Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

bài giảng tài chính công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.44 KB, 93 trang )

Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
Chương 1
KHU VỰC CÔNG VÀ TÀI CHÍNH CÔNG
I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Cho đến thời điểm hiện tại, khu vực công nói chung và chính phủ nói riêng có vai trò như
thế nào trong nền kinh tế vẫn là một trong những chủ đề gây ra nhiều tranh luận nhất trong các
học thuyết kinh tế cổ điển và hiện đại. Chương này cung cấp một đánh giá tổng quan về lĩnh vực
công, tài chính công và giải thích tại sao nó là lĩnh vực nghiên cứu quan trọng. Cụ thể:
- Khu vực công là gì ? khái niệm, đặc điểm và lý do để khu vực công tồn tại.
- Tài chính công và vai trò của chính phủ.
- Sự phát triển của tài chính công.
- Bản chất và chức năng tài chính công.
II. NỘI DUNG CHƯƠNG 1
1.1 Khu vực công
1.1.1 Khái niệm khu vực công
Trong đời sống hàng ngày, mỗi chúng ta đều rất cần đến những loại hàng hoá do khu vực
công cung cấp như: y tế, giáo dục, an ninh quốc phòng,… Vậy, khu vực công là gì?
Từ khi nhà nước ra đời, nền kinh tế - xã hội được chia thành hai khu vực: khu vực tư nhân và
khu vực công ( khu vực nhà nước, khu vực chính phủ).
Sự khác biệt giữa hai khu vực ở đây là gì?
- KV công là khu vực phản ánh hoạt động kinh tế chính trị, xã hội do nhà nước quyết định.
- KV tư là khu vực phản ánh các hoạt động do tư nhân quyết định.
Như vậy, sự phân biệt giữa khu vực tư và khu vực công là hoàn toàn dựa vào tính chất sở
hữu và quyền lực chính trị.
* Hiện nay, có 2 khái niệm về khu vực công:
- Khái niệm 1: khu vực công = khu vực nhà nước: mọi thứ, mọi sự đều được quyết định bởi
nhà nước (gắn liền với Việt Nam).
Ví dụ: ở Việt Nam các đơn vị thuộc khu vực công như quỹ tín dụng nhân dân, kho bạc nhà
nước, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân,
Tài chính công
1


Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
- Khái niệm 2: Theo Joseph E. Stiglitz (nhà Kinh tế học người Mỹ, giáo sư Trường Đại học
Columbia), một cơ quan hay đơn vị được xếp vào khu vực công khi có 2 đặc điểm sau:
+ Phương diện lãnh đạo: trong 1 chế độ dân chủ, những người chịu trách nhiệm lãnh đạo các
cơ quan công lập đều được công chúng bầu ra hoặc được chỉ định (trực tiếp hoặc gián tiếp). Ví
dụ: Quốc hội do nhân dân bầu ra sau đó Quốc hội lại chỉ định ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ
tướng,
 đặc điểm này hàm ý rằng, hoạt động của khu vực công phải phục vụ cho đại đa số lợi ích
của cộng đồng tức là khu vực công là khu vực phi lợi nhuận.
+ Quyền lực hoạt động: các đơn vị trong khu vực công được giao 1 số quyền hạn nhất định
có tính chất bắt buộc, cưỡng chế mà các cơ quan tư nhân không thể có được. Chẳng hạn, chính
phủ có quyền buộc công chúng phải nộp thuế, thực hiện nghĩa vụ quân sự,…
Theo đó, có thể nêu ra 1 số hoạt động thuộc khu vực công sau đây:
- Hệ thống các cơ quan công quyền:
+ Hệ thống các cơ quan quyền lực của nhà nước gồm các cơ quan lập pháp (quốc hội), hành
pháp (chính phủ), tư pháp (tòa án và viện kiểm sát).
+ Hệ thống quốc phòng và các cơ quan an ninh (thực chất đây cũng là 1 bộ phận của chính
phủ làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc và đảm bảo trật tự xã hội).
+ Hệ thống các đơn vị cung cấp dịch vụ công ( giáo dục, y tế, thể dục thể thao,…trong đó:
giáo dục và y tế là 2 dịch vụ công phổ biến nhất)
+ Hệ thống các cơ quan cung cấp an sinh xã hội.
- Hệ thống các đơn vị kinh tế nhà nước:
+ Các doanh nghiệp nhà nước.
+ Các định chế tài chính trung gian.
+ Ngân hàng Nhà nước.
+ Các đơn vị được nhà nước cấp vốn hoạt động.
1.1.2 Khu vực công và những vấn đề kinh tế cơ bản (lý do tồn tại khu vực công)
Chúng ta đã biết đến quy luật khan hiếm như sau: trên thế giới, một số quốc gia may mắn
được sở hữu nhiều nguồn tài nguyên như dầu mỏ, kim loại quý hiếm hoặc với trình độ công nghệ
và quản lý tiên tiến mà những quốc gia này giàu có hơn nhiều so với quốc gia khác. Cũng tương

Tài chính công
2
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
tự như vậy đối với các cá nhân, nước nào cũng có người giàu, kẻ nghèo. Tuy nhiên, tất cả các
quốc gia, các cá nhân đều "nghèo" trước nhu cầu của chính họ, đó chính là quy luật khan hiếm.
Quy luật khan hiếm là mâu thuẫn giữa nhu cầu vô hạn và nguồn lực hữu hạn của mỗi quốc
gia, mỗi cá nhân.
Mặc dù sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã nâng cao tính hiệu quả của việc sử dụng
nguồn lực lên nhiều lần nhưng quy luật khan hiếm vẫn tồn tại vì nhu cầu mới luôn nảy sinh, hay
nói cách khác là nhu cầu không có giới hạn và không có điểm dừng.
Chính sự luôn tồn tại của quy luật khan hiếm ở mọi quốc gia, mọi chế độ chính trị mà kinh tế
học đã chỉ ra các vấn đề cơ bản mà nền kinh tế phải giải quyết để phân bổ tối ưu nguồn lực khan
hiếm của mình, đó là:
- Sản xuất cái gì ? Với số lượng bao nhiêu ?
- Sản xuất như thế nào ?
- Sản xuất cho ai ?
Như mọi lĩnh vực của kinh tế học, khu vực công cũng liên quan trực tiếp đến việc giải quyết
các vấn đề cơ bản trên trong quá trình phân bổ nguồn lực công. Phân bổ nguồn lực của khu vực
công liên quan đến sự lựa chọn công, vai trò của Chính phủ và cách thức can thiệp của Chính phủ
vào nền kinh tế. Trong khi đó, phân phối của khu vực tư hoàn toàn chịu sự chi phối của cơ chế thị
trường. Cơ chế thị trường với quy luật khan hiếm, quy luật cung cầu, quy luật giá trị,…yêu cầu sự
phân bổ nguồn lực tối ưu là phải: “ tối đa hoá lợi nhuận”. Dù là vậy, cơ chế thị trường cũng không
thể chi phối hết mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội. Có những hoạt động không thể lấy sự tối đa
hoá lợi nhuận làm mục tiêu phân bổ, chẳng hạn như công bằng và ổn định nền kinh tế. Trong
trường hợp này cần phải áp dụng cơ chế phi thị trường để điều tiết cách thức phân bổ, khắc phục
những thất bại của thị trường.
Như vậy đối với khu vực công khi nghiên cứu giải quyết các vấn đề cơ bản của kinh tế học
trong phân bổ nguồn lực cần chú ý đến các vấn đề cơ bản sau:
- Xác định các hoạt động mà khu vực công có thể tham gia và cách thức tổ chức các hoạt
động đó.

- Dự đoán và tiên liệu các tác động hay hậu quả mà các hoạt động kinh tế của Chính phủ có
thể gây ra cho nền kinh tế và khu vực tư nhân.
- Đánh giá các kịch bản của chính sách công. Có thể dựa vào phương pháp thực chứng hay
phương pháp chuẩn tắc.
Tài chính công
3
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
1.2 Tài chính công và vai trò của Chính phủ
1.2.1 Khái niệm tài chính công
Khái niệm TCC có quan hệ chặt chẽ với khu vực công và được sử dụng để đối lập với khái
niệm tài chính tư.
Thật vậy, nhìn lại lịch sử phát triển của phạm trù Tài chính có thể thấy, khi nhà nước xuất
hiện thì đồng thời cũng xuất hiện các khoản chi tiêu về quản lý hành chính, tư pháp, quốc phòng
nhằm duy trì quyền lực chính trị của nhà nước và những khoản chi tiêu này được tài trợ từ các
nguồn tài chính đóng góp của xã hội như: thuế, công trái,…Từ đây, phạm trù TCC đã bắt đầu xuất
hiện như là 1 khái niệm để phản ánh những hoạt động tài chính gắn liền với chủ thể nhà nước.
Theo dòng thời gian, sự tiếp cận khái niệm TCC cũng có sự khác nhau giữa các nhà kinh tế, sở dĩ
như vậy, là vì bối cảnh kinh tế xã hội đã làm thay đổi quan niệm về vai trò của nhà nước.
Quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển (Adam Smith: cha đẻ của kinh tế thị trường) cho
rằng: TCC là khoa học nghiên cứu sự tài trợ cho các khoản chi tiêu công.
Trong bối cảnh kinh tế hiện đại, Giáo sư Harvey Rosen cho rằng TCC là “ lĩnh vực kinh tế
học phân tích thuế và chính sách chi tiêu của chính phủ” Với cách tiếp cận này, TCC không
những là khoa học nghiên cứu việc sử dụng các công cụ tài chính để tài trợ chi tiêu công, mà còn
phân tích các chính sách thu công, chi tiêu công nhằm mục đích thực hiện vai trò can thiệp của
chính phủ vào nền kinh tế (đây là quan điểm tổng quát hơn).
Theo các nhà kinh tế Pháp (Francoi Adam- Oliver ferrand- Rémy Rioux), TCC là lĩnh vực
nghiên cứu quản lý tài chính của các tổ chức công quyền.
Như vậy, cho dù có những cách tiếp cận khác nhau, nhưng điểm chung của các nhà kinh tế
khi định nghĩa phạm trù này là: TCC là một nhánh của kinh tế học nghiên cứu vai trò của chính
phủ thông qua phân tích tác động thu, chi ngân sách đến các hoạt động kinh tế xã hội. Hay nói

cách khác, TCC cũng được hiểu như kinh tế học của khu vực công hay kinh tế công, chủ yếu đề
cập đến các hoạt động thu thuế và chi tiêu của chính phủ và những ảnh hưởng của nó trong việc
phân bổ các nguồn lực và phân phối thu nhập.
1.2.2 Vai trò của Chính phủ ( phạm vi ảnh hưởng của TCC)
Quá trình phát triển và hoàn thiện chức năng của nhà nước gắn liền với sự phát triển của xã
hội từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn, tự do cạnh tranh đến thị trường hiện đại.
Trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn và kinh tế thị trường tự do cạnh tranh thì nhà nước chỉ
có chức năng cai trị với những hoạt động cơ bản: quản lý hành chính, trật tự xã hội, an ninh quốc
phòng. Các hoạt động kinh tế nằm ngoài chức năng của nhà nước. Quy mô kinh tế lúc bấy giờ còn
Tài chính công
4
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
nhỏ bé và chịu sự chi phối hoàn toàn bởi cơ chế tự điều tiết của thị trường. (đại diện của tư tưởng
này là W Petty, F Quesnay, nổi bật là A. Smith với lý thuyết “bàn tay vô hình”).
Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ XX tư tưởng tự do hoá kinh tế mất dần chỗ đứng và thay vào đó
là một quan điểm mới: nền kinh tế cần có sự can thiệp của nhà nước, nhà nước phải trở thành 1
chủ thể kinh tế và phải có vai trò tích cực hơn. Sở dĩ như vậy là do trong thực tiễn, hàng loạt sự
kiện cho thấy nền kinh tế tự do cạnh tranh mất dần tính ổn định tự thân của nó: khủng hoảng kinh
tế mang tính chu kỳ, thất nghiệp lạm phát đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực đối với nền kinh tế
tư bản, đặc biệt cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 là dấu hiệu rõ nét cho thấy kinh tế
thị trường tự do với cơ chế tự điều chỉnh của nó không còn đủ để duy trì sự phát triển ổn định nền
kinh tế. Theo Keynes, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp là do thiếu sự can thiệp của nhà nước.
Trong tác phẩm kinh tế học của mình, Samuelson cũng khẳng định nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì giống như chỉ vỗ tay bằng 1
bàn tay. Nhà nước trong giai đoạn hiện đại có nhiều chức năng với nhiều sứ mệnh khác nhau. Lúc
này nhà nước không chỉ là một hệ thống cai trị với các cơ quan quản lý hành chính và an ninh mà
còn là một hệ thống phục vụ, một hệ thống điều chỉnh chủ động và có quyền lực tồn tại bên cạnh
cơ chế thị trường để khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Đây là mô hình kinh tế hỗn
hợp: chính phủ - khu vực công và khu vực tư.
* Trong thực tiễn, tuy cùng là mô hình kinh tế hỗn hợp nhưng vai trò của chính phủ ở mỗi

nền kinh tế trong mỗi giai đoạn có khác nhau. Nhìn chung, có thể khái quát sự thay đổi vai trò của
chính phủ từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 cho đến nay như sau:
- Giai đoạn 1950-1970
Từ sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, các nền kinh tế đều cho rằng chính phủ đóng 1 vai
trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội  thiết lập chính sách phát triển kinh tế theo
mô hình hướng nội.
+ Chính phủ quyết định phân bổ mọi nguồn lực trong xã hội thông qua các chương trình kế
hoạch hoá sản xuất kinh doanh.
+ Khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày càng bành trướng trong hệ thống kinh tế và lấn át
hoạt động kinh doanh của khu vực tư.
Liên hệ Việt Nam: trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, ba vấn đề cơ bản của tổ chức
kinh tế được hoạch định từ một trung tâm chỉ huy thống nhất, đó là ủy ban kế hoạch nhà nước các
cấp. Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm gì, số lượng bao nhiêu là theo chỉ tiêu mệnh lệnh từ cấp
trên, các yếu tố đầu vào cho sản xuất được cấp phát theo định mức và sản phẩm làm ra phải giao
Tài chính công
5
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
nộp theo địa chỉ xác định. Nói cách khác, ba vấn đề cơ bản được giải quyết bởi "bàn tay hữu hình"
của chính phủ.
Tuy nhiên, xét về kết quả thì mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung không mang lại thành
quả đáng khích lệ, nền kinh tế mất cân đối, thiếu hụt ngoại tệ, công nghiệp què quặt, mà nguyên
nhân thất bại là do:
+ Hiệu quả về kinh tế kém do các áp đặt có tính chất chính trị gây ra.
+ Thiếu thông tin về thị trường và các tác động của chính sách vĩ mô.
+ Năng lực giám sát đối với các phản ứng của khu vực tư…
- Giai đoạn 1970-1990
Từ thực tiễn các cuộc khủng hoảng dầu lửa vào những năm 1972, 1979: giá dầu leo thang đã
khiến thâm hụt thương mại ở các nước đang phát triển ngày càng lớn, họ cần một khoản tiền vay
lớn từ bên ngoài để bù đắp, với việc các quốc gia đi vay để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khi
giá dầu ở mức cao đã dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ ở nhiều nước 1982; ngoài ra quan điểm về

vai trò của chính phủ đã có những thay đổi nhất định ở các nền kinh tế thị trường theo hướng:
giảm bớt sự can thiệp của chính phủ, thu hẹp khu vực công, đồng thời đẩy mạnh các chính sách
tự do hoá kinh tế và tài chính phù hợp với xu hướng hội nhập toàn cầu. Mô hình này có những
tác động nhất định trong việc khuyến khích khu vực tư phát triển, theo đó các nguồn lực trong nền
kinh tế được khai thác, sử dụng và phân bổ có hiệu quả hơn. Thế nhưng, chính sự thu hẹp khu vực
công đã làm giảm sút việc cung cấp các hàng hoá công thiết yếu cho người nghèo, kéo theo là gia
tăng bất bình đẳng trong xã hội về phân phối thu nhập.
- Giai đoạn từ 1990 đến nay
Trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra với tốc độ nhanh, thêm vào đó là các cuộc khủng hoảng
tài chính- tiền tệ liên tiếp xảy ra ở những nền kinh tế mới nổi Châu Á trong các năm giữa thập kỷ
90 đã dấy lên làn sóng chỉ trích sự yếu kém về vai trò điều tiết vĩ mô của chính phủ. Nhiều nhà
kinh tế cho rằng sự tác động giữa lực lượng thị trường và chính phủ không chỉ đơn thuần là vấn
đề can thiệp và sự tự do của khu vực tư, mà cả 2 khu vực đều có vai trò quan trọng như nhau
trong quá trình phát triển kinh tế. Khu vực tư có tính năng động của nó trong cung cấp hàng hoá,
dịch vụ cho xã hội, thì chính phủ phải có vai trò khắc phục thất bại của thị trường, tạo điều kiện
cho hoạt động kinh doanh của khu vực tư phát triển, đảm bảo tái phân phối và cung cấp những
dịch vụ công cần thiết cho người nghèo.
1.2.3 Tài chính công - những vấn đề lớn
Liên quan đến vai trò của chính phủ, nghiên cứu TCC phải trả lời 4 câu hỏi lớn sau:
Tài chính công
6
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
- Khi nào chính phủ can thiệp vào nền kinh tế?
+ Khi thị trường thất bại. Ví dụ: hàng ngày bạn đi trên những con đường và không phải trả
tiền tư nhân sẽ không làm đường, có cầu và không có cung, thị trường thất bại chính phủ sẽ
làm đường.
+ Tái phân phối thu nhập: theo nguyên tắc phân bổ nguồn lực từ nhóm người mà xã hội cho
là "quá tốt" đến nhóm người mà xã hội cho là "không đủ tốt". Ví dụ: một người tạo ra thu nhập 20
triệu đồng/ tháng và một người tạo ra 500 ngàn đồng/ tháng, chẳng hạn chính phủ lấy đi của người
có thu nhập cao 1 triệu đồng/ tháng (bằng cách đánh thuế) và đem số tiền đó trợ cấp cho người có

thu nhập thấp, lúc này phần lợi ích mà người giàu giảm đi là không đáng kể so với phần lợi ích
mà người nghèo nhận được  điều này khiến xã hội công bằng hơn.
- Chính phủ can thiệp như thế nào? (đây là câu hỏi chuẩn tắc) Chính phủ can thiệp vào thị
trường bằng 2 cách:
+ Can thiệp trực tiếp: quy định mức giá cụ thể đối với sản phẩm và dịch vụ độc quyền như
giá điện, nước, quy định giá trần (giá tối đa) như giá thuê nhà tối đa, lãi suất tối đa, giá sàn (giá
tối thiểu) như tiền lương tối thiểu, giá nông sản tối thiểu để bảo hộ sản xuất nông nghiệp,
+ Can thiệp gián tiếp: đánh thuế, trợ giá,
- Tác động của sự can thiệp là gì? Bao gồm tác động trực tiếp và tác động gián tiếp.
Ví dụ: Để hạn chế tình trạng ùn tắc trong điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông nước ta chưa
phát triển Chính phủ đánh thuế rất cao vào mặt hàng ôtô. Điều này dẫn đến tác động trực tiếp:
chính phủ có thêm nguồn thu, giá ôtô cao hơn, người dân ít mua ôtô hơn, tình trạng giao thông
được cải thiện; tác động gián tiếp là: kìm hãm sự phát triển của công nghiệp sản xuất ôtô trong
nước, giảm ô nhiễm môi trường,
- Tại sao lại lựa chọn như vậy ? bản chất chính trị của sự lựa chọn.
Trên thực tế, chính phủ thường gặp phải khó khăn rất lớn trong việc tổng hợp sở thích của
công chúng để ra các quyết định chính sách hợp lý. Chính vì thế đã nảy sinh là câu hỏi thứ 4 (đây
là câu hỏi thực chứng), theo đó 1 quyết định được chính phủ đưa ra phải thỏa mãn 2 điều kiện:
Chính trị: được lòng dân chúng, tức là phản ánh được nguyện vọng của đại đa số nhân dân; Kinh
tế: chi phí tối thiểu.
Ví dụ:
Bảo hiểm y tế: Ở Mỹ, chủ yếu do khu vực tư đảm trách, ở Anh cung cấp chăm sóc y tế miễn
phí.
Tài chính công
7
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
1.3 Sự phát triển tài chính công
Bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế xã hội, hơn một thế kỷ qua, tài chính công đã có nhiều
biến đổi đáng kể. Sự biến đổi này diễn ra trên 2 phương diện: quan điểm và nhận thức về tài chính
công; cơ chế vận hành của tài chính công. Chúng ta có thể chia tiến trình phát triển của tài chính

công thành 2 giai đoạn:
1.3.1 Tài chính công cổ điển
Đây là thuật ngữ dùng để phản ánh hoạt động của tài chính công gắn liền với bối cảnh kinh
tế - xã hội cuối thế kỷ 19 trở về trước. Trong các nền kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế hàng hoá giản
đơn và kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, chức năng cơ bản của nhà nước là thực hiện các nhiệm
vụ truyền thống như: cảnh sát, tư pháp, quốc phòng và ngoại giao. Còn các hoạt động kinh tế thì
để mặc cho khu vực tư nhân quyết định, nhà nước không can thiệp hay nói khác đi là nhà nước
đứng ngoài các hoạt động kinh tế.
* Những đặc trưng cơ bản của tài chính công cổ điển:
- TCC có tính trung lập: thể hiện
+ TCC không can thiệp, không gây ảnh hưởng đối với các hoạt động kinh tế, không làm thay
đổi thực trạng kinh tế. Nói khác đi, mọi khoản thu chi của nhà nước không theo đuổi bất kỳ mục
đích kinh tế- xã hội nào.
Thuế và các khoản thu công chỉ thực hiện mục đích cơ bản là tạo nguồn thu cho nhà nước.
Khi đặt ra 1 sắc thuế thì mối quan tâm hàng đầu của nhà nước là hiệu quả của nó đối với quỹ ngân
sách. Thuế phải đơn giản, dễ thu để tập trung được nhiều nguồn lực nhất cho nhà nước. Chi tiêu
công chỉ có 1 đối tượng duy nhất là đáp ứng nhu cầu tài chính của nhà nước, không có mục đích
can thiệp vào đời sống kinh tế xã hội.
+ Tính độc lập của TCC. Thật ra thời bấy giờ, lý thuyết kế hoạch hoá nền kinh tế chưa được
hình thành do vậy các nhà hoạch định chính sách TCC không quan tâm đến việc gắn kết giữa kế
hoạch ngân sách với kế hoạch kinh tế; giữa kế hoạch ngân sách với chu kỳ kinh kế. Hiểu cách
khác, kế hoạch TCC được lập trong khuôn khổ ngắn hạn 1 năm và hoàn toàn chỉ chú trọng đến
khía cạnh tài chính chứ không bị chi phối bởi các yếu tố kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc quan trọng nhất của tài chính cổ điển là phải thăng bằng thu chi. Nguyên tổng
thống Pháp, ông G. Doumergue, trong bài diễn văn đọc năm 1934 đã nói:" Người đàn bà nội trợ
đi chợ không được tiêu quá số tiền có trong túi. Nhà nước cũng trong tình trạng y hệt: không được
chi tiêu quá số thu". Điều này hàm ý: nhà nước chỉ được phép chi tiêu trong phạm vi số thu thuế
Tài chính công
8
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng

và chỉ được khai thác nguồn thu thuế để trang trải chi tiêu; số thu thuế cũng không được lớn hơn
số chi của NSNN.
- Thuế là nguồn thu quan trọng nhất của TCC: để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước,
TCC sử dụng các nguồn thu cơ bản sau:
+ Thu nhập từ việc nhà nước cho khu vực tư thuê công sản ( nhà, đất). Ở thời kỳ đầu của
phương thức sản xuất phong kiến, thu nhập từ cho thuê công sản là nguồn thu quan trọng để nhà
nước tài trợ cho bộ máy hành chính. Trong khi đó, thuế là nguồn thu không ổn định, chỉ để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của nhà nước. Nhưng đến thế kỷ 18, với việc gia tăng chi tiêu
công và sự suy giảm về công sản mà nhà nước sở hữu, nên nguồn thu nhập từ cho thuê công sản
ngày càng giảm dần trong tổng số thu của nhà nước.
Ví dụ: Việt Nam đã cho Nga thuê cảng quân sự Cam Ranh (Khánh Hòa) từ 1978 với thời
hạn thuê là 25 năm. Hết 25 năm Việt Nam tiếp tục cho Nga thuê 200 triệu $/ năm  Nga rút đi từ
năm 2004 và hiện nay nơi đây được sử dụng làm cơ sở dân sự.
+ Nguồn thu từ công trái. Nhà nước có thể đi vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu công. Học
thuyết về công trái của TCC cổ điển lập luận rằng:
 Công trái là hình thức thu có tính liên thế hệ - khoản thu trong hiện tại nhưng thế hệ tương
lai phải trả. Nghĩa là qua việc sử dụng công trái, nhà nước đã chuyển gánh nặng chi tiêu trong thế
hệ hiện tại sang thế hệ tương lai.
 Công trái là một khoản thuế thu trước. Nhà nước đi vay, tất nhiên là phải trả nợ sau 1 kỳ
hạn nhất định. Nguồn để nhà nước trả lãi cho chủ nợ chủ yếu là lấy từ thuế.
Từ lập luận trên, học thuyết kinh tế cổ điển cho rằng, công trái không phải là công cụ lâu dài
để tài trợ các khoản chi tiêu công mà chỉ là công cụ tạm thời.
+ Nguồn thu từ thuế. Vì những hạn chế của những nguồn thu trên, kinh tế học cổ điển cho
rằng, thuế là công cụ tài chính chủ yếu để tạo nguồn thu cho nhà nước. Thuế là nguồn thu có tính
cưỡng chế và không hoàn lại. Bằng quyền lực của mình, nhà nước quy định bắt buộc mọi người
dân phải có nghĩa vụ nộp thuế.
Nói tóm lại, TCC cổ điển, theo các nhà kinh tế, là môn khoa học nghiên cứu những công cụ
tài chính mà nhà nước sử dụng để tạo lập nguồn lực qua đó tài trợ cho chi tiêu công. Công cụ
NSNN được thiết lập là nhằm mục đích ấn định con số chi tiêu công trong 1 năm mà nhà nước
phải tìm kiếm nguồn thu để tài trợ. Đồng thời, NSNN đưa ra những nguyên tắc về kế toán để theo

dõi chi tiết và chặt chẽ các khoản chi tiêu công, tránh được sự phí phạm nguồn lực TCC để sao
Tài chính công
9
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
cho chi tiêu công của nhà nước được hợp pháp và có thể được tài trợ bằng những nguồn thu ổn
định.
1.3.2 Tài chính công hiện đại
TCC hiện đại phát triển gắn liền với bối cảnh kinh tế xã hội:
• Nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường có sự can thiệp của nhà nước.
• Hệ thống tiền tệ không ổn định.
• Nền kinh tế phát triển theo xu hướng quốc tế hóa.
Trong bối cảnh đó, TCC hiện đại có những đặc trưng sau:
- Quy mô TCC có xu hướng ngày càng tăng so với GDP
Nếu như trước những năm 1914, tỷ lệ chi tiêu công ở hầu hết các nước tư bản là vào khoảng
10% so với GDP thì sau chiến tranh thế giới thứ 1 tỷ lệ này đã tăng nhanh. Ở Pháp, năm 1958 chi
tiêu công chiếm 33%GDP; Mỹ la 33%; Anh 32%,…
Sự gia tăng quy mô chi tiêu công làm cho chính phủ gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm
soát thâm hụt ngân sách. Đây là lý do giải thích tại sao chính phủ phải đẩy mạnh chính sách phi
tập trung hoá tài chính giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương nhằm giảm bớt
gánh nặng chi tiêu. Theo đó, quyền lực của chính quyền địa phương được lớn dần và có nhiều
quyền hơn trong quyết định ngân sách.
-Tính phi trung lập của TCC
Với những vấn đề kinh tế xã hội xảy ra sau cuộc chiến tranh thế giới thứ 1, nhà nước không
thể đứng ngoài các hoạt động kinh tế mà phải tham gia để khắc phục những khuyết tật của cơ chế
thị trường tự do cạnh tranh nhằm bằng phẳng hoá chu kỳ kinh tế, đảm bảo nền kinh tế phát triển
ổn định. Sự can thiệp của nhà nước được thực hiện thông qua hệ thống luật pháp và các công cụ
kinh tế.
Trong bối cảnh đó, TCC không những là công cụ để nhà nước huy động các nguồn lực của
xã hội để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước mà còn là công cụ để nhà nước can thiệp vào
các hoạt động kinh tế xã hội.

+ Về phương diện kinh tế, bằng việc thực hiện chính sách thuế có phân biệt ưu đãi đối với
các loại hàng hoá, ngành nghề, các địa phương để điều chỉnh cơ cấu kinh tế, ổn định giá cả thị
trường, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển cân đối. Đồng thời, thông qua các khoản chi tiêu
Tài chính công
10
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
công nhà nước tiến hành trợ cấp và chia sẽ rủi ro với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong các
lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh.
+ Về phương diện xã hội, nhà nước thực hiện phối hợp chính sách thuế và chính sách chi
tiêu công để điều tiết và phân phối thu nhập công bằng giữa các đối tượng trong xã hội.
+ Về phương diện quản lý, TCC hiện đại không nhất thiết luôn phải có sự cân bằng thu chi,
mà có thể hy sinh sự cân bằng này để góp phần điều chỉnh nền kinh tế vận hành theo định hướng
của nhà nước. Theo đó, khuôn khổ quản lý thu chi ngân sách không bị giới hạn trong 1 năm mà
phải gắn liền với kế hoạch phát triển kinh tế trung và dài hạn.
- TCC sử dụng nhiều công cụ khác nhau để tạo lập nguồn thu cho nhà nước, do quy mô chi
tiêu công ngày càng tăng nên nhà nước sử dụng nhiều công cụ để tạo lập nguồn lực tài chính.
Thuế không còn là công cụ duy nhất như trong thời kỳ tài chính cổ điển. Bên cạnh thuế nhà nước
thường xuyên sử dụng công cụ công trái.
- Cải cách TCC không còn xuất phát từ quan điểm của từng quốc gia riêng rẽ mà phải tính
đến những yêu cầu của quá trình toàn cầu hoá. Sự hội nhập yêu cầu các quốc gia phải cải cách và
tổ chức lại thể chế TCC ngày càng phải đạt được quy chuẩn của quốc tế về chính sách thuế, chính
sách quản lý nợ quốc gia; chi tiêu công phải hướng đến kết quả - đầu ra nhằm nâng cao hiệu quả
của khu vực công; kế toán và sự minh bạch thông tin về NSNN. Hơn nữa, hội nhập sẽ tạo điều
kiện cho nền kinh tế dễ dàng tiếp cận và khai thác các khoản vay trên thị trường tài chính quốc tế,
nhưng cũng chính điều này đặt ra cho TCC của quốc gia phải gánh chịu nhiều rủi ro không chỉ
bao gồm các khoản nợ trực tiếp, rõ ràng mà còn cả các khoản nợ bất thường ngầm định.
1.4. Bản chất và chức năng của tài chính công
1.4.1 Bản chất TCC

Bản chất kinh tế

TCC phản ánh tổng thể mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội trong quá trình phân
phối các nguồn lực tài chính. Bản chất kinh tế của TCC bắt nguồn từ sự quan tâm của chính phủ
đến quy mô chiếc bánh kinh tế. Hoạt động thu, chi của chính phủ phải hướng đến sao cho tối đa
hoá hiệu quả của nền kinh tế.
Xét về hiện tượng, TCC phản ánh hoạt động thu chi bằng tiền của nhà nước. Nhưng đằng
sau hiện tượng đó là ẩn dấu mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa nhà nước với xã hội trong quan hệ
phân phối nguồn lực tài chính, biểu hiện là : mâu thuẫn giữa khả năng đóng góp nguồn lực tài
chính của xã hội với nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Trong 1 nền kinh tế, nguồn lực tài chính luôn
có sự giới hạn nhất định về quy mô và khả năng tạo lập. Điều này có nghĩa là, khu vực tư cũng
Tài chính công
11
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
không có nhiều khả năng để cung cấp nguồn lực tài chính dồi dào cho nhà nước. Bản thân khu
vực này luôn cần có nguồn lực tài chính ở quy mô nhất định để trang trải cho các nhu cầu thường
xuyên và đầu tư. Vả lại, đây là những nhu cầu rất cần thiết để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế. Chính
vì vậy, trong chính sách huy động nguồn lực của mình, nhà nước cần chú trọng sử dụng các công
cụ tài chính công ở chừng mực sao cho tạo lập nguồn lực tài chính với quy mô thích hợp trong sự
cân bằng về lợi ích kinh tế với khu vực tư để nhằm tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nếu vì nhu cầu chi tiêu công ngày càng tăng, nhà nước lại thực hiện chính sách tập trung cao độ
nguồn lực tài chính của xã hội, thì điều này không những làm triệt tiêu động lực kinh tế của khu
vực tư mà còn tăng thêm gánh nặng cho xã hội. Cũng cần thấy rằng, việc khu vực tư đóng nộp
thuế cho nhà nước thể hiện 1 sự hy sinh 1 phần thu nhập của họ trong tiêu dùng hay đầu tư. Vì
vậy, chi tiêu công và sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế cần phải tạo ra những lợi ích nhất
định hay ít ra là phải đủ bù đắp lại sự hy sinh của khu vực này.

Bản chất chính trị
Nguồn gốc xa xưa của TCC đã gắn bó chặt chẽ với quyền lực chính trị của nhà nước. Thực
tiễn hệ thống chính trị là yếu tố cơ bản và chi phối toàn bộ hoạt động của TCC. TCC không thể
vận hành bên ngoài khuôn khổ chính trị, vì không có chính trị thì không thể nào thoã mãn được
các mục tiêu có tính xã hội. Nói khác đi, với quyền lực chính trị của mình giúp cho chính phủ có

được nguồn lực TCC, qua đó trang trải các nhu cầu chi tiêu công nhằm đảm bảo thực hiện các
mục tiêu xã hội.
TCC thuộc sở hữu nhà nước và là công cụ để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà
nước đảm nhận, trong đó tái phân phối và đảm bảo công bằng là nhiệm vụ trọng tâm. Trong nền
kinh tế hiện đại, các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của nhà nước trong từng giai đoạn phát triển được
quyết định bởi cơ quan quyền lực cao nhất đó là quốc hội. Quốc hội là chủ thể duy nhất quyết
định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ các
khoản thu chi của TCC tương ứng với các nhiệm vụ của nhà nước theo chiến lược đã hoạch định
nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả nhất các nhiệm vụ đó.
Như vậy, chính trị là nền tảng tổ chức các mặt hoạt động của xã hội, cho nên khi nghiên cứu
TCC phải chú trọng mối quan hệ chặt chẽ với toàn bộ hệ thống quyền lực chính trị của quốc gia.
1.4.2 Chức năng của TCC
TCC có các chức năng sau đây:
1.4.2.1 Chức năng huy động nguồn lực tài chính
Tài chính công
12
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
Sự tồn tại khu vực công đòi hỏi cần phải có 1 nguồn lực tài chính tương ứng nhằm trang trải
các nhu cầu chi tiêu và phát triển của khu vực này. Do vậy, TCC phải có chức năng tổ chức huy
động nguồn lực.
Thực hiện chức năng này, nhà nước thiết lập hệ thống các công cụ tài chính với nhiều hình
thức huy động khác nhau: huy động cưỡng chế, huy động tự nguyện,… từ các chủ thể kinh tế - xã
hội để tập trung nguồn lực tài chính tài trợ cho nhu cầu chi tiêu công.
Huy động nguồn lực của TCC phải đặt trên nền tảng:
- Đánh giá tiềm năng nguồn lực tài chính trong nền kinh tế.
- Tính toán nhu cầu chi tiêu công và quan hệ giữa chính sách thu công với các biến số vĩ mô
(lạm phát, tăng trưởng kinh tế, việc làm, ).
- Lựa chọn công cụ phù hợp (thuế, phí, lệ phí, vay nợ, ).
- Đánh giá hiệu quả chính sách huy động nguồn lực.
Tuy nhiên, chính sách huy động nguồn lực của TCC có sự giới hạn về quy mô, bởi lẽ: thuế

chỉ có thể tăng khi GDP tăng, ngược lại nếu GDP không tăng thuế tăng sẽ làm giảm tăng trưởng,
tác động làm lấn áp đầu tư tư nhân.
1.4.2.2 Chức năng phân bổ nguồn lực tài chính
Chức năng phân bổ nguồn lực của TCC thể hiện qua việc sắp xếp, lựa chọn và đánh đổi giữa
các nhu cầu chi tiêu công của nhà nước trong sự giới hạn của nguồn lực TCC để hướng vào thực
hiện theo những ưu tiên chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đã được hoạch định.
Về mặt kỹ thuật, chức năng phân bổ nguồn lực của TCC thể hiện qua việc lập kế hoạch và
chiến lược chi tiêu. Kế hoạch này gồm 2 phần:
+ Quyết định phân bổ cơ bản ( mục tiêu cơ bản).
+ Xác lập các khoản mục theo thứ tự ưu tiên trong sự so sánh với các nguồn lực sẵn có.
Tài chính công
13
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
1.4.2.3 Chức năng tái phân phối thu nhập
Chức năng này của TCC được hiểu như sau:
Tái phân phối = phân phối lại thông qua:
(i) thu thuế từ các chủ thể trong xã hội;
(ii) thực hiện phân bổ và chuyển giao nguồn thu này trở lại cho xã hội.
Cơ chế chuyển giao:
- Cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cho mọi đối tượng trong xã hội. Cơ chế này không phân
biệt đối tượng là có nộp hay không nộp thuế mà mọi đối tượng trong xã hội đều có cơ hội như
nhau trong việc thụ hưởng những lợi ích từ hàng hoá công do nhà nước cung cấp.
- Hỗ trợ để ổn định giá cả của những mặt hàng thiết yếu trong đời sống kinh tế - xã hội.
- Hỗ trợ trực tiếp cho 1 số đối tượng được sàng lọc qua các chương trình chi tiêu. Ví dụ: các
chương trình tín dụng chỉ định của nhà nước, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em,…
Tài chính công
Nguồn lực tài
chính công
Nguồn lực tài
chính của khu

vực doanh
nghiệp và hộ
gia đình
Các quỹ tiền tệ
chuyên dùng của tài
chính công
Hàng hoá, dịch
vụ công
Huy động
Phân bổ
Chi tiêu công
14
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
Chức năng tái phân phối thu nhập của TCC hướng đến mục tiêu là công bằng xã hội. Tuy
vậy, hiệu ứng của chức năng này có những giới hạn nhất định bởi lẽ:
- Trong 1 xã hội mà dân cư có thu nhập trung bình và thấp chiếm đại bộ phận thì không gây
ra hiệu ứng tái phân phối đối với mục tiêu công bằng.
- Hiện tượng trốn thuế, đẩy gánh nặng thuế sang cho người tiêu dùng gánh chịu thông qua cơ
chế giá cũng làm hạn chế hiệu ứng tái phân phối.
- Nền kinh tế lạm phát, giá cả hàng hoá tăng thì sự tái phân phối cũng không làm cải thiện
đời sống hay phúc lợi của những người có thu nhập thấp trong xã hội.
- Đánh thuế cao vào khu vực kinh doanh sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp tăng
cường đầu tư phát triển kinh doanh  kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội ít
được cải thiện.
1.4.2.4 Chức năng giám sát
Mục đích của chức năng này là để nâng cao hiệu quả hoạt động của TCC qua đó thực hiện
tốt chức năng quản lý kinh tế xã hội của nhà nước. Chức năng giám sát của TCC được thực hiện
xuyên suốt trong quá trình huy động và phân bổ nguồn lực. Nội dung kiểm tra của TCC bao gồm:
- Kiểm tra các hoạt động liên quan đến việc sử dụng nguồn lực TCC, bao gồm kiểm tra tính
tuân thủ/ chấp hành luật pháp và kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động.

Tài chính công
Nhóm người có thu nhập
trung bình
Nhóm người có thu nhập thấp và
nghèo
Thu thuế
Quỹ ngân
sách
Nhóm người có thu nhập cao
15
Tái phân
phối thu
nhập
thông qua
các khoản
chi
chuyển
giao
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
- Cung cấp thông tin cho người quản lý để đưa ra các giải pháp điều chỉnh hoạt động của
TCC.
- Đo lường hành vi phản ứng của thị trường đối với các chính sách can thiệp và tái phân phối
của chính phủ.
Chú ý: - Mọi thứ đều phải quy ra tiền.
- Người chi tiêu và người giám sát là 2 người khác nhau.
- Các chương trình chi tiêu của chính phủ đều phải có thời gian.
Kết luận: Việc thực hiện các chức năng cơ bản của TCC giúp cho cơ chế quản lý tài chính
đáp ứng đúng mục tiêu và nhiệm vụ của Chính phủ đối với nền kinh tế. Đảm bảo được cơ chế
minh bạch, chống được sự lãng phí và tham nhũng.
Tài chính công

16
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
Chương 2
HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
I. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Theo quy luật khan hiếm, nguồn lực của quốc gia là hữu hạn, vì vậy để phân phối có hiệu
quả yêu cầu nền kinh tế phải chấp nhận thị trường cạnh tranh. Khi các điều kiện cần thiết không
được thị trường đảm bảo thì đó chính là căn cứ để chính phủ can thiệp vào thị trường. Chương
này trước hết đi vào nghiên cứu tối đa hoá thoả dụng trong điều kiện giới hạn nguồn lực làm nền
tảng cho việc phân bổ nguồn lực và lựa chọn chính sách chi tiêu công; tiếp đến đi vào thảo luận
các định lý phúc lợi xã hội làm căn cứ cơ bản cho sự hoạch định chính sách công của chính phủ.
Cụ thể:
- Lựa chọn tối ưu trong điều kiện giới hạn nguồn lực
- Các định lý về hiệu quả xã hội của kinh tế học phúc lợi
- Thất bại thị trường trong phân bổ nguồn lực
II. NỘI DUNG CHƯƠNG 2
2.1 Lựa chọn tối ưu trong điều kiện giới hạn nguồn lực
Đây là vấn đề cơ bản của TCC. Nghiên cứu nó trước hết chúng ta sử dụng các công cụ lý
thuyết để qua đó hiểu được cơ chế ra quyết định chính sách công. Đó là các công cụ đồ thị và mô
hình toán học (các công cụ đồ thị như là đường cung, đường cầu, đường bàng quan, đường ngân
sách,… và các mô hình toán). Sau đó, công cụ thực nghiệm cũng được thực hiện. Đây là những
công cụ cho phép chúng ta phân tích dữ liệu và trả lời câu hỏi đặt ra từ phân tích lý thuyết.
2.1.1 Mở đầu: trước hết chúng ta trả lời 2 câu hỏi:
- Đâu là giá trị của cuộc sống ? (1)
- Yếu tố kinh tế và yếu tố phi kinh tế ? (2)
2.1.2 Quy luật sở thích
* Xét 1 người tiêu dùng hợp lý: tức là người tiêu dùng luôn xác định được sở thích của mình,
thích nhiều hơn thích ít và sở thích có tính chất bắc cầu (thích A hơn thích B; thích B hơn thích C
thì người đó thích A hơn thích C).
Tài chính công

17
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
Giả sử trong 1 xã hội gồm có 2 hàng hoá X (lương thực) và Y (quần áo) thì người tiêu dùng
sẽ tiêu dùng 2 hàng hóa X và Y. Họ sẽ cho điểm các giỏ hàng hóa gồm X, Y khác nhau phụ thuộc
vào mức độ thỏa mãn mà họ cảm nhận được (điểm càng lớn thì độ thỏa mãn càng cao). Lúc này,
hàm thỏa dụng của người tiêu dùng sẽ có dạng:
TU = f ( X, Y )
( Hàm thoả dụng (TU): là 1 hàm số toán học phản ánh tập hợp sở thích của cá nhân; cá
nhân thích nhiều hơn thích ít: X, Y tăng thì TU tăng)
Hàm số này có đặc điểm sau: giả sử đây là hàm liên tục thì có đạo hàm riêng
dTU/dX > 0 và dTU/dY > 0
* Nếu, tất cả các giá trị X và Y làm cho hàm TU const ta có đường bàng quan. Hay đường
bàng quan ( IC: indifference curve ) phản ánh tập hợp tất cả các nhóm tiêu dùng hàng hoá mà cá
nhân có cùng mức thoả dụng. ( bàng quan: sao cũng được)
Đường bàng quan có các tính chất sau:
+ Đây là các đường dốc xuống
+ Lồi về góc toạ độ
+ Đường bàng quan càng xa gốc toạ độ thì mức thoả dụng đạt được càng lớn.
+ Các đường bàng quan không cắt nhau
* Thoả dụng biên: (MU: marginal utility) là mức độ thoả mãn tăng thêm khi người ta tăng
sử dụng 1 đơn vị hàng hoá.
MU = TU/Q
MU
X
= TU/X = dTU/dX > 0 ; MU
Y
= TU/Y = dTU/dY > 0.
Tuy nhiên, khi tiêu dùng càng nhiều một loại sản phẩm nào đó thì thoả dụng biên của sản
phẩm về sau sẽ nhỏ hơn thoả dụng biên của các sản phẩm trước. Điều này là vì nhu cầu của con
người đã được thoả mãn 1 phần do vậy mức độ thoả mãn thêm sẽ không còn như lúc đầu. Đây

chính là quy luật thoả dụng biên giảm dần. Hay: dMU
X
/ dX
2
< 0 ; dMU
Y
/ dY
2
< 0
* Độ dốc của đường bàng quan
Do đường bàng quan không phải là đường thẳng cho nên độ dốc của đường bàng quan không
ổn định. Cho nên người ta tính độ dốc của đường bàng quan trên 1 đoạn AB nào đó (đoạn đủ nhỏ
để xem như tuyến tính - đường thẳng).
Tài chính công
18
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng


Y
O X X
Tg α = - Y/ X
Mà MU
X
= TU/X  X = TU/ MU
X
Tương tự : Y = TU/ MU
Y

tg α =
- TU/MU

Y
TU/MU
X

tgα =
- MU
X
MU
Y
Đặt - MU
X
/ MU
Y
là tỷ lệ thay thế biên (MRS)
Về mặt đại số thì độ dốc của đường bàng quan chính là tỷ lệ thay thế biên giữa 2 hàng hoá,
đây chính là tỷ lệ đánh đổi giữa 2 hàng hóa trong điều kiện duy trì mức thoả dụng không đổi.
* Giới hạn ngân sách
Giả định: 1, TU = f (X,Y )  max
2, Người tiêu dùng đó có thu nhập là I đồng.
Giá cả của hàng hoá X là P
X
và giá cả của hàng hoá Y là P
Y
.
Ông ta dùng hết thu nhập của mình chi tiêu cho hàng hoá X và Y.
Ta có: I = X. P
X
+ Y. P
Y
(Phương trình của đường ngân sách)

 Y = I/P
Y
– X. P
X
/ P
Y
= - (P
X
/P
Y
).X + I/P
Y
( Phương trình dạng y = ax +b)
 Độ dốc của đường ngân sách là – (P
X
/ P
Y
)
Ta có: 2 điểm chặn của đường ngân sách
Tài chính công
19
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
Y
X= 0 thì Y= I/P
Y
I/P
Y

Y=0 thì X= I/P
X



O I/P
X
X
* Kết hợp giữa đường bàng quan và đường ngân sách
Khi kết hợp giữa đường bàng quan và đường giới hạn ngân sách trên 1 hệ trục toạ độ sẽ hình
thành nên cơ chế lựa chọn sở thích trong điều kiện nguồn lực bị giới hạn. Nguồn lực là có hạn nên
câu hỏi đặt ra là : lựa chọn nhóm hàng hoá nào là tối ưu hoá mức thoả dụng? Sở thích nói lên cái
gì chúng ta muốn, còn giới hạn ngân sách nói lên cái mà người tiêu dùng thực tế có thể mua.
Y
M
IC
3

IC
2


N IC
1

O
X
Trường hợp 1: đường bàng quan cắt đường ngân sách tại hai điểm. Với thu nhập cho trước
người tiêu dùng có khả năng đạt được mức thoả dụng này, tuy nhiên đây là trường hợp người tiêu
dùng sử dụng thu nhập chưa hiệu quả bởi vẫn có khả năng đạt được IC
2
.
Trường hợp 3: đường bàng quan và đường ngân sách không có điểm chung. Trường hợp này

là trường hợp không đạt được trong tiêu dùng vì vượt quá khả năng ngân sách.
Trường hợp 2: đường bàng quan và đường ngân sách tiếp xúc tại 1 điểm duy nhất. Do không
còn phương án nào tốt hơn nên điểm tiếp xúc là phương án hiệu quả.
Tài chính công
20
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
Điều kiện để đường bàng quan tiếp xúc với đường ngân sách là độ dốc của chúng bằng nhau.
Tức là:
- MU
X
/MU
Y
= - P
X
/P
Y

Hay: MU
X
/ P
X
= MU
Y
/P
Y
Phương án tối ưu hoá tiêu dùng sẽ đạt được khi tỷ lệ thay thế biên giữa 2 loại hàng hoá
bằng tỷ lệ giá cả giữa chúng hay nói cách khác 1 đồng tiêu thêm cho hàng hoá X và Y đều mang
lại độ thoả dụng như nhau.
Có người sẽ hỏi, ngoài điểm tối ưu trên, còn điểm nào khác làm cho ông A tốt hơn hay
không ? Xét điểm M, độ dốc của đường IC

1
lớn

hơn độ dốc của đường ngân sách. MRS lớn hơn tỷ
lệ giá cả. Hay nói cách khác, mức thoả dụng biên của hàng hoá X so với hàng hoá Y cao hơn tỷ lệ
giá cả của 2 loại hàng hoá X so với hàng hoá Y. Điều này có nghĩa là cá nhân đã từ bỏ Y để đổi
lấy X nhiều hơn mức mà thị trường yêu cầu. Điểm N, ngược lại cá nhân đã từ bỏ Y để đổi lấy X ít
hơn mức thị trường yêu cầu.  không hiệu quả.
Ứng dụng vào bài tập: I = X.P
X
+ Y.P
Y


X, Y ? (Đây là phương án hiệu quả)
MU
X
/ P
X
= MU
Y
/P
Y
* Tác động của thu nhập.
Thu nhập tăng (I tăng)  I/ P
X
và I/P
Y
tăng  đường ngân sách dịch chuyển song song ra xa
gốc toạ độ, độ dốc không đổi. Người tiêu dùng có cơ hội đạt được điểm tiếp xúc với đường bàng

quan xa gốc toạ độ hơn  độ thoả dụng lớn hơn.
Y Y
TU
1
TU
1
TU
2
TU
2
O X O X
* Tác động của giá cả.
Giá P
X
giảm, X được tiêu dùng nhiều hơn  I/P
X
tăng, đường ngân sách thoải hơn về phía
X. Điểm tiếp xúc đạt được ở đường bàng quan xa hơn độ thoả dụng lớn hơn.
Tài chính công
21
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
* Trên giác độ nền kinh tế
Mô hình tối ưu hoá tiêu dùng hàm ý hiệu quả kinh tế nếu đường bàng quan là của cả xã hội;
X và Y là hai loại hàng hoá đối lập nhau ( giả sử là hàng xa xỉ và hàng thiết yếu ). Khi đó thị
trường luôn tìm được hiệu quả, luôn xác định được là: sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu, sản
xuất cho ai… Tuy nhiên, điểm tối ưu của thị trường không nhất thiết là điểm tối ưu của xã hội.
Chính phủ sẽ can thiệp vào nền kinh tế để đạt được điểm tối ưu như mong muốn.
Chẳng hạn: Chính phủ nhận thấy đối với nền kinh tế Việt Nam đang nghèo nàn tức là dân
chúng sử dụng nhiều hàng thiết yếu và ít hàng xa xỉ. ( điểm A: tối ưu thị trường )
Hàng thiết yếu

TU
1
TU
2
A B
O Hàng xa xỉ
Lúc này: Khu vực công (hay Chính phủ ) sẽ điều chỉnh sao cho làm cho giá các loại hàng xa
xỉ giảm xuống. Theo cơ chế tác động của giá cả thì người tiêu dùng sẽ có cơ hội đạt được độ thoả
dụng lớn hơn (điểm B: điểm tiếp xúc giữa đường bàng quan TU
2
và đường ngân sách mới), người
tiêu dùng có thể sử dụng nhiều hàng xa xỉ hơn trong cuộc sống của mình.
2.2 Các định lý về hiệu quả xã hội của kinh tế học phúc lợi
2.2.1 Hiệu quả Pareto (Wilfredo Pareto (1848-1923) là một nhà toán học người Ý)
Hiệu quả và công bằng là 2 mặt thuộc đối tượng nghiên cứu của kinh tế học phúc lợi và là
tiêu chí chuẩn tắc.
Ở đây chúng ta phân biệt 2 thuật ngữ: thực chứng và chuẩn tắc.
+ Thực chứng hiểu nôm na là kiểm chứng các vấn đề lý luận vào thực tiễn. Ví dụ: Dự án cải
tạo 1 con đường đất nâng cấp thành đường nhựa thì cư dân trong vùng sẽ được lợi như thế nào khi
thời gian và chi phí lưu thông giảm đi. Tất cả các giả thuyết đều có thể kiểm định lại bằng thực
tiễn.
+ Chuẩn tắc là gì? tiêu chí được đưa ra dựa trên nhận định chủ quan cơ bản về điều gì đáng
có hoặc cần làm để đạt được kết quả mong muốn, ví dụ: với dự án mở đường trên thì liệu có còn
Tài chính công
22
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
phương án nào khác có hiệu quả hơn hay không). Mục đích trọng tâm của kinh tế học phúc lợi là
đưa ra 1 khuôn khổ đánh giá các nhận định mang tính chuẩn tắc về phúc lợi kinh tế. Thực tế cho
thấy, không có 1 chính sách nào được coi là hoàn hảo. Điều quan trọng là người hoạch định chính
sách cần phải biết lựa chọn những chuẩn mực rõ ràng để làm cơ sở cho việc ra quyết định chính

sách của họ.
Kinh tế học phúc lợi lấy phúc lợi xã hội làm trung tâm nghiên cứu thông qua đánh giá về độ
thoả dụng. Nhà nước phải quan tâm đến việc nâng cao phúc lợi của người dân; theo đó, mọi
chính sách công của nhà nước phải phản ánh được sự lựa chọn chung của toàn thể công chúng.
Hiệu quả là tiêu chí dùng để đánh giá tình trạng sử dụng nguồn lực của các cá nhân. Theo
nghĩa thông thường thì hiệu quả là tạo ra kết quả mong đợi với chi phí thấp nhất.
Trong khi, kinh tế học phúc lợi lại sử dụng khái niệm hiệu quả Pareto để xác lập tính hiệu
quả trong phân bổ đạt được khi không còn cách nào tổ chức lại quá trình sản xuất hay tiêu dùng
để có thể tăng thêm độ thoả dụng của người này mà không làm giảm mức độ thoả dụng của người
khác. Như vậy, 1 phương án được đánh giá là đạt được hiệu quả Pareto khi ngoài phương án đó ra
không có sự phân bổ nguồn lực nào để ít nhất 1 người có lợi hơn mà lại không làm giảm đi lợi ích
của người khác.
Theo quan điểm hiệu quả của Pareto thì:
+ Mỗi cá nhân là người đánh giá tốt nhất độ thoả dụng của mình.
+ Xã hội là tổng thoả dụng của các cá nhân trong cộng đồng.
+ Nếu xã hội có thể tái phân bổ các nguồn lực để làm tăng độ thoả dụng của một cá nhân mà
không làm giảm độ thoả dụng của các cá nhân còn lại thì phúc lợi xã hội sẽ tăng thêm.
• Xây dựng mô hình hiệu quả Pareto
- Hộp Edgeworth
Để đơn giản hoá cho việc phân tích, chúng ta giả định nền kinh tế chỉ có 2 người (Adam và
Eva), tiêu dùng hai mặt hàng (lương thực và quần áo) với mức cung cố định. Chiều dài hộp
Edgeworth (đoạn thẳng Os) thể hiện tổng số lương thực của nền kinh tế; chiều cao Or đo lường
tổng số quần áo. Lượng hàng hoá mà người A tiêu thụ được đo bằng các khoảng cách từ điểm O;
lượng hàng hoá tiêu thụ của người E được đo bằng khoảng cách O’. Chẳng hạn, ở điểm v, người
A tiêu thụ Ox quần áo và Oy lương thực, còn người E tiêu thụ O’z lương thực và O’w quần áo.
Như vậy, bất kỳ điểm nào trong hộp Edgeworth cũng biểu thị cách thức phân phối hàng hoá lương
thực và quần áo giữa người A và người E.
Tài chính công
23
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng

O’
A
3
z E
A
1
A
2
Quần áo/ năm
v w
x E
1
E
2
y E
3
O A Lương thực/ năm s
Do nhu cầu của mỗi người là khác nhau nên người A và người E có một tập hợp các đường
đẳng dụng biểu thị những sở thích của họ đối với lương thực và quần áo. Hình trên đây thể hiện
tập hợp những đường đẳng dụng của cả 2 người cùng đặt trong hộp Edgeworth. Tập hợp các
đường đẳng dụng của A gọi là A
i
; tập hợp các đường đẳng dụng của E là E
j
. Các đường đẳng
dụng có chỉ số càng lớn biểu thị độ thoả dụng càng cao. Độ thoả dụng của người A trên đường A
3
cao hơn đường A
2
, A

1
. Tương tự, độ thỏa dụng của người E trên đường E
3
cao hơn E
2
và E
1
. Nói
chung, độ thoả dụng của người A tăng lên khi đường đẳng dụng dịch chuyển ra xa góc toạ độ theo
hướng đông bắc, độ thoả dụng của người E tăng lên khi đường đẳng dụng dịch ra xa theo hướng
tây nam.
- Hiệu quả Pareto và sự cải thiện Pareto
Với điểm g trên hình dưới đây - điểm bất kỳ sự phân phối giữa hàng hoá lương thực và quần
áo biểu thị đường đẳng dụng A
g
của người A cắt đường đẳng dụng E
g
của người E. Câu hỏi đặt ra
là: liệu có thể phân phối lại hàng hoá lương thực và quần áo giữa người A và người E theo cách
nào khác để sao cho người A tốt hơn mà không làm cho người E bị thiệt đi hay không? Trả lời: là
có thể tìm ra một sự phân phối như thế. Thật vậy, xét điểm h, người A sẽ ở trong trạng thái phân
phối tốt hơn bởi vì đường đẳng dụng A
h
thể hiện độ thoả dụng cao hơn đường A
g
; trong khi người
E cũng không bị thiệt hơn tại điểm h vì đường đẳng dụng gốc hay ban đầu của người E là E
g
.
Ngoài điểm g, liệu phúc lợi của người A có thể gia tăng được hơn nữa hay không mà không làm

tổn hại đến lợi ích của người E? Dễ dàng nhận thấy, nếu như người A di chuyển đường đẳng dụng
thêm nữa theo hướng ra xa gốc toạ độ (đông bắc) mà vẫn còn cắt đường E
g
thì điều này có thể xảy
ra. Cứ lập lại tiến trình này cho đến khi đường đẳng dụng của người A tiếp cận đường đẳng dụng
E
g
của người E tại điểm p. Cách này sẽ đặt cho người A trên đường đẳng dụng cao hơn và không
Tài chính công
24
Bộ môn Tài chính – Ngân hàng
di chuyển người E xuống đường đẳng dụng thấp hơn. Điểm p chính là điểm đạt hiệu quả Pareto.
Đó là điểm duy nhất để làm cho một người nào đó trở nên có lợi hơn nhưng không làm cho người
khác bị thiệt đi. Cơ chế tái phân phối nguồn lực miêu tả sự dịch chuyển các điểm phân phối và
theo đó tạo ra sự cải thiện hiệu quả Pareto, cụ thể từ g →h→p. Cơ chế này được gọi là sự cải
thiện Pareto trong phân phối.
A
h
O’
E
g
Phân phối đạt hiệu
quần áo/ p quả Pareto
năm A
p
A
g
O
lương thực/ năm
- Đường liên kết

Điểm p không phải là điểm phân phối đạt hiệu quả Pareto duy nhất. Chúng ta có thể tìm ra
điểm phân phối khác làm cho người E tốt hơn mà không làm giảm đi độ thoả dụng của người A.
Chúng ta có thể di chuyển người E đến đường đẳng dụng hướng về hướng tây nam sao cho sự
phân phối vẫn nằm trên đường A
g
. Kết quả là ta có được điểm p
1
: là cách duy nhất để cải thiện
phúc lợi cho người E mà không di chuyển đường đẳng dụng của người A về vị trí thấp hơn.
O’ O’
E
g
g E
g
g
Ep
1
Quần E
p2

p
1
p áo p
2
p
phân phối p
1
đạt hiệu quả Ap2
Pareto A
g

A
g
O O
Lương thực/ năm Lương thực/ năm
Ở trên, chúng ta chỉ xem xét những sự di chuyển đường đẳng dụng sao cho một người nào
đó trở nên tốt hơn nhưng vẫn giữ nguyên mức thoả dụng của người khác. Còn trong hình trên (bên
Tài chính công
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×