Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Các biện pháp quản lý chất lượng học tập của học sinh tiểu học ở huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa theo mô hình quản lý chất lượng tổng thể (TQM)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 113 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục - đào tạo nước ta đang bước vào giai đoạn hết sức quan trọng
có tính quyết định - hoàn thành việc đổi mới giáo dục phổ thông theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 40 của Quốc hội và Chỉ
thị 14 của Thủ tướng Chính phủ, thực hiện cuộc vận động “hai khụng” nhằm
nâng cao chất lượng dạy học. Một vấn đề được đặt ra: “để thực hiện được
mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo
đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
(Luật Giáo dục 2005) thì chất lượng đào tạo các cấp học, ngành học ra sao?
Đây là yêu cầu cơ bản quan trọng phù hợp với chủ trương chuẩn hoá - hiện
đại hoá nền giáo dục của Đại hội Đảng lần thứ IX, góp phần tạo nên chất
lượng ngày càng cao của giáo dục phổ thông nói chung và GDTH nói riêng.
Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng có ý ảnh hưởng sâu sắc đến cả
quá trình giáo dục của các bậc học, cấp học sau này. Bậc học này có nhiệm vụ
giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học
sinh tiếp tục học trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học
sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ
năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân
thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về âm nhạc, mỹ thuật. Để nâng cao
chất lượng giáo dục tiểu học cần có các điều kiện chủ quan và khách quan
khác nhau nhưng trong đó công tác quản lý chất lượng là hết sức quan trọng.
Nếu không có biện pháp quản lý phù hợp sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất
1
lượng giáo dục học sinh, đặc biệt là chất lượng văn hóa. Tại hội nghị Trung
ương 6 - khóa IX của Đảng đã đề ra giải pháp là: “đổi mới cơ bản công tác
quản lý giáo dục”.
Quản lý chất lượng theo mô hình quản lý chất lượng tổng thể (TQM) là


một trong những xu hướng tiếp cận hiện đại và mang lại hiệu quả cao cho các
nhà quản lý trong đó có quản lý giáo dục. Tuy nhiên mô hình quản lý này mới
chỉ được vận dụng vào trong công tác quản lý các doanh nghiệp trên lĩnh vực
kinh tế còn đối với giáo dục - đào tạo mô hình này còn chưa được phổ biến
rộng rãi. Các định hướng cải cách giáo dục gần đây mà chúng ta đã và đang
thực hiện đều ít nhiều mang hơi hướng triết lý TQM. Các cơ sở giáo dục hiện
nay đang tập trung xây dựng quản lý chất lượng theo mô hình quản lý này
nhưng chủ yếu tập trung ở các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp.
Theo báo cáo thống kê của Phòng Giỏo dục - Đào tạo huyện Quảng
Xương - tỉnh Thanh Hóa thì chất lượng giáo dục tiểu học ngày một nâng lên
song trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập trong quản lý chất lượng học sinh.
Đặc biệt, trong điều kiện thực hiện sự chỉ đạo của Bộ về việc không thi tốt
nghiệp tiểu học thì việc quản lý chất lượng học tập của học sinh càng phải
được quan tâm. Nếu không có các biện pháp quản lý phù hợp sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng giáo dục học sinh đặc biệt là học sinh các lớp cuối
cấp. Tuy nhiên, đến nay chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này một cách có
hệ thống để tìm ra biện pháp quản lý phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục học sinh.
Xuất phát từ lý do nêu trên, tụi đó chọn đề tài khoa học: “Cỏc biện
pháp quản lý chất lượng học tập của học sinh tiểu học ở huyện Quảng
Xương - tỉnh Thanh Hóa theo mô hình quản lý chất lượng tổng thể
(TQM)” để nghiên cứu.
2
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng việc quản lý chất lượng học
sinh các trường tiểu học huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa. Đề xuất các
biện pháp quản lý chất lượng học tập học sinh của hiệu trưởng các trường tiểu
học ở huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Các biện pháp quản lý chất lượng học tập của học sinh tiểu học theo
mô hình quản lý chất lượng tổng thể ở các trường tiểu học huyện Quảng
Xương - tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Chất lượng học tập của học sinh tiểu học ở các trường tiểu học huyện
Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa.
4. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Thời gian: Từ tháng 01/2009 - 08/2009
- Địa điểm: 42 trường tiểu học huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa .
- Nghiờn cứu thực trạng và đề xuất các biện pháp quản lý chất lượng
học tập học sinh của hiệu trưởng các trường tiểu học ở huyện Quảng Xương -
tỉnh Thanh Hóa.
5. GIẢ THUYÕT KHOA HỌC
Công tác quản lý chất lượng học tập học sinh của hiệu trưởng các
trường tiểu học huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa hiện nay chưa đáp ứng
được yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Nếu hiệu
trưởng các trường tiểu học áp dụng các biện pháp quản lý chất lượng theo mô
hình TQM sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
3
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý và quản lý chất lượng học tập
của học sinh tiểu học.
6.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý chất lượng học tập của học
sinh tiểu học ở các trường tiểu học huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa.
6.3. Đề xuất các biện pháp quản lý chất lượng học tập học sinh của hiệu
trưởng các trường tiểu học ở huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhúm cỏc phương pháp nghiên cứu lý luận
7.2. Nhúm cỏc phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp quan sát
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
7.2.3. Phương pháp chuyên gia
7.2.4. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
7.3. Phương pháp thống kế toán học
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý và quản lý chất lượng học tập của
học sinh tiểu học.
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý chất lượng học tập của học
sinh cuối bậc tiểu học ở huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa .
Chương 3. Đề xuất biện pháp quản lý chất lượng học tập học sinh của
hiệu trưởng các trường tiểu học ở huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa.
Kết luận và Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VÀ QUẢN LÝ CHÊT LƯỢNG
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống
chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Vì
vậy, ngay từ khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
“một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã
ra Nghị quyết số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục
là bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm
sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý
giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà
trường gắn liền với xã hội. Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung,
hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII,

IX của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục đào tạo được Đại hội toàn quốc lần thứ X
đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con người phát triển
toàn diện, nhất là thế hệ trẻ.
Tuy nhiên “vấn đề bức xúc trong giáo dục nước ta hiện nay là chất
lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục toàn diện còn nhiều bất cập, thấp so với
mục tiêu giáo dục với yêu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế xã hội và
trong tương quan với khu vực và so với một số nước Châu Á và khu vực
Đông Nam Á, chỉ số chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực của nước ta còn
thấp, chỉ xếp thứ 11/12 nước được xếp hạng chõu Á”
Chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục phổ thông nói
riêng ngày càng được nhiều nhà giáo dục, nhà quản lý, các nhà nghiên cứu
5
trong, ngoài nước (các tổ chức Quốc tế như LHQ (UNDP, UNESCO), nhiều
nhóm nước như PISA, TIMSS,…) và xã hội quan tâm. Trờn cỏc diễn đàn
chính trị, trong các hội thảo khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng có
không ít những cuộc tranh luận về chất lượng giáo dục hiện nay ở nước ta,
trong đó có không Ýt các luận giải khoa học, đề xuất những biện pháp nâng
cao chất lượng giáo dục. Trong các chủ trương và biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục, đổi mới quản lý chất lượng giáo dục là một giải pháp
được quan tâm đặc biệt. Trong các cấp học và bậc học thì giáo dục phổ thông
được hết sức ưu tiên bởi chất lượng giáo dục phổ thông sẽ quyết định chất
lượng sinh viên vào học đại học, cao đẳng, giáo dục chuyên nghiệp và chất
lượng của lực lượng lao động có trình độ sau phổ thông trung học. Mặt khác,
chất lượng giáo dục phổ thông có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao kỹ
năng sống cho thế hệ trẻ bước vào đời.
Tuy nhiên, quan niệm về chất lượng giáo dục ở nước ta chưa đầy đủ và
đồng bộ. Trước hết khái niệm chất lượng giáo dục đang bị nhầm lẫn, đồng
nghĩa chất lượng giáo dục với chất lượng thi cử. Đáng tiếc cách hiểu này đang
được coi là chuẩn mực trong đánh giá giáo dục. Một biểu hiện rất rõ: sự quan

tâm chủ yếu của các nhà quản lý giáo dục, từ các cấp quản lý hệ thống tới các
cấp quản lý nhà trường, tập trung cao nhất vào các kỳ thi để rồi lấy kết quả thi
làm thước đo quan trọng nhất đối với chất lượng một học sinh, một nhà
trường và một địa phương. Đã quan niệm như thế thì thật dễ hiểu khi mà các
yếu tố khác trong tổng thể các yếu tố trực tiếp cấu thành chất lượng giáo dục
đã bị coi nhẹ, thậm chí bị bỏ qua. Bởi vậy trong thực tế, những nơi có nhiều
mặt yếu kém nhưng tỷ lệ thi đỗ cao vẫn được xem là có chất lượng tốt. Từ
đây đã nảy sinh một hiện tượng phổ biến là từ giáo viên đến học sinh, từ
những người quản lý cấp cơ sở đến những người quản lý cấp trên đua nhau
6
chạy theo tỷ lệ thi đỗ. Số trường tỷ lệ thi đỗ tới 95-100% không còn là hiện
tượng cá biệt. Và theo lụgic của cách hiểu trên, chất lượng giáo dục như thế là
tốt lắm rồi. Chỉ đến khi học sinh vào đời, thực trạng yếu kém mới bộc lộ ra.
Ở nước ta giáo dục tiểu học là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục
phổ thông có thời hạn là 5 năm bao gồm trẻ từ 6 đến 11 tuổi. Đây là thời gian
mang tính khởi đầu (Primary), tính yếu lược (Elementary) và cũng là giai
đoạn sớm (Early year learning) của việc học chính thức. Do đó, giáo dục tiểu
học có một vị trí hết sức quan trọng, là bậc học nền tảng khởi đầu, ảnh hưởng
sâu sắc đến cả quá trình giáo dục ở các bậc học tiếp theo. Việc nâng cao chất
lượng giáo dục tiểu học là rất cần thiết vì đây là hành trang, bắt nguồn của
mọi hoạt động học tập.
Việc quản lý chất lượng học tập của học sinh tiểu học có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Đặc biệt là trong những năm gần đây khi Bộ Giáo dục - Đào
tạo quyết định bỏ kì thi tốt nghiệp tiểu học mà chuyển sang xem xét, đánh giá
để công nhận hoàn thành chương trình tiểu học và trong giai đoạn đổi mới
giáo dục phổ thông hiện nay.
Vấn đề bảo đảm chất lượng tiểu học khi không thi tốt nghiệp đối với
học sinh cuối cấp đặt ra cho các nhà quản lý giáo dục tiểu học là phải làm tốt
công tác quản lí chất lượng học sinh trong nhà trường. Hiện nay tuy có nhiều
công trình nghiên cứu, các ý kiến, bài báo trao đổi về vấn đề quản lý chất

lượng giáo dục nhưng chủ yếu tập trung vào quản lý chất lượng giáo dục đại
học, giáo dục chuyên nghiệp. Tác giả Nguyễn Đức Chớnh đó nghiên cứu và
nêu ra vấn đề kiểm định chất lượng trong Giáo dục Đại học, tác giả Hoàng
Đức Nhuận, tác giả Lê Đức Phỳc đó nêu ra cơ sở lý luận của việc đánh giá
chất lượng học tập của học sinh phổ thông. Tác giả Phạm Thành Nghị nghiên
cứu vấn đề quản lý chất lượng Giáo dục Đại học. Tác giả Đặng Vũ Hoạt đó
7
nờu hệ thống chức năng kiểm tra đánh giá. Tác giả Phó Đức Hòa cũng có
nghiên cứu về đánh giá trong giáo dục tiểu học. Tác giả Nguyễn Thị Hạnh
nghiên cứu về đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Tiếng Việt ở tiểu học và
nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này. Cũng đó cú một số tài liệu công trình
nghiên cứu, luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục, bài viết trên tạp chí đề cập
vấn đề quản lý chất lượng học sinh theo mô hình quản lý chất lượng tổng thể
như: [1], [ 16], [ 28], … nhưng tập trung nghiên cứu việc quản lý ở các
trường chuyên nghiệp hoặc nghiên cứu việc kiểm tra đánh giá chất lượng.
Ở huyện Quảng Xương - tỉnh Thanh Hóa đến nay chưa có công trình
khoa học nghiên cứu đánh giá và đề xuất các biện pháp quản lý chất lượng
học tập của học sinh tiểu học. Việc quản lý chất lượng học tập của học sinh
tiểu học đang diễn ra một cách rời rạc, không hệ thống. Đặc biệt hiệu trưởng
các trường tiểu học trong huyện chưa có biện pháp cụ thể nhằm quản lý chất
lượng có hiệu quả, tránh gian dối, bệnh thành tích. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu và đề xuất các biện pháp giải quyết cho vấn đề này là hết sức cần thiết,
làm cơ sở cho việc thực hiện tốt nhiệm vụ năm học 2009 - 2010, năm học mà
Bộ giáo dục - Đào tạo lấy chủ đề “Năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất
lượng giáo dục” và những năm học tiếp theo.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Cuộc sống con người là tổng hoà các dòng chảy. Quản lý gắn liền với
cuộc sống, với hoạt động của con người, vì thế rất đa dạng và phong phú. Con
người là đối tượng cơ bản của quản lý đồng thời phải nhấn mạnh rằng, con

người sống và hoạt động trong những nhóm, những tổ chức nhất định. Dạng
quản lý cơ bản là quản lý xã hội, trong quản lý xã hội, quản lý con người và
quản lý hành vi con người là yếu tố chính. Một cách khái quát, quản lý nói
8
chung là quản lý các tổ chức của con người và hành vi, hoạt động của con
người trong các tổ chức đó.
Từ hơn hai nghìn năm trước đây, vai trò của người quản lý được Khổng
Tử đề cao: “Người quản lý mà chính trực thì không cần phải tốn nhiều công
sức mà vẫn khiến được người ta làm theo”. Sau này C.Mỏc đó đánh giá vai
trò của người quản lý như một nhạc trưởng “người nghệ sĩ vĩ cầm tự điều
khiển mỡnh, cũn dàn nhạc thì cần một nhạc trưởng”.
Tuy vậy, thuật ngữ “Quản lý” được biết đến nhiều từ khi nhà lý luận
quản lý kinh tế người Pháp H.Fayon đưa ra khái niệm “quản lý chính là dự
đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp kiểm tra”. Khái niệm quản
lý được định nghĩa theo những cách khác nhau dựa trên cơ sở những cách tiếp
cận khác nhau.
Xét dưới góc độ chung nhất, quản lý là vạch ra mục tiêu cho bộ máy,
lựa chọn phương tiện, điều kiện tác động đến bộ máy để đạt được mục tiêu. Ở
góc độ kinh tế, quản lý là tính toán sử dụng hợp lí các nguồn lực nhằm đạt tới
mục tiêu đề ra.
Theo Mác “Quản lý là một chức năng tất yếu của lao động xã hội, nó
gắn chặt với sự phân công và phối hợp”.
Theo O.V.Kollova “Quản lý là sự tính toán sử dụng các nguồn lực hợp
lí nhằm thực hiện các nhiệm vụ và đạt được kết quả tối ưu về kinh tế xã hội”.
Thuật ngữ “Quản lý” (Tiếng Việt gốc Hỏn) đó lột tả được bản chất hoạt động
quản lý trong hoạt động thực tiễn. Nó bao gồm hai quá trình tích hợp với
nhau, “Quản” bao hàm việc coi sóc, giữ gìn, duy trì trạng thái ổn định, “Lý”
bao hàm các khái niệm như sửa sang, sắp xếp, đổi mới nhằm đưa hệ thống
vào thế phát triển. Hai quá trình này đan quyện vào nhau, tương tác lẫn nhau
trong quá trình phát triển.

9
- Theo M.Pinto: “Quản lý là sự hoạt động thiết yếu nảy sinh khi có nỗ
lực tập thể nhằm thực hiện các mục tiêu chung”.
- F.W.Taylor cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn
người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một
cách tốt nhất và rẻ nhất”.
- H.Koontz thì lại khẳng định: “Quản lý là hoạt động thiết yếu đảm bảo
sự nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức”.
- Theo tác giả Trần Anh Tuấn: “Quản lý là những hoạt động cần thiết
phải được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong các tổ chức nhằm
đạt được những mục tiêu chung”.
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động”.
- Tác giả Mai Hữu Khuê cho rằng: “Hoạt động quản lý là một dạng lao
động đặc biệt của người lao động mang tính tổng hợp của các hoạt động lao
động trí óc liên kết bộ máy quản lý thành một chỉnh thể thống nhất, điều hòa
phối hợp cỏc khõu và các cấp quản lý hoạt động nhịp nhàng đạt kết quả cao”.
Các định nghĩa trên tuy được diễn đạt theo những cách khác nhau
nhưng đều có những điểm chung: quản lý là hành vi có mục đích được thực
hiện đối với một hoạt động chung, trong đó có hai chủ thể là đối tượng quản
lý quản lý và bị quản lý, nhằm làm cho người bị quản lý hành động theo ý chí
của người quản lý. Quản lý là thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình
hoạt động xã hội loài người. Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có
mục đích của người quản lý đến người bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu
chung. Bản chất của quản lý được thể hiện ở sơ đồ 1.1
Trong đó, chủ thể quản lý có thể là một cá nhân, một nhóm hay một tổ
chức. Khách thể quản lý là những con người cụ thể và sự hình thành tự nhiên
10
các mối quan hệ giữa những con người, giữa những nhóm người. Công cụ
quản lý là những tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý. Mục tiêu

của tổ chức được xác định theo nhiều cách khác nhau, nó có thể do chủ thể
quản lý áp đặt hoặc do sự cam kết giữa chủ thể và khách thể quản lý. Bất cứ ở
đâu tồn tại hoạt động chung của con người ở đó có quản lý.
Sơ đồ 1.1: Bản chất của quản lý
Hiện nay, quản lý được định nghĩa rõ ràng hơn: quản lý là quá trình đạt
đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động: kế hoạch hóa, tổ
chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Như vậy có thể khái quát: Quản lý là quá trình tiến hành những hoạt
động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động
của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động và phù hợp với quy luật khách
quan để gây ảnh hưởng đến đối tượng quản lý nhằm tạo ra sự thay đổi hay tạo
ra hiệu quả cần thiết vì sự tồn tại (duy trì), ổn định và phát triển của tổ chức
trong một môi trường luôn biến động. Quản lý là một môn khoa học kết hợp
nhiều môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn. Mặt khác, quản lý
11
Chủ thể
quản lý
Khách thể
quản lý
Nội dung
quản lý
Công cụ,
phương
pháp QL
Mục tiêu
quản lý
còn là một “nghệ thuật” đòi hỏi sự khôn khéo, linh hoạt và tinh tế cao để đạt
tới mục tiêu đã định.
1.2.2. Quản lý chất lượng
- Quan niệm về chất lượng: Chất lượng là một khái niệm vô cùng trừu

tượng. Bởi dưới những giác độ khác nhau, chủ thể khác nhau chất lượng được
nhìn nhận, đánh giá khác nhau. Cũng như khái niệm “văn húa”, “uy tớn”, khái
niệm “chất lượng” thường mang nhiều tính cảm tính hơn là lý tính và chỉ số
khách quan. Tuy nhiên, khái niệm chất lượng theo một số nhà khoa học được
hiểu như sau:
Theo khái niệm truyền thống, một sản phẩm có chất lượng là sản phẩm
được làm ra một cách hoàn thiện bằng các vật liệu quý hiếm và đắt tiền. Nó
nổi tiếng và tôn vinh cho người sở hữu nó [7,27].
Chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự
việc) làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự việc) khác [31,48].
Chất lượng là “cỏi làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật hoặc tạo nên
bản chất sự vật, làm cho sự vật này khác với sự vật kia” [32,86].
Theo tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa (ISO) : Chất lượng là toàn bộ
các đặc tính của một thực thể có khả năng thỏa mãn các nhu cầu đã được
công bố hay còn tiềm ẩn. “Chất lượng là sự phù hợp với những tuyên bố sứ
mệnh và kết quả đạt được của mục tiêu trong phạm vi các chuẩn mực được
chấp nhận công khai” [24,34].
Một định nghĩa khác về chất lượng thể hiện rõ cách xác định và đánh
giá chất lượng giáo dục: “Chất lượng là sự phù hợp với mục tiờu”. Có thể
hiểu mục tiêu nh một cây chỉ số và việc đánh giá đối tượng ra sao phụ thuộc
vào tỷ lệ giữa cây chỉ số và thực tế cuả hành vi.
- Chất lượng giáo dục: Có nhiều cách hiểu khác nhau:
12
+ Chất lượng giáo dục là đạt tới sự tuyệt hảo: Thường dùng ở các
trường Đại học, không phổ biến ở các bậc học khác. Khả năng vươn tới và đạt
được tiêu chí đánh giá rất khú. Dựng tiêu chí này để đánh giá, trường có chất
lượng sẽ rất ít và là những trường nổi tiếng, các trường khác sẽ bị coi là kém
chất lượng.
+ Chất lượng giáo dục là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng: Nhu cầu
luôn đa dạng, phong phú và luôn biến đổi. Chất lượng không chỉ đơn thuần là

trình độ học tập, rèn luyện trong nhà trường mà còn thể hiện bằng hiệu quả sử
dụng những phẩm chất năng lực của người học vào hoạt động thực tiễn. Chất
lượng giáo dục không chỉ dừng lại ở kết quả giáo dục, đào tạo ở trong nhà
trường mà còn phải tính đến mức độ phù hợp và thích ứng của người học với
yêu cầu xã hội.Chất lượng phải đáp ứng được nhu cầu khách hàng, đó là: học
sinh, sinh viên, gia đình học sinh - sinh viên, cơ sở sử dụng người học,…
+ Chất lượng giáo dục được hiểu là sự phù hợp với mục tiêu giáo dục:
Mục tiêu giáo dục luôn đa dạng, phong phú, tổng quát chung cho từng cấp
học, ngành học, bậc học, thể hiện sự đòi hỏi của xã hội đối với con người,
yếu tố cấu thành nguồn nhõn lực mà giáo dục phải đào tạo. Các mục tiêu này
có tiêu chí cụ thể, do vậy dễ đánh giá chất lượng. Như vậy, có thể coi chất
lượng giáo dục chính là chất lượng con người được đào tạo thông qua các
hoạt động giáo dục theo các mục đích đã xác định từ trước. Đú chớnh là nhân
cách con người được giáo dục. Như vậy khi nói về chất lượng, các tác giả đều
đề cập đến một điểm chung nhất đó là sự biến đổi rõ rệt về chất làm cho sự
vật (sự việc) sau tốt hơn trước. Theo quan điểm triết học, chất lượng hay sự
biến đổi về chất là kết quả của quá trình tích lũy về lượng tạo nên những bước
nhảy vọt về chất của sự vật, hiện tượng.
- Quản lý chất lượng
13
Quản lý chất lượng là thuật ngữ được sử dụng để miêu tả các phương
pháp hoặc quy trình được tiến hành nhằm kiểm tra, đánh giá xem các sản
phẩm có đảm bảo được các thông số chất lượng theo yêu cầu, mục đích đã
định sẵn không [ 7,45].
Có nhiều chu trình quản lý chất lượng khác nhau, trong đó đáng chú ý
là đề xuất của tác giả U.E.Deming. Theo tác giả, chu trình quản lý bao gồm
cỏc khõu: Kế hoạch, Tổ chức thực hiện, Kiểm tra, Tác động tạo thành chu
trình quản lý khép kín (sơ đồ1.2: Vòng quản lý Deming)
A P
Ch

D
0
P: Kế hoạch
D
0
: Tổ chức thực hiện
Ch: Kiểm tra
A: Tác động
Nguyên
vật liệu
Cơ chế quản lý Con người
Thiết bị kỹ
thuật công nghệ
Tổ chức
quản lý
Chỉ tiêu chất
lượng sản
phẩm
Yếu tố nguyên nhân Kết quả
Sơ đồ 1.3. Giản đồ nhân giản của I.Shikawa
Sơ đồ 1.4: Giản đồ nhân quả của I.Shikawa
14
Sơ đồ1.2 : Vòng quản lý Deming
Theo tác giả I.Shikwa, hoạt động quản lý chất lượng là một chu trình
gồm 6 tổ hợp biện pháp ( sơ đồ 1.4) và Giản đồ nhân quả (sơ đồ1.3).
Trong đào tạo, quản lý chất lượng đào tạo là quá trình tổ chức thực
hiện có hệ thống các biện pháp quản lý toàn bộ quá trình đào tạo nhằm đảm
bảo và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu người sử
dụng lao động (từ khâu tìm hiểu nhu cầu thị trường lao động, thiết kế chương
trình, đến công tác tuyển sinh, tổ chức đào tạo và kiểm tra, đánh giá kết quả

đào tạo).
Quá trình tiến hóa của quản lý nói chung đi từ mô hình hành chính tập
trung (mọi chuyện được kiểm tra, kiểm soát) đến các hình thức phi tập trung
hơn. Quản lý chất lượng cũng tiến hóa cùng quá trình quản lý từ giai đoạn mà
Thực
hiện các
công việc
Kiểm tra
kết quả
các công
việc
Thực hiện các
tác động quản
lý thích hợp
XĐ các
phương
pháp
Huấn luyện
và đào tạo
cán bộ
XĐ mục
tiêu và
nhiệm vụ
Sơ đồ 1.3. Chu trình 6 tổ hợp biện pháp của I.Shikawa
15
trọng tâm là kiểm soát chất lượng sang bảo đảm chất lượng và quản lý chất
lượng tổng thể. Có thể xem sơ đồ 1.5:
Sơ đồ 1.5: Các cấp độ quản lý chất lượng
Trong giáo dục có ba mô hình quản lý chất lượng được các nhà quản lý
giáo dục quan tâm nhiều nhất là: Mô hình BS 5750/ISO 9000, mô hình quản

lý chất lượng tổng thể (của Ashworth và Harvey,1994 ) và mô hình các yếu tố
tổ chức ( Seameo, 1999). Tuy nhiên, BS 5750/ISO 9000 còn xa lạ với giáo
dục do nguồn gốc xuất phát từ lĩnh vực sản xuất hàng hóa nên ngôn ngữ trong
bộ tiêu chuẩn này không phù hợp. Mặc dù vậy, nó vẫn được xem là nền móng
cho mô hình TQM, mụ hỡnh các yếu tố tổ chức đưa ra 5 yếu tố để đánh giá
chất lượng giáo dục, Edwards Deming, chuyên gia hàng đầu về quản lý chất
lượng, người có công lớn góp phần tạo nên chất lượng cho nền công nghiệp
Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2 đã từng nói: “Trong tương lai sẽ chỉ
có hai loại doanh nghiệp. Một là các doanh nghiệp triển khai Quản lý chất
Kiểm soát CL
Phát hiện
Đảm bảo CL
Phòng ngừa
QL CL tổng thể
Cải tiến liên tục
16
lượng toàn diện (Total Quality Management - TQM), hai là các doanh nghiệp
phá sản. Bạn hoàn toàn có thể không cần triển khai TQM nếu sự sống còn của
doanh nghiệp đối với bạn không phải là điều quan trọng”.
Mỗi mô hình quản lý chất lượng đều có mặt ưu việt riêng, để tập trung
vào hướng nghiên cứu của đề tài, tác giả chủ yếu tiếp cận mô hình quản lý
chất lượng tổng thể.
1.2.3. Quản lý chất lượng học tập của học sinh tiểu học
Để học sinh thực hiện được những nhiệm vụ giáo dục, hoàn thành có
chất lượng và hiệu quả mục đích giáo dục, một điều hết sức quan trọng và có
tính quyết định, đó là nhà trường phải tổ chức một cách hết sức khoa học các
dạng hoạt động cơ bản khác nhau. Trong đó, người được giáo dục(học sinh)
thực sự được tham gia với tư cách chủ thể hoạt động tích cực dưới sự chủ đạo
của nhà giáo dục (giáo viên). Thông qua hoạt động và bằng hoạt động, nhân
cách của người được giáo dục sẽ hình thành và phát triển theo mục đích, mục

tiêu giáo dục mà xã hội quy định. Những hoạt động cơ bản đó được coi là
những con đường giáo dục. Dạy học là một trong những con đường giáo dục.
Dạy học là một hoạt động, trong đó học sinh tự giác, tích cực độc lập hoàn
thành các nhiệm vụ học tập đã được xác định [15,98]. Qua đó người học với
tư cách là chủ thể nhận thức chiếm lĩnh được những tri thức về tự nhiên, xã
hội, tư duy, kĩ thuật và những tri thức về cách thức hoạt động, hình thành và
phát triển hoạt động trí tuệ. Đối với tiểu học, dạy học giúp học sinh tiểu
học vừa chiếm lĩnh được những tri thức sơ đẳng ngày càng có hệ thống, vừa
chiếm lĩnh được cách thức với những phẩm chất hoạt động trí tuệ. Trên cơ sở
đú, cỏc em phát triển được trí tuệ. Dạy học tiểu học giúp học sinh tiểu học
không phải nắm những tri thức rời rạc mà phải nắm những tri thức ngày càng
có hệ thống nhất là những lớp cuối bậc học, không phải là tri thức phiến diện
17
mà ngày càng toàn diện cân đối về tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống tri
thức này sẽ giỳp cỏc em học sinh tiểu học dần hình thành được bức tranh
chung của thế giới hiện thực mà các em cũn cú nhu cầu, trách nhiệm cải tạo
vừa sức phục vụ cho lợi ích của bản thân, cho xã hội trong sự thống nhất với
nhau. Như vậy, dạy học tiểu học có những đặc trưng riêng mà các bậc học,
cấp học khác không thể có, đây được coi là bậc học nền tảng mang lại nền
móng vững chắc cho các bậc học sau này.
Hiện nay, dạy học tiểu học đang tập trung đổi mới mạnh mẽ trong quản
lý nhằm nâng cao chất lượng. Nội dung dạy học tiểu học được điều chỉnh
từng bước. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình và đổi
mới phương pháp dạy học.
Tổ chức cho giáo viên nghiên cứu chuẩn kiến thức, kĩ năng của
chương trình tiểu học, nắm vững tài liệu hướng dẫn dạy học theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng của chương trình và bộ tài liệu phương pháp dạy học các môn
học của Bộ. Tập trung chỉ đạo thực hiện việc điều chỉnh nội dung dạy học cho
phù hợp với đối tượng học sinh trên cơ sở bảo đảm chuẩn kiến thức, kĩ năng
của chương trình; đẩy mạnh việc chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học nhằm

nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học. Triển khai đánh giá sâu về tính sư
phạm, tính khả thi và tính hiệu quả của các môn học.
Xây dựng kế hoạch chỉ đạo, tạo điều kiện để các nhà trường nâng cao
hiệu quả trong việc giúp đỡ học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh giỏi đồng
thời tổ chức kiểm tra, đánh giá, phổ biến kinh nghiệm tốt, tránh bệnh hình
thức.
Tập trung đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá xếp loại học sinh tiểu
học. Việc đỏnh giá, xếp loại học sinh được thực hiện theo Quyết định số
30/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/9/2005 về đánh giá, xếp loại học sinh tiểu
18
học. Đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn đánh giá theo hướng dẫn tại
công văn số 9890/BGDĐT-GDTH ngày 17/9/2007 của Bộ.
Theo đó, việc đỏnh giá xếp loại học sinh căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ
năng của chương trình. Đánh giá và xếp loại học lực của học sinh dựa trên kết
quả tổng hợp đánh giá bằng điểm số và đánh giá bằng nhận xét. Các môn học
được đánh giá bằng điểm số gồm: Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử và
Địa lí, Ngoại ngữ, Tiếng dân tộc, Tin học và cỏc mụn tự chọn. Cỏc mụn đánh
giá bằng nhận xét được phân chia theo từng lớp. Đánh giá bằng nhận xét theo
3 mức: Chưa hoàn thành (B), hoàn thành (A) và hoàn thành tốt (A
+
). Việc
đánh giá bằng nhận xét cần nhẹ nhàng, không tạo áp lực cho giáo viên và học
sinh. Việc đánh giá và xếp loại được tiến hành thường xuyên ( kiểm tra
miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành ) và theo định kì sau từng giai đoạn
học tập của học sinh (giữa học kì I, cuối học kì I, giữa học kì II, cuối học kì
II). Học sinh được xếp loại học lực ở tất cả các môn học vào cuối học kì I,
cuối học kì II và cả năm học.
Thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá đối với các môn học, đặc biệt là
cỏc mụn Tiếng Việt, Lịch sử và Địa lí theo tinh thần phát huy khả năng tư
duy, tính sáng tạo, giảm yêu cầu học sinh phải học thuộc lòng máy móc, nhớ

nhiều sự kiện. Đối với các môn học đánh giá bằng điểm số, kiểm tra cuối học
kì và kiểm tra cuối năm học chủ yếu sử dụng các dạng bài tập, câu hỏi về kiến
thức, kĩ năng cơ bản của chương trình, không lạm dụng các dạng bài trắc
nghiệm. Việc sử dụng kết quả kiểm tra vào đánh giá chất lượng học sinh cũng
đang từng bước được quan tâm cải tiến có hiệu quả.
Giáo viên nắm chắc chất lượng đầu năm học ở tất cả các lớp học nhằm
phân nhóm học sinh, từ đó điều chỉnh, xác định phương pháp dạy học phù
hợp với từng nhóm đối tượng học sinh trong lớp. Cuối lớp 5, các trường tổ
19
chức kiểm tra chất lượng theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc
xét công nhận hoàn thành chương trình tiểu học cho học sinh lớp 5 thực hiện
theo công văn số 5276/BGDĐT-GDTH ngày 25/5/2007 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Tất cả các trường tiểu học có trách nhiệm nhận học sinh chưa hoàn
thành chương trình tiểu học học lại lớp 5. Có thể bố trí lớp riêng để tập trung
dạy học hai môn Toán và Tiếng Việt cho đối tượng này.
Căn cứ tình hình thực tế, Phòng Giỏo dục và Đào tạo chỉ đạo các
trường tiểu học phối hợp với trường trung học cơ sở cùng địa bàn nghiệm thu,
bàn giao chất lượng học sinh lớp 5 lên lớp 6.
Như vậy, quản lý chất lượng học tập của học sinh tiểu học là các
phương pháp hoặc quy trình được tiến hành nhằm kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh tiểu học theo mục tiêu giáo dục tiểu học.
1.2.4. Quản lý chất lượng tổng thể (TQM)
Thuật ngữ quản lý chất lượng tổng thể được TS A.V.Faygenbaum đưa
ra từ những năm 1950 khi ông đang làm việc tại hãng General Electric với tên
gọi viết tắt tiếng Anh là TQM. Từ đó đến nay, TQM luôn được các nhà
nghiên cứu tìm tòi, trong đó cú cỏc nhà nghiên cứu về khoa học quản lý đặc
biệt là QLGD.
Quản lý chất lượng tổng thể là cấp độ quản lý cao nhất phù hợp với các
tổ chức phát triển, có cấu trúc phi tập trung và các cơ chế điều hành mềm dẻo.
Quản lý chất lượng tổng thể hướng vào việc nâng cao chất lượng

thường xuyên nhờ tăng cường sự tham gia của các thành viên trong tổ chức,
tăng cường nền văn hóa chất lượng cao hơn là sự kiểm tra, giám sát hay thậm
chí phối hợp hoạt động với các cơ quan quản lý bên ngoài.
Quản lý chất lượng tổng thể bao gồm một hệ thống các nguyên tắc
quản lý và giá trị. Các học giả khác nhau đưa ra nhiều quan điểm, nguyên tắc
20
và nhấn mạnh những nguyên tắc khác nhau. Schmidt & Finnigan (1992) đưa
ra 8 nguyên tắc quản lý chất lượng tổng thể: sự hài lòng của khách hàng, sự
kích thích, tính quá trình, sự cải thiện thường xuyên, sự hợp tác, sự đổi mới,
sự đánh giá và tính lâu dài. Sims & Sims (1995) nhấn mạnh 4 nguyên tắc: tập
trung vào khách hàng, cam kết cải thiện chất lượng thường xuyên, sự tham
gia của mọi người trong tổ chức và tư duy hệ thống. Theo Phạm Thành Nghị,
quản lý chất lượng tập trung tăng cường khả năng của toàn bộ hệ thống nhằm
nâng cao chất lượng một cách thường xuyên trên cơ sở xây dựng nền văn hóa
chất lượng cao, sự hợp tác của các thành viên và cam kết của lãnh đạo. Những
nguyên tắc chính của quản lý chất lượng tổng thể cần bao gồm: tập trung vào
khách hàng, sự cam kết của lãnh đạo và sự tham gia của các thành viên, cải
thiện chất lượng thường xuyên, xây dựng nền văn hóa chất lượng cao và tư
duy hệ thống.
TQM hiện nay vẫn là triết lý quản lý chất lượng phổ biến và hiện đại
nhất. Bản chất của TQM cũng rất đơn giản, gói gọn trong tám chữ: Khách
hàng - Quản lý - Chất lượng - Toàn diện. Muốn làm chất lượng thì khách
hàng phải thực sự là trung tâm. Mọi hoạt động đều phải hướng tới cỏi đớch
cuối cùng là thỏa mãn nhu cầu của khách hàng (cần lưu ý, nhu cầu ở cả hai
dạng: đó cú hoặc tiềm ẩn). Nguyên tắc quản lý cơ bản là dựa trên lòng tin, tin
và mạnh dạn trao quyền cho cỏc nhúm chất lượng cũng như từng thành viên.
Chất lượng sẽ được đảm bảo nhờ quá trình cải tiến liên tục. Và cuối cùng, làm
chất lượng sẽ không có kết quả nếu không có sự tham gia toàn diện của tất cả
mọi người, ở tất cả mọi công đoạn xuyên suốt quá trình.
Triết lí của TQM: Tất cả mọi người bất kỳ ở cương vị nào, vào bất kì

thời điểm nào cũng đều là người quản lý chất lượng phần việc mình được
giao và hoàn thành nó một cách tốt nhất với mục đích là thỏa mãn nhu cầu
21
của khách hàng. Bao gồm: Sự tham gia toàn diện mang tính xây dựng của
người lao động, lập kế hoạch giám sát từ khâu thiết kế và xuyên suốt toàn bộ
các công đoạn của quá trình
Tinh thần cơ bản của TQM
Chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ là sự đáp ứng yêu cầu của người
tiêu dùng (khách hàng). Chất lượng còn là độ tin cậy, là yếu tố quan trọng của
sức cạnh tranh.
TQM coi khách hàng là trọng tâm vì tiêu chuẩn của chất lượng là sự
hài lòng của khách hàng, chất lượng phải được khách hàng xác nhận.
TQM là hệ thống quản lý lấy con người làm trung tâm, là hệ thống tổng
thể vận hành theo chiều ngang. Trách nhiệm không chỉ thuộc về nhà quản lý
mà là tất cả các thành viên trong tổ chức. Sự tham gia của các thành viên có ý
nghĩa tăng cường sự hợp tác, chia sẻ trách nhiệm, cùng tham gia vào quá trình
ra quyết định, cùng làm việc theo nhóm. Do đó chất lượng đòi hỏi phải có sự
cam kết của tất cả các thành viên trong tổ chức.
TQM chú ý đến chất lượng toàn diện, từ chất lượng đến số lượng, quản
lý chi phí, việc cung ứng và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
Phương châm của TQM là làm tốt ngay từ đầu, ngăn ngừa rủi ro, tránh
sai sót ngay từ khâu đầu tiên của quá trình làm ra sản phẩm hay dịch vụ.
TQM đòi hỏi sự thay đổi của văn hóa tổ chức: thay đổi tác phong, quan
hệ, phương pháp làm việc, quản lý kể cả xây dựng và phát triển truyền thống,
uy tín của tổ chức.
Sự thể hiện nội dung TQM trong Giáo dục
Trước hết cần phổ biến rộng rãi một số quan niệm về TQM: sản phẩm-
khách hàng-bên cung ứng.
22
+ Sản phẩm: là đầu ra của bên cung ứng. Bên cung ứng có thể chỉ là

một người, một tổ chức, một bộ phận trong tổ chức… Sản phẩm có chất
lượng phải gắn liền với mục tiêu, điều kiện không gian, thời gian nhất định.
Chẳng hạn: chất lượng học sinh thời kì HĐH khác với thời kì chống Mĩ cứu
nước, vùng cao, miền núi khác với thành thị, nông thôn.
+ Khách hàng: là người tiêu thụ sản phẩm. Có khách hàng bên trong,
ngoài và tự bản thân. Chẳng hạn: trong một nhà trường, giáo viên - học sinh -
nhõn viờn, các tổ chức đoàn thể của giáo viên, học sinh là khách hàng bên
trong của hiệu trưởng; các cấp lãnh đạo địa phương, cha mẹ học sinh, các tổ
chức ngoài nhà trường, là khách hàng bên ngoài của hiệu trưởng. Đối với cả
nền giáo dục thì khách hàng lớn nhất là toàn xã hội và sản phẩm cao quý nhất
là con người được đào tạo, chất lượng sản phẩm này phụ thuộc vào các điều
kiện khác và cần có hàng loạt sản phẩm trung gian.
+ Bên cung ứng: Cung cấp các sản phẩm.
Quản lý giáo dục là một quá trình, TQM cũng mang tính quá trình. Do
đó khi áp dụng TQM trong GD phải quan tâm đến quy trình trong hoạt động
quản lý. Quy trình thực chất là biến một tập hợp đầu vào thành đầu ra mong
muốn . Trong một nhà trường, chất lượng hoạt động của người hiệu trưởng và
chất lượng hoạt động của GV phải được xem xét dựa trên chức năng riêng của
từng chủ thể. Nguyên tắc bảo đảm chức năng của từng người, từng bộ phận là
nguyên tắc cần thiết để có được sự hợp tắc và cam kết trách nhiệm. Không có
chức năng thì không thể hợp tác [17,33].
Làm gì trong QLGD theo tinh thần TQM
* Thay đổi nhận thức về vị trí người dạy - người học: Một trong những
bí quyết để thực hiện TQM thành công đú chớnh là mọi hoạt động đều phải
xoay quanh nhân vật trung tâm. Nếu ta thống nhất chọn nhân vật trung tâm
23
của hệ thống giáo dục là người học thì đúng ra mọi hoạt động cải cách, dù ở
đâu, cấp nào, làm gì ta đều phải đặt lợi ích của người học lên trên hết.
+ Trong nhà trường, người học là khách hàng quan trọng nhất. Mọi
hoạt động của nhà trường phải xuất phát từ đặc điểm nhu cầu người học, phải

hướng vào việc hình thành và phát triển nhân cách của họ. GV phải giúp HS
phát triển khả năng học và tự học.
+ Vấn đề cốt lõi của TQM là luôn luôn hướng vào khách hàng: trùng
với xu thế GD trong nước và quốc tế: Dạy học hướng vào người học (lấy HS
làm trung tâm). Mọi nỗ lực của nhà trường đều hướng vào việc làm cho HS
được phát triển toàn diện. Người học không phải là người đi học mà là người
được học. Luôn nắm bắt nhu cầu người học để hướng dẫn, tổ chức, điều
khiển, tư vấn cho hoạt động.
* Cần xây dựng một chính sách chất lượng:
+ Thiết lập một tổ chức về chất lượng.
+ Xỏc định các nhu cầu của khách hàng.
+ Xác định khả năng của nhà trường đáp ứng yêu cầu của khách hàng
một cách kinh tế.
+ Hình thành và không ngừng hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn đánh giá.
+ Định kì khảo sát mức độ đạt được các tiêu chuẩn quy định cho từng
loại sản phẩm và mức độ tin cậy của sản phẩm đối với khách hàng.
+ Coi trọng phòng ngừa hơn khắc phục.
+ Đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng, chế độ thưởng phạt rõ ràng.
* Công tác tổ chức chất lượng liên quan đến nhân sự và trách nhiệm
của từng bộ phận, từng người trong tổ chức. Đặt con người vào đúng vai trò,
khả năng sở trường của họ.
24
* Thông tin là huyết mạch của quản lý: Không phải vô cớ mà người ta
núi thụng tin là huyết mạch của quản lý. Tiếp cận theo TQM cũng khẳng định
tầm quan trọng của thông tin. Cần quan tâm, coi trọng thông tin từ hai chiều.
* Sản phẩm của TQM phải đạt ba cấp độ: Cơ bản - cụ thể - gia tăng.
Yêu cầu khi vận dụng mô hình TQM
* Cải tiến liên tục:
+ Thể hiện trong chiến lược nhà trường: nâng dần theo vòng xoáy trôn
ốc: từ trước mắt đến lâu dài, từ thấp đến cao.

+ Chú trọng vào yếu tố tự quản lý:
+ Sẵn sàng phân chia trách nhiệm quản lý nhằm tạo cho mỗi thành viên
tự chủ và chịu trách nhiệm trong công việc.
* Cải tiến từng bước: Được thực hiện bằng các quy mô nhỏ hơn không
bao quát toàn bộ các hoạt động nhằm bảo đảm tính khả thi, thiết thực.
* Hướng tới khách hàng:
+ Tạo ra sự gắn bó giữa cung và cầu ( nhà trường – xã hội).
+ Coi chất lượng là cái mà khách hàng mong muốn, phải đáp ứng nhu
cầu của khách hàng.
+ Có thể đảo ngược thứ bậc tạo ra sự mối tương quan quan trọng quá
trình cung ứng dịch vụ và tầm quan trọng của khách hàng với tổ chức.
Yêu cầu đối với nhà quản lý trong việc sử dụng tiếp cận TQM
+ Luôn ở tư thế sẵn sàng, nhất là những vấn đề cần tháo gỡ, khó khăn.
+ Gây dựng các mối quan hệ cơ bản.
+ Biết thúc đẩy người khác.
+ Nắm bắt, phân tích tình hình thực tế. Tỡm ra nguyên nhân thất bại.
+ Cho mọi người biết định hướng và chiến lược phát triển của tổ chức.
+ Có sự cân nhắc việc tổ chức: sự thay đổi về tổ chức phải luôn hợp lí.
25

×