tính nhân văn - đức phạm trong giáo
dục, trong sự nghiệp trồng người. Mỗi nội dung đều có vị trí vai trò riêng,
song đều thống nhất trong mối quan hệ biện chứng hỗ trợ, thúc đẩy nhau
cùng nhằm tới hoàn thiện nhân cách của một nhà giáo dục - người thầy
giáo xã hội chủ nghĩa.
2.1. Giáo dục truyền thống Việt Nam - Lịch sử Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục truyền thống, giáo
dục lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngay từ khi chưa giành được chính quyền,
đầu năm 1942, trong tác phẩm Lịch sử nước ta, Người viết:
Dân ta phải biết sử ta
Cho trường gốc tích nước nhà Việt Nam
Kể năm hơn bốn ngàn năm
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa
Là người Việt Nam phải nắm vững quốc sử, quốc văn, quốc ngữ.
Một nhà văn hóa học nổi tiếng cho rằng: "thế hệ trẻ của một đất nước dù có
trình độ khoa học kỹ thuật cao, làm ra nhiều tiền của, nhưng không hiểu
biết gì về lịch sử truyền thống dân tộc, thì cũng như là những con lừa kéo
nặng mà thôi". Câu nói đó đủ thấy vai trò quan trọng của lịch sử đối với
11
việc giáo dục truyền thống dân tộc của thế hệ trẻ cũng như của cả cộng
đồng dân tộc.
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam
Nước Việt Nam được hình thành khá sớm, từ thời các vua Hùng
(2879 - 259 trước Công nguyên), nước ta gọi là Văn Lang. Thủy tổ dân tộc
là là Kinh Dương Vương. Từ thuở các vua Hùng dựng nước, đến vị hoàng
đế cuối cùng Bảo Đại trị vì, nước ta trải qua hơn 4000 năm lịch sử với
những thăng trầm của hơn 20 triều đại, các ông hoàng bà chúa.
Lịch sử Việt Nam là quá trình dựng nước gắn liền với giữ nước,

chống kẻ thù xâm lược gắn liền với chế ngự thiên nhiên mở mang bời cõi,
xây dựng nền văn hóa độc đáo xán lạn. Hơn 4000 năm lịch sử, có ba dấu
Ên - như những mốc son đặc biệt quan trọng và ý nghĩa vĩ đại. Đó là Ngô
Quyền đánh thắng quân Nam Hán năm 938, chấm dứt hơn một ngàn năm
Bắc thuộc; Lê Lợi đánh bại quân Minh năm 1427-1428 - mở ra thời kỳ
phát triển của dân tộc; Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,
chấm dứt thời kỳ phong kiến tập quyền lâu dài và lật nhào ách thống trị đế
quốc thực dân - lịch sử Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên
độc lập, tự do, dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hình thành
một nhà nước Việt Nam độc lập, dân chủ. Đó là thời đại Hồ Chí Minh -
thời đại phát triển rực rỡ nhất của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cuộc
kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng
chủ nghĩa thực dân cũ và mới - thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất hoàn toàn đất
nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Đất nước ta, dân tộc ta hình thành nên từ cộng đồng đoàn kết của 54
dân tộc anh em và của nhiều tôn giáo hợp thành, như đạo Phật, Công giáo,
Cao Đài, Tin Lành, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo
12
Lịch sử nước ta là bản thiên anh hùng ca dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam, không chỉ chế ngự thiên nhiên, mở mang bờ cõi, xây
dựng nền văn hóa độc đáo xán lạn; chiến thắng ngoại xâm rất oanh liệt mà
còn là một nước văn hiến. Dân tộc Việt Nam tự hào về những danh nhân
văn hóa thế giới như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ
Chí Minh được UNESCO tôn vinh danh nhân kép: Anh hùng giải phóng
dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới. Không những thế, nước Việt Nam
ta có các di sản văn hóa thế giới được UNESCO xếp hạng: Quần thể Di
tích Huế (1993), Vịnh Hạ Long (1994 - về cảnh đẹp và 2000 về cấu tạo địa

chất), Phố cổ Hội An (1999) và Khu Di tích thánh địa Mỹ Sơn (1999). Đó
là nét văn hóa tài hoa sánh ngang hàng với Di sản văn hóa thế giới.
- Về quốc ngữ: Chữ viết Việt Nam có quá trình phát triển lâu dài
cho tới nay khá hoàn chỉnh (xem phần Phụ lục).
2.1.2. Những truyền thống quý báu - niềm tự hào chính đáng của
dân tộc Việt Nam
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của một dân tộc anh hùng. Truyền
thống tốt đẹp mà Tổ tiên ta đã để lại trong thiên anh hùng ca dựng nước và
giữ nước bốn nghìn năm là tài sản rất quý báu và thiêng liêng của dân tộc.
Đó là sự thống nhất chặt chẽ giữa các yếu tố: nhân, trí, dũng mà cái cốt tử
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết thành chân lý lịch sử vĩ đại: Không
có gì quý hơn độc lập, tự do.
Những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam:
- Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường, bất khuất.
- Tinh thần đoàn kết yêu thương, gắn bó một lòng.
- Anh dũng, thông minh.
- Lao động cần cù, bền bỉ, sáng tạo.
- Tinh thần lạc quan yêu đời.
13
Trong các truyền thống đó, truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí
kiên cường, bất khuất luôn làm là nấc thang giá trị hàng đầu chi phối các
truyền thống khác.
2.2. Giáo dục truyền thống lịch sử Ngành Sư phạm và Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội
2.2.1. Khái quát lịch sử Ngành Sư phạm Việt Nam
Xem phần Phụ lục.
2.2.2. Giáo dục truyền thống nhà trường - Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội
Xem phần Phụ lục
2.3. Giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng đối với sinh viên

2.3.1. Giáo dục đạo đức trong sinh viên sư phạm
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn quan tâm giáo dục lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng cho mọi
người. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng trước hết phải có đạo đức
cách mạng. Đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cách mạng.
Đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Hồ Chí Minh đặc biệt
chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam. Từ những năm 1925 -
1927, trong tác phẩm "Đường cách mệnh" - những bài giảng huấn luyện
đào tạo cán bộ, Người đã nêu tư cách một người cách mạng, giải quyết các
mối quan hệ: đối với mình, đối với người, đối với việc. Đạo đức được thể
hiện tập trung trong tư tưởng "nước lấy dân làm gốc", "Trung với nước,
hiếu với dân" - là một tư tưởng chính trị, đồng thời cũng là phẩm chất hàng
đầu của tư tưởng đạo đức. Trong Di chúc Người nhấn mạnh: "Đảng ta là
một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân".
14
"ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng
hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm
lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa
kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng", vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và rất cần thiết" [8, tr. 510].
Đạo đức cách mạng như gốc của cây, như nguồn của sông: "Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang ". "Có đạo đức phải gắn liền với

tài. Có đức, có tài mới hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao".
Đối với sinh viên, thanh niên nói chung và với sinh viên sư phạm
nói riêng, phải rèn luyện những chuẩn mực đạo đức cơ bản: Một là, trung
với nước, hiếu với dân - Đó là trách nhiệm, bổn phận của người dân, của
con người đối với gia đình, cha mẹ, với quê hương, đất nước. Hai là, cần
kiệm, liêm chính, chí công vô tư - Phẩm chất này gắn liền và là biểu hiện cụ
thể của phẩm chất "trung với nước, hiếu với dân". Phẩm chất đạo đức này,
lấy chính bản thân mỗi người làm đối tượng điều chỉnh. Với nghề sư phạm
hết sức chú ý rèn luyện tu dưỡng theo chuẩn mực này. Vì sao vậy?
"Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai.
Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí
Liêm là trong sạch, không tham lam ; tham tiền của, tham địa vị,
tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất liêm.
Chính là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không
đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà".
Ba là, Giàu sang không thể quyết rũ, nghèo khó không thể chuyển
lay, uy vũ không thể khuất phục. Đây là những phẩm chất đạo đức không
15
thể thiếu ở người cách mạng, nhất là người cộng sản, người giáo viên - Yêu
cầu gần như đủ cả năm đức: "nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm".
Muốn có những phẩm chất đạo đức như vậy, đó là quá trình tu
dưỡng bền bỉ rèn luyện suốt đời của nhà giáo qua thực tiễn công việc, sự
nghiệp. "Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên".
Có đạo đức là gốc, nhưng muốn trở thành nhà giáo giỏi phải là
người có cả tài. Tài đó chính là năng lực, nghiệp vụ sư phạm giỏi, nắm
vững kiÕn thức cơ bản, ham đọc, ham học để không ngừng nâng cao trình
độ, sáng tạo trong công việc.
2.3.2. Giáo dục lý tưởng cách mạng đối với sinh viên
Lý tưởng chính trị - xã hội là mục đích cao cả và tốt đẹp nhất về
mặt xã hội cần phấn đấu đạt tới.

Dân tộc Việt Nam, sau hàng ngàn năm sống dưới ách đô hộ của
phong kiến phương Bắc, hàng trăm năm sống dưới ách đô hộ của chủ nghĩa
thực dân cũ và mới, nhân dân Việt Nam chỉ có một nguyện vọng là nước
nhà được độc lập, nhân dân được sống tự do, mọi người có cơm ăn, áo
mặc, được học hành.
Thực tiễn Việt Nam cũng như thực tiễn các nước khác trên thế giới
cho thấy, dân tộc muốn có độc lập thật sự, nhân dân muốn được tự do bình
đẳng thật sự thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập
dân tộc là tiền đề của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là nền tảng, là
sức mạnh để giữ vững độc lập dân tộc. Do đó, xã hội xã hội chủ nghĩa -
một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trở
thành lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam, của
nhân dân và mỗi người dân Việt Nam.
Xung quanh việc lựa chọn mục tiêu, còn một số vấn đề cần được
làm sáng tỏ hơn. Đây là những vấn đề mà một số người trong đó thanh niên
sinh viên còn có sự hồ nghi, thắc mắc.
16
Một là, xã hội tư bản có phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh không? Có thể nói, đây là mục tiêu mang tính
nhân loại. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu đề ra thì còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố trong đó bản chất chế độ xã hội là yếu tố quyết định. Chủ
nghĩa tư bản tồn tại trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Bản chất của chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư. Trong xã hội tư
bản, mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giàu và nghèo luôn luôn đòi hỏi phải
được giải quyết. Cho nên xã hội tư bản không thể thực hiện được công bằng
xã hội, không thể thực hiện được dân giàu, nước mạnh. Theo thống kê của
Sở Lao động Mỹ thì số dân sống dưới mức nghèo đói tăng từ 24 triệu người
năm 1977 lên 35 triệu vào năm 1986. Về nhà ở, cứ 4 người Mỹ thì một
người phải ở trong những điều kiện dưới mức không chấp nhận được đó là
chưa kể những người không có nhà ở. Theo công bố của B.Clintơn trong

dịp tranh cử tổng thống Mỹ thì trong hơn một thập kỷ, số 1% chóp cùng của
dân Mỹ đã vơ được 50 - 70% thu hoạch kinh tế của đất nước - Báo Nhân
Dân, ngày 10/8/1992. Theo báo cáo của UNDP năm 1998 người giàu chỉ
chiếm 20% dân số thế giới nhưng lại chiếm hơn 86% tổng chi phí dành cho
tiêu dùng. Người giàu tiêu thụ hơn 45% lượng thịt, cá trên thế giới trong khi
đó người nghèo chỉ tiêu thô 5%.
Hai là, Việt Nam tại sao lại lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa
mà không phải là con đường tư bản chủ nghĩa? Là một nước nghèo, kém
phát triển liệu Việt Nam có thể đạt tới sự lựa chọn đó không?
Đúng là lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua năm hình
thái kinh tế - xã hội: hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy; hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; hình thái kinh tế xã hội phong kiến;
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, một dân
tộc nào đó, trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có thể bỏ qua một hoặc
vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó để tiến lên hình thái kinh tế - xã hội
cao hơn. Các ông cũng cho rằng, một dân tộc lạc hậu, nếu điều kiện quốc tế
17
và trong nước cho phép có thể tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội không
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh những nguyên lý và dự báo lý luận
của các nhà kinh điển, ở Việt Nam, chóng ta cần làm rõ những yếu tố có
vai trò quyết định đến việc lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội là:
- Việc lựa chọn con đường không qua chủ nghĩa tư bản để đi đến
chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của dân tộc. Sau hàng ngàn năm sống dưới
ách đô hộ của phong kiến, thực dân, nhân dân Việt Nam hiểu rất rõ nỗi khổ
nhục của kiếp người nô lệ, của người mất tự do. Nếu sau khi giành được
độc lập, đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì nhân dân lại phải
chịu áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, mục tiêu tự do, bình đẳng sẽ không
được thực hiện. Có thể nói, ở Việt Nam, mục tiêu chủ nghĩa tư bản không
được nhân dân chấp nhận.

- Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam do đội tiên
phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đã giành được chính quyền. Sau khi
lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giành được chính
quyền, nếu chọn con đường tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân phải
trao chính quyền mình vừa giành được cho giai cấp tư sản, điều này không
thể xảy ra được. Cho nên, con đường duy nhất đúng đắn là đưa đất nước đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Cần nhận thức sâu sắc rằng, Đảng cộng
sản lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi, giai cấp
công nhân giành được chính quyền là tiền đề chính trị quan trọng hàng đầu
để Việt Nam có thể đi lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư chủ nghĩa.
- Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra hết sức mạnh
mẽ, nó tác động đến tất cả các nước trên thế giới với những mức độ khác
nhau. Việt Nam có thể tận dụng lợi thế của những nước đi sau, đi tắt, đón
đầu để tiến đến mục tiêu chủ nghĩa xã hội đã lựa chọn.
- Với chính sách đối ngoại đúng đắn, mềm dẻo, Việt Nam có thể tận
dụng được sự giúp đỡ của các nước trên thế giới đặc biệt sự giúp đỡ của
18
nhân dân và chính phủ các nước tiến bộ đối với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Ba là, thời kỳ quá độ là thời kỳ phát sinh, hình thành và phát triển
từng bước của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Không thể có ngay xã hội xã hội
chủ nghĩa sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động mới giành được
chính quyền, mà xã hội xã hội chủ nghĩa là mục tiêu cuối cùng có tính định
hướng lâu dài, phải trải qua một quá trình từng bước xây dựng, củng cố và
hoàn thiện mới xây dựng xong. Xã hội xã hội chủ nghĩa không xuất hiện
một cách tự phát mà là quá trình cái biến cách mạng tự giác trong đó có vai
trò năng động của quần chúng nhân dân và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng
sản. Vai trò năng động chủ quan đó cho phép tạo ra những nhân tố để từng
bước tiến theo định hướng xã hội chủ nghĩa và mỗi bước tiến lên đi từ thấp
đến cao, từ bộ phận đến toàn bộ, chúng ta càng nhích dần tới mục tiêu xã

hội chủ nghĩa.
2.3.3. Giáo dục lý tưởng nghề nghiệp
Lý tưởng nghề nghiệp thể hiện ở sự lựa chọn ngành nghề từ đó ra
sức học tập, rèn luyện, phấn đấu để trở thành người có trình độ chuyên môn
nghề nghiệp giỏi (ở trình độ đỉnh cao) được xã hội thừa nhận. Trên cơ sở
đó cống hiến được nhiều cho xã hội và có thu nhập cao cho cá nhân và gia
đình. Trong quá trình giáo dục và rèn luyện lý tưởng nghề nghiệp cho sinh
viên hiện nay cần làm cho họ nhận thức rõ mấy vấn đề sau đây:
Một là, làm bất cứ nghề gì đều vinh quang, đều có cơ hội tìm được
việc làm, đều có khả năng thu nhập cao nếu là người có trình độ chuyên
môn giỏi, có lương tâm nghề nghiệp. Tuy nhiên, để có thể trở thành người
giỏi, có tay nghề vững vàng thì việc chọn nghề phải phù hợp với khả năng,
sở thích của mỗi người.
Hai là, phải nhận thức được xu thế phát triển của thế giới và đòi hỏi
của đất nước trong tương lai, nhất là hai mươi, ba mươi năm tới. Chỉ có
19
như vậy ngay từ hôm nay sinh viên mới xác định được mình cần phải làm
gì.
Từ thập kỷ 80 đến cuối thế kỷ 20, do tác động của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng nền kinh tế thế giới
chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tÕ trí thức. kinh tế trí thức là nền
kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết
định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng
cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức chiếm đa số là các ngành kinh tế dựa
vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ.
Những đặc trưng đáng chú ý nhất của nền kinh tế tri thức là: sản xuất công
nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu
nhất của nền sản xuất; ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi, thông tin trở
thành tài nguyên quan trọng nhất; xã hội thông tin là một xã hội học tập.

Giáo dục rất phát triển. Mọi người đều học tập, học thường xuyên, học ở
trường và học trên mạng để không ngừng trau dồi kỹ năng, phát triển trí
sáng tạo. Không học tập thường xuyên thì không phát triển được nền kinh
tế tri thức. Mọi người thường xuyên được bổ túc, cập nhật kiến thức, chủ
động theo kịp sự đổi mới và có khả năng thúc đẩy sự đổi mới. Với sự bùng
nổ thông tin và sự luôn đổi mới kiến thức, mô hình giáo dục truyền thống:
đào tạo xong rồi ra làm việc là không còn phù hợp mà phải được cơ bản, ra
làm việc và tiếp tục đào tạo, vừa đào tạo vừa làm việc. Con người phải học
tập suốt đời, vừa đào tạo vừa làm việc: sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên
là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển.
Như vậy, để thích ứng với xã hội tương lai, sinh viên phải đổi mới
phương pháp học tập, tranh thủ thời gian mọi lúc, mọi nơi, mọi phương
tiện để học tập. Trong khi học ở trường phải học và nắm chắc kiến thức cơ
bản, phải học giỏi một nghề nhưng biết nhiều nghề, thành thạo ngoại ngữ,
tin học
2.3.4. Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ
20
Lý tưởng thẩm mỹ là sự phấn đấu để trở thành người có thể sống và
làm việc theo những quy luật của cái đẹp. Hay nói cách khác là phấn đấu
để trở thành người có năng lực thưởng thức, sáng tạo cái đẹp. Một chủ thể
thẩm mỹ không chỉ dừng lại ở nhận thức, cảm thụ cái đẹp mà còn phải biết
cải tạo hiện thực khách quan, sáng tạo thêm cho thế giới những cái đẹp
mới.
Theo các nhà mỹ học Mác - Lênin, giáo dục thẩm mỹ bao gồm hai
mặt trong một quá trình thống nhất. Một là, đó là sự xã hội hóa cá nhân về
mặt thẩm mỹ. Mục đích của sự giáo dục này là hình thành con người phát
triển toàn diện, hài hòa về nhân cách; Hai là, hình thành năng lực đồng hóa
thẩm mỹ đối với hiện thực. Tức là nhằm hình thành năng lực nhận thức,
đánh giá đúng đắn các hiện tượng thẩm mỹ: cái đẹp, cái xấu cái cao cả, cái
thấp hèn, cái bi, cái hài, cái anh hùng đang diễn ra trong cuộc sống hiện

thực. Như vậy, mặt thứ hai này là nhằm hình thành năng lực sáng tạo theo
quy luật của cái đẹp.
Thực chất công tác công tác giáo dục thẩm mỹ đối với sinh viên là
giúp họ tìm hiểu, phát hiện mọi giá trị thẩm mỹ trong những quan hệ
phương pháp của con người đối với thế giới. Giúp sinh viên hiểu được mọi
chi tiết của bức tranh toàn cảnh về cái đẹp của thiên nhiên, của xã hội và
biến toàn bộ sự phong phú thẩm mỹ đó thành sở hữu nội tâm của họ. Để rồi
sau đó họ lại sáng tạo ra những giá trị thẩm mỹ mới trong ngành nghề sẽ
được lựa chọn và trong cả mọi hoạt động xã hội khác.
Công tác giáo dục thẩm mỹ trong các trường đại học, một mặt có
vai trò tích cực trong việc phê phán những thị hiếu thẩm mỹ tầm thường,
những tập quán lạc hậu, bảo thủ, những ảnh hưởng của lối sống không lành
mạnh; mặt khác, có vai trò tích cực trong việc xây dựng những thị hiếu
thẩm mỹ tốt đẹp cho sinh viên, hướng dẫn cho sinh viên thấy rõ tương lai
thẩm mỹ của mình. Trong vui chơi cũng như trong học tập, nhà trường phải
làm cho sinh viên tập trung chó ý vào cái đẹp, vào việc thể hiện những
phẩm chất tốt đẹp nhất của con người theo những gương điển hình. từ
21
những tấm gương của các bạn sinh viên học giỏi, ngoan ngoãn, những tấm
gương của các thầy, cô giáo có uy tín trong trường cho đến những tấm
gương của các nhà khoa học, những anh hùng trong sản xuất và chiến đấu
ở ngoài xã hội.
Để tránh những biểu hiện cực đoan trong quá trình giáo dục thẩm
mỹ đối với sinh viên, theo chúng tôi; có hai vấn đề cần được chú ý. Một là,
lý tưởng thẩm mỹ xã hội chủ nghĩa là thống nhất cho tất cả mọi người mới
xã hội chủ nghĩa (tuy nhiên mô hình con người này phải thích ứng với từng
giai đoạn phát triển của xã hội), nhưng nó chấp nhận và khuyến khích việc
hình thành những thị hiếu ưa thích, nhu cầu thẩm mỹ đa dạng và phong
phú. Vì trong vấn đề thẩm mỹ, mỗi con người đánh giá sự vật, hiện tượng
theo những nguyên tắc lý tưởng thẩm mỹ chung nhưng trong đó còn có

những đặc điểm cá tính, tâm lý sinh lý dẫn đến những thích thú, cảm xúc
khác nhau. Hai là, trong giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên phải khắc phục
được tâm lý của người sản xuất nhỏ, tâm lý của người nghèo, tâm lý tù ti
Những tâm lý Êy biểu hiện ở chỗ làm bất cứ điều gì cũng chỉ chú ý đến
chắc, bền còn rất Ýt hoặc không quan tâm đến cái đẹp.
22
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TUYÊN HUÊN, GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG ĐỐI VỚI SINH VIÊN SƯ PHẠM
1. SÙ QUAN TÂM CHỈ ĐẠO, LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỚI VẤN ĐỀ
CHIẾN LƯỢC CON NGƯỜI TRONG NHÀ TRƯỜNG
Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước
luôn luôn chăm lo đến chiến lược con người, đến thế hệ trẻ - người chủ của
đất nước, đến giáo dục và đào tạo - yếu tố quyết định, là một trong những
động lực quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền
vững của đất nước. Vì vậy, trong bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào, chính
sách quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước là chăm lo đào tạo nguồn
nhân lực, đào tạo nhân tài, nâng cao trình độ dân trí. Đặc biệt trong những
năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, việc đầu tư kinh phí,
quan điểm chỉ đạo nhằm thực hiện "cùng với khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu".
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ
trương chính sách lớn nhằm chăm lo đến chiến lược con người. Đại hội
Đảng lần thứ VII (6/1991) - "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội" đã khẳng định vai trò của giáo dục và đào tạo
nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước.
Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa VII) tháng 1 năm 1993 đã ra Nghị
quyết về các vÊn đề công tác văn hóa văn nghệ, chăm sóc sức khỏe — kế
hoạch hóa gia đình, công tác thanh niên, tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo
dục và đào tạo. Nghị quyết đã chỉ rõ: "đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát

triển". Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) tiếp tục khẳng định: "Giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu". Đặc biệt Hội nghị lần thứ hai của
Trung ương (khóa VIII) tháng 12/1996 "Về định hướng chiến lược phát
triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
nhiệm vụ năm 2000" đã nêu rõ: "Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải
23
phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố
cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững" [3, tr. 9].
Luật Giáo dục năm 1998. Ngày 30/5/1998 Bộ Chính trị ra Chỉ thị
34-CT/TW, về tăng cường công tác chính trị tư tưởng; củng cố tổ chức.
Đảng, Đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các
trường học. Chỉ thị nêu rõ 4 nhiệm vụ cần phải nắm vững, trong đó nhiệm
vụ thứ nhất là "Tăng cường công tác giáo dục, chính trị tư tưởng đạo đức
cách mạng trong đội ngũ giáo viên, học sinh, sinh viên và công nhân viên
các trường học" [4].
2. NHỮNG HÌNH THỨC TỔ CHỨC CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN ĐỐI
VỚI SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Sinh viên sư phạm là lực lượng ưu tú của tầng lớp thanh niên.
Công tác tuyên huấn khá phong phú, gồm nhiều hình thức khác nhau.
Mỗi hình thức đều có vai trò nhất định góp phần vào việc hình thành
nhân cách sư phạm.
2.1. Các hình thức tuyên huấn chủ yếu
Công tác tuyên truyền gồm có các hình thức: Tuyên truyền miệng,
chủ yếu thuyết trình, giải thích khi học chính trị đầu năm, thời sự tổng hợp,
phổ biến nghị quyết
- Tuyên truyền qua phương tiện thông tin truyền thanh nội bộ của
trường, hàng tuần 2 buổi (thứ ba, thứ năm) những đợt sinh hoạt chính trị
lớn 20/11 ngày Nhà giáo Việt Nam, 26/3 ngày thành lập Đoàn Thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh Thông tin nhanh kịp thời các hoạt động trong nhà
trường, hoạt động dạy và học

- Tuyên truyền bằng các hệ thống Panô, băng cờ khẩu hiệu, là điều
không thể thiếu trong các hình thức tuyên huấn. Gây Ên tượng mạnh, nhớ lâu.
- Tuyên truyền bằng Bản tin Đại học Sư phạm Hà Nội, bao gồm các
bài viết, hình ảnh Đây là hình thức khá hiệu quả. Giúp sinh viên nắm vấn
24
đề chắc, hiểu sâu, nắm vững, vận dụng phù hợp. Đặc biệt giáo dục tính kiên
trì, quyết tâm với phương châm Có chí thì nên.
- Tuyên truyền qua các buổi lễ mít tinh kỷ niệm các ngày lễ lớn của
dân tộc; qua các cuộc thi tìm hiểu thân thế sự nghiệp các nhà kinh điển:
Các Mác, Ăngghen, Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh; qua các cuộc thi hiểu
biết về HIV/AIDS; qua các hoạt động văn hóa văn nghệ thể thao; qua các
cuộc thi Olympíc các môn khoa học Mác - Lênin do Bộ Giáo dục và Đào
tạo tổ chức Các hoạt động bằng các hình thức tuyên huấn này rất phù hợp
với tuổi trẻ, sinh viên sư phạm.
Trong những năm gần đây nhà trường đã quan tâm hơn giáo dục
chính trị tư tưởng với sinh viên, nhất là sinh viên mới nhập trường, việc
giáo dục truyền thống dân tộc; truyền thống nhà trường, ngành sư phạm;
quy chế dạy và học, thi kiểm tra; giáo dục phòng chống HIV/AIDS ma túy
và các tệ nạn xã hội là những nội dung sinh viên rất quan tâm. Kết quả
100 phiếu thu hoạch học tập chính trị đầu năm học (Tuần lễ học sinh, sinh
viên) của sinh viên khóa 50, khoa Ngữ Văn năm học 2000 - 2001 cho thấy:
Khi hỏi điền vào ô vÊn đề cơ bản học chính trị đầu năm học, bản
thân nhận thức sâu sắc nhất:
1- Truyền thống về nhà trường: 88 phiếu = 88%
2- Nhập môn sư phạm: 48 phiếu = 48%
3- Truyền thống về Đoàn trường, Hội sinh viên: 56 phiếu = 56%
4- Những chủ trương mới về giáo dục - đào tạo: 34 phiếu = 34%
5- Tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và các Văn kiện trình Đại
hội IX của Đảng: 25 phiếu = 25%
6- Quy chế học sinh, sinh viên, quy chế dạy và học: 42 phiếu = 42%

7- Phòng chống tệ nạn xã hội HIV/AIDS: 43 phiếu = 43%
8- Cảm nhận của anh (chị) về tổ chức học tập chính trị đầu năm học
2000 - 2001:
- Bổ Ých: 96 phiếu = 96%; chưa bổ Ých: 1 phiếu = 1%.
25

×