Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

sáng kiến kinh nghiệm “Vận dụng và thiết kế trò chơi học Tiếng Việt lớp 5 đạt hiệu quả”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.13 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
TÊN NỘI DUNG TRANG
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1. Nhiệm vụ nghiên cứu
2. Phương pháp nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
II. THỰC TRẠNG
III. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH
1. Tìm hiểu Vai trò của trò chơi trong dạy học Tiếng
Việt
2. Quy trình tổ chức trò chơi
3. Thiết kế trò chơi học tập
4. Sử dụng trò chơi học tập Tiếng Việt lớp 5.
5. Giới thiệu một số trò chơi học tập Tiếng Việt lớp 5
IV. HIỆU QUẢ
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN:
II. KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC ( Kèm tập riêng )
2
2
3
3
3
3
3


3
5
6
6
9
9
11
12
23
24
24
26
27

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn Tiếng Việt ở cấp Tiểu Học là môn học hình thành ở học sinh các kĩ
năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe, đọc, nói, viết) để học tập và để giao tiếp, có
thể nói môn Tiếng Việt là môn công cụ để học các môn học khác. Do đó môn
Tiếng Việt rất quan trọng.
Trong điều kiện dạy học ở Tiểu học hiện nay, việc sử dụng các loại trò
chơi ngôn ngữ vào hoạt động học tập đã là một phương pháp dạy học có hiệu
quả, được các thầy, cô giáo xem như một hình thức tổ chức dạy học mới, tích
cực, cần phát huy thường xuyên trong các bài giảng Tiếng Việt của mình.
Việc xây dựng và tổ chức một số trò chơi vui và nhẹ nhàng về Tiếng Việt theo
yêu cầu kiến thức và kĩ năng sử dụng Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là một việc
cần thiết để học sinh có thể tự học hoặc tham gia vào các trò chơi cùng bạn bè
theo tinh thần “Học vui - vui học”, “Học mà chơi, chơi mà học”.
Trong quá trình làm việc, học tập của con người, vui chơi là một hoạt động

bổ ích ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là ở lứa tuổi Tiểu học. Vui chơi không những
giúp cho các em được thoải mái rèn luyện thể lực, rèn luyện các giác quan mà
nó còn tạo cơ hội cho các em được giao lưu với nhau, được hợp tác với bạn
bè, đồng đội trong nhóm, trong tổ…thông qua đó, các em sẽ dần được hoàn
thiện những kĩ năng giao tiếp. Đó là kĩ năng được đặt ra hàng đầu trong mục
tiêu của môn Tiếng Việt bậc Tiểu học nói chung và của môn Tiếng Việt ở lớp
5 nói riêng. Điều đó chứng tỏ: hoạt động vui chơi là hoạt động hỗ trợ việc học.
Học sinh của trường nơi tôi công tác chủ yếu là dân vùng biển, vốn hiểu
biết còn ít. Tôi nhận thấy nếu kết hợp sử dụng hình thức trò chơi học tập trong
môn Tiếng Việt thì dạy học sẽ mang lại hiệu quả cao. Bởi vì :
- Trò chơi giúp học sinh rèn luyện, củng cố, tiếp thu kiến thức đồng thời,
phát triển vốn kinh nghiệm được tích lũy trong cuộc sống qua hoạt động chơi.
- Trò chơi học tập nó là một hình thức hoạt động học tập, tạo ra bầu không
2
khí trong lớp học dễ chịu, thoải mái làm cho học sinh tiếp thu kiến thức tự
giác, tích cực trong tâm trạng hồ hởi, vui tươi.
- Trò chơi phát huy năng lực cá nhân, rèn tính hòa nhập cộng đồng, nâng
cao năng lực hợp tác đồng thời giáo dục ý thức tổ chức kỉ luật, có tính đồng
đội khi tham gia trò chơi học tập.
- Trò chơi phát triển tư duy nhanh nhạy, óc sáng tạo, xử lí nhanh các tình
huống khi tham gia trò chơi.
Tóm lại, trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo
dục. Vậy làm thế nào để tổ chức được các trò chơi học tập thật sự hiệu quả
trong những giờ Tiếng Việt. Đó là điều tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi nên tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài “Vận dụng và thiết kế trò chơi học Tiếng Việt lớp 5
đạt hiệu quả”.
II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Một số trò chơi học tập môn Tiếng Việt lớp 5.
- Cách thiết kế trò chơi học tập môn Tiếng Việt lớp 5.

- Sử dụng các trò chơi học tập môn Tiếng Việt lớp 5.
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích, phương pháp điều tra, phương pháp tổng hợp,
phương pháp thực hành, phương pháp khảo sát
3. Phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Học sinh lớp 5/1, 5/3 năm học 2012 -2013, từ tháng 10 năm
2012 đến tháng 3 năm 2013
- Tài liệu: Sách giáo khoa Tiếng việt, sách hướng dẫn giáo viên, sách trò
chơi tiếng việt và một số tài liệu có trò chơi dành cho học sinh tiểu học.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Trong thực tế khi dạy học Tiếng Việt, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng
3
đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Trò chơi học
tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích thích
sự tư duy và nhận thức trí tuệ của các em.
Trò chơi học tập Tiếng Việt là những trò chơi được lồng ghép trong một
giờ học, một hoạt động trong tiết học biến việc học tập trên lớp thành một
cuộc chơi, giúp học sinh tiếp nhận kiến thức và rèn kĩ năng dễ dàng hơn, hào
hứng hơn.
Dạy học Tiếng Việt 5 với trò chơi cuốn hút học sinh tiểu học bởi các đặc
trưng của nó: Trò chơi là một hoạt động tự nguyện, không gò ép, bắt buộc.
Động cơ chơi không nằm trong kết quả mà nằm trong quá trình chơi. Trò chơi
mang tính tự do nên khi tham gia học sinh hoàn toàn chủ động trong suy nghĩ,
trong hành động suốt quá trình vui chơi, do đó có thể phát huy cao nhất khả
năng sáng tạo của mình mà không bị phụ thuộc vào các yếu tố xung quanh,
không bị người khác chi phối. Trong sự tự do vui chơi, trong không khí cổ vũ
sôi nổi của tập thể, học sinh sẽ phát huy mọi khả năng vốn có của mình, làm
cho quá trình nhận thức trở nên dễ dàng, hiệu quả hơn. Trò chơi là một hoạt
động sáng tạo, đầy yếu tố mới mẻ, bất ngờ; nhiều trò chơi được sử dụng nhiều

lần nhưng vẫn lôi cuốn người tham gia, người xem và người tổ chức. Trong
khi tham gia, người chơi luôn thể hiện sự sáng tạo của mình, luôn tạo ra kịch
tính, tạo ra những tình huống bất ngờ, khó dự đoán trước.
Dạy học Tiếng Việt với trò chơi học tập cùng lúc đáp ứng cả hai nhu cầu
của học sinh, nhu cầu vui chơi và nhu cầu học tập. Trò chơi học tập tạo nên
hình thức “chơi mà học, học mà chơi” đang được khuyến khích ở tiểu học và
việc sử dụng trò chơi trong giờ học là biện pháp hữu hiệu nhất giúp học sinh
học tập và tiếp thu kiến thức tốt hơn.
Dạy học Tiếng Việt với trò chơi học tập sẽ kích thích sự tìm tòi, tạo cơ hội
để học sinh tự thể hiện mình .
Thông qua trò chơi, học sinh vận dụng kiến thức năng nổ, hoạt bát, kích
4
thích trí tưởng tượng, trí nhớ. Từ đó phát triển tư duy mềm dẻo, học tập cách
sử lý thông minh trong những tình huống phức tạp tăng cường khả năng vận
dụng.
Ngoài ra thông qua hoạt động trò chơi còn giúp các em phát triển được
nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng trung thực, tinh thần
cộng đồng trách nhiệm. Vì vậy trò chơi học tập Tiếng Việt rất cần thiết trong
giờ học Tiếng Việt ở lớp 5 nói riêng và ở Tiểu học nói chung.
II. THỰC TRẠNG :
Trường Tiểu học Cam Thuận mặc dù nằm trên khu vực trung tâm
thành phố, có lợi thế về nhiều mặt so với các trường học khác trong thành phố
nhưng đây là một trường vùng biển. Được thành lập ngày 20/4/2010, qua hơn
2 năm thành lập, trường đảm bảo về cơ sở vật chất phục vụ cho công tác dạy
và học.
Năm học 2012- 2013, trường có tổng số 490 học sinh, có 37 cán bộ,
giáo viên, nhân viên. Trong đó, ban giám hiệu 02 đồng chí, giáo viên trực tiếp
đứng lớp 27 đồng chí, 06 nhân viên, 01 nhân viên hợp đồng . Đội ngũ giáo
viên của trường đạt chuẩn 100%, trong đó trên chuẩn là 70%, 01 giáo viên
tổng phụ trách đội hợp đồng.

Đội ngũ giáo viên cơ bản đủ nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ
chưa đồng đều Đội ngũ giáo viên có bề dày kinh nghiệm, trong khi đó một số
giáo viên lớn tuổi nên việc tiếp cận phương pháp mới còn hạn chế.
Hoàn cảnh gia đình học sinh còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến chú tâm
vào công việc gia đình hơn là việc học.
Đội ngũ giáo viên còn nhiều hạn chế về kinh nghiệm giảng dạy, còn bế
tắc trong phương pháp dạy học, chưa phát huy độc lập sáng tạo của học sinh.
Một số giáo viên còn mang tính an phận, không chịu phấn đấu, chậm tiếp thu
các thành tựu ứng dụng công nghệ thông tin xã hội.
5
- Ở lứa tuổi Tiểu học cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển hay nói
cụ thể là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện, vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn
thấp nên trẻ không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt nhất là hoạt
động quá mạnh và ở môi trường thiếu dưỡng khí.
- Học sinh Tiểu học nghe giảng rất dễ hiểu nhưng cũng sẽ quên ngay
khi chúng không tập trung cao độ. Vì vậy người giáo viên phải tạo ra hứng thú
trong học tập và phải thường xuyên được luyện tập.
- Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật,
hiện tượng nào đó nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.
- Trẻ hiếu động , ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới, song
các em chóng chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ
dùng dạy học, đưa học sinh đi tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành, tổ
chức các trò chơi xen kẽ để củng cố khắc sâu kiến thức.
Từ thực trạng và kết quả khảo sát đầu năm như sau:
Số
lượng
Giỏi Khá Trung bình Yếu
HS % HS % HS % HS %
65 9 13,8 16 24,6 23 35,4 17 26,2
III. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH:

1. Tìm hiểu Vai trò của trò chơi trong dạy học Tiếng Việt
a. Dạy học với trò chơi thực hiện chức năng luyện tập thực hành.
Dạy học Tiếng Việt với trò chơi thực hiện chức năng của hoạt động thực
hành vì các em có điều kiện vận dụng những kiến thức đã học khi tham gia
vào trò chơi. Các em được hình thành những kĩ năng phân biệt được bản chất
trong các kiến thức Tiếng Việt ở mỗi trò chơi, hiểu được sâu sắc và đầy đủ
hơn các tri thức đã học. Với các trò chơi Thi viết câu gồm các chữ giống nhau
ở chữ cái đầu, Thi đặt câu theo mẫu, Thi tìm từ ghép có cùng một tiếng… các
em hiểu rõ hơn về cấu tạo của từ, của câu Tiếng Việt, góp phần hình thành và
6
rèn luyện kĩ năng đặt câu, viết đoạn văn. Qua đó, những thiếu sót của các em
cũng được phát hiện. Từ đó giáo viên có biện pháp bổ sung và điều chỉnh kịp
thời cho các em.
Nói cách khác, trò chơi Tiếng Việt còn là một trong những phương tiện để
khắc phục những trở ngại khác nhau trong hoạt động của từng em thông qua
các trò chơi cá nhân và tập thể. Bởi vì đã là trò chơi thì phải có trao đổi tư
tưởng, kiến thức giữa các thành viên trong một nhóm khi tham gia trò chơi.
Thông qua trò chơi, các em có điều kiện để thể hiện mình, biết hợp tác với bạn
bè để tìm được cách trả lời tốt nhất.
b. Dạy học với trò chơi là phương tiện hình thành các năng lực trí tuệ
Trong trò chơi, khi chơi các em tập trung chú ý hơn và ghi nhớ được nhiều
hơn. Bởi vì bản thân trò chơi đòi hỏi phải tập trung vào những dữ kiện và đối
tượng được đưa vào tình huống của trò chơi cũng như nội dung của trò chơi.
Nếu các em không chú ý và nhớ những điều kiện của trò chơi, thì sẽ hành
động một cách tự phát và không đạt được kết quả chơi. Bởi vậy, để trò chơi
được thành công buộc các em phải tập trung chú ý và ghi nhớ một cách chủ
động.
Dạy học Tiếng Việt với trò chơi đẩy mạnh sự phát triển năng lực trí tuệ và
phục vụ cho mục đích ấy vì đôi khi trò chơi đề ra cho các em “bài toán” trí
tuệ, và việc giải quyết các “bài toán” này đòi hỏi phải thể hiện những hình

thức hoạt động trí tuệ muôn hình, muôn vẻ. Trong khi tham gia trò chơi, để
giành phần thắng, các em phải linh hoạt, tự chủ, phải độc lập suy nghĩ, phải
sáng tạo và có lúc phải tỏ ra quyết đoán.
Do đó, trò chơi học tập Tiếng Việt tạo khả năng phát triển trí tưởng tượng,
khả năng linh hoạt độc lập sáng tạo cần thiết cho hoạt động học tập và lao
động sau này của các em.
7
c. Dạy học với trò chơi kích thích hứng thú nhận thức.
Dạy học Tiếng Việt với trò chơi bên cạnh chức năng giải trí còn giúp học
sinh tự củng cố kiến thức, kĩ thuật, thói quen học tập một cách hứng thú, thói
quen làm việc theo nhiều quy mô (cá nhân, nhóm, lớp). Như vậy, việc sử dụng
trò chơi học tập trong dạy học tiếng Việt là một trong những biện pháp tăng
cường tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Hơn thế nữa, mối quan
tâm và hoạt động của học sinh thể hiện qua các tiết học có trò chơi làm tăng
thêm cảm tình của các em đối với môn học và thầy cô giáo.
Học sinh tìm được phương án giải khác nhau cho một trò chơi giúp các
em hiểu sâu sắc hơn về những tri thức đã học, có thói quen tìm tòi phương án
giải quyết tốt nhất, hay nhất và đơn giản nhất. Và khi đó, các em thể hiện niềm
vui, hứng thú với những thành tích mà mình đạt được, thể hiện niềm vui do trò
chơi mang lại và cảm thấy vui sướng khi được tham gia vào trò chơi. Từ đó
hình thành ở các em tính tích cực, ý thức tự giác trong học tập.
Chính vì thế trò chơi là chiếc cầu nối môn tiếng Việt với thực tiễn, bởi vì
thông qua trò chơi các em thấy ứng dụng quan trọng của môn tiếng Việt trong
thực tiễn. Và như vậy là đã phát huy được tính tích cực nhận thức của các em.
d. Dạy học Tiếng Việt với trò chơi ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển
ngôn ngữ và trí tưởng tượng
Tình huống trò chơi đòi hỏi mỗi học sinh tham gia vào trò chơi phải có một
trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định. Nếu các em không diễn đạt được
mạch lạc nguyện vọng và ý kiến của mình đối với trò chơi, nếu không hiểu
được lời chỉ dẫn của thầy cô hay lời bàn bạc của các bạn cùng chơi, thì không

thể nào tham gia vào trò chơi được (hoặc tham gia không có kết quả). Để đáp
ứng được những yêu cầu của việc cùng chơi, các em phải phát triển ngôn ngữ
một cách rõ ràng, mạch lạc. Trò chơi chính là điều kiện kích thích trẻ phát
8
triển ngôn ngữ một cách nhanh chóng.
Trong khi chơi, trẻ ra sức tưởng tượng (đặc biệt là các trò chơi đóng vai) và
vì vậy ngôn ngữ trao đổi rất phong phú. Những hình ảnh tưởng tượng vừa
ngây thơ vừa đáng yêu (cũng có lúc phi lí) này không chỉ đem lại cho tuổi thơ
niềm hạnh phúc mà còn cần cho mỗi người sau này lớn lên, dù đó là người lao
động chân tay, nhà khoa học hay người nghệ sĩ. Phương tiện có hiệu quả nhất
để nuôi dưỡng trí tưởng tượng - đó là trò chơi.
e. Dạy học Tiếng Việt với trò chơi giúp hình thành đức tính trung thực, có
kỉ luật, tính độc lập, có ý thức cao
Việc các em tiếp nhận và tuân theo những quy tắc giúp các em có khả
năng tự kiểm tra và kiểm tra lẫn nhau trong trò chơi. Khi tham gia vào trò
chơi, nhập vai quan hệ với các bạn cùng chơi buộc các em phải đem những
hành động của mình phục tùng những yêu cầu nhất định bắt nguồn từ ý đồ
chung của trò chơi. Để giành phần thắng trong các trò chơi tập thể, các em
phải biết cùng chơi, biết giúp đỡ lẫn nhau, biết dung hoà lợi ích cá nhân với
lợi ích tập thể, tức là các em biết điều tiết hành vi của mình theo chuẩn mực
của xã hội.
Hơn nữa, dưới sự tổ chức, điều khiển của giáo viên, để tổ (nhóm) mình
giành phần thắng, các em ở trong tổ thi đua nhau cùng làm bài và giữ gìn trật
tự. Qua đó, có thể giáo dục đức tính trung thực, thật thà, ý thức tổ chức kỉ luật,
ý thức tự giác, tính độc lập, tự chủ và ý thức tôn trọng tập thể của các em.
Tổ chức trò chơi chính là để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc
củng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Trong thực tế dạy học, GV thường tổ chức
trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho
học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để
tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới

9
2. Quy trình tổ chức trò chơi
Trò chơi học tập môn Tiếng Việt thông qua 5 bước :
- Giới thiệu tên trò chơi.
- Phổ biến luật chơi.
- Tiến hành chơi.
- Rút ra kiến thức.
- Đánh giá kết luận.
3. Thiết kế trò chơi học tập
Để dạy học với trò chơi hiệu quả, giáo viên phải biết thiết kế hoặc sáng tạo
một số trò chơi sẵn có để giảng dạy. Trước khi thiết kế cần :
- Xác định rõ mục tiêu của bài tập để chọn trò chơi phù hợp.
Việc xác định yêu cầu của bài tập rất quan trọng, mục tiêu của bài tập là
cơ sở để lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp. Một bài tập có thể tạo nên những
trò chơi khác nhau.
- Tiến hành thiết kế trò chơi
Giáo viên tiến hành thiết kế trò chơi có hình thức chơi rõ ràng (người chơi,
cách chơi, đồ dùng hỗ trợ…), nội dung thực hiện trò chơi phải đảm bảo nội
dung bài tập của Sách giáo khoa hoặc bổ sung thêm nội dung tùy vào việc xác
định mục tiêu bài tập, của tiết học . Đồng thời thông qua đó rèn những kĩ năng
cần thiết cho học sinh.
Một nội dung của bài học có thể tổ chức các trò chơi khác nhau.
Ví dụ : Bài tập trong SGK Tiếng Việt 5, tập 2 trang 59 yêu cầu xếp các từ
sau thành hai nhóm : một nhóm gồm các từ chỉ người, cơ quan, tổ chức thực
hiện công việc bảo vệ trật tự, an ninh, một nhóm gồm các từ chỉ hoạt động bảo
vệ trật tự, an ninh.
Ta có thể tổ chức các trò chơi sau :
Trò chơi đối đáp.
Giáo viên phân thành hai nhóm. Từng thành viên hiểu từ nào thì hỏi thành
10

viên khác của nhóm bạn xem từ đó thuộc nhóm nào. Trả lời đúng thì được 5
điểm. Sau đó đổi ngược lại thành viên nhóm bạn hỏi lại nhóm mình. Cuối
cùng tổng hợp điểm của hai nhóm. Nhóm nào được nhiều điểm thì nhóm đó
thắng cuộc.
Trò chơi Tìm nhà.
Giáo viên phát cho mỗi học sinh một thẻ từ. Từ đó có thể là chỉ người, cơ
quan, tổ chức thực hiện công việc bảo vệ trật tự, an ninh, một nhóm gồm các
từ chỉ hoạt động bảo vệ trật tự, an ninh hoặc yêu cầu của việc bảo vệ trật tự, an
ninh. Học sinh cầm thẻ thuộc nhóm từ nào thì đi về nhóm từ đó. Căn cứ vào
kết quả sẽ biết được em nào hiểu bài.
Trò chơi chung sức.
Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy. Theo lệnh của giáo viên, từng
nhóm bàn bạc với nhau để thực hiện yêu cầu của trò chơi. Khi nhóm đã thống
nhất thì ghi kết quả vào giấy. Ghi xong, dán tờ giấy của nhóm lên bảng lớp.
Giáo viên sẽ tính điểm các nhóm theo hai tiêu chí : chính xác và nhanh.
4. Sử dụng trò chơi học tập Tiếng Việt lớp 5.
Để mỗi giờ học Tiếng Việt hấp dẫn, thu hút học sinh, đòi hỏi người giáo
viên phải luôn luôn sáng tạo trong việc sử dụng những trò chơi cũ đồng thời
tìm tòi, nghiên cứu để sáng tạo những trò chơi mới .
a. Một số lưu ý:
- Giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ mục tiêu của bài học, của bài tập vì nó
quyết định việc chọn trò chơi, cách chơi cho phù hợp.
- Giáo viên cần phải nắm được khả năng của từng học sinh để việc phân
nhóm chơi hợp lí. Cần chọn hình thức nào lôi cuốn được đông đảo học sinh
tham gia nhất.
- Người giáo viên nên hoạch định trước việc sử dụng những phương tiện
nào để nâng cao hiệu quả của trò chơi .
- Phương tiện theo nội dung trò chơi :Trang phục, thẻ từ, bảng phụ
11
- Mục tiêu của trò chơi học tập là cung cấp kiến thức và rèn kĩ năng do đó:

Sau mỗi trò chơi, giáo viên cần gợi ý để học sinh rút ra các nội dung, kĩ năng,
thông điệp … mà các em đã học được qua trò chơi.
- Việc đánh giá tổng kết trò chơi có thể giao cho học sinh tự nhận xét, đánh
giá và tổng kết để phát huy tối đa khả năng của các em, giúp học sinh rèn
luyện óc suy luận, kĩ năng tư duy, kĩ năng giao tiếp từ đó các em sẽ trở nên tự
tin, mạnh dạn hơn.
b. Phân loại trò chơi :
Có rất nhiều cách xếp loại trò chơi học tập :
Theo mục đích sử dụng :
- Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức.
- Trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức.
- Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy.
Theo yêu cầu rèn kĩ năng :
- Nghe
- Nói
- Đọc
- Viết
- Một số kĩ năng nâng cao: tư duy, phán đoán, tổng hợp…
Theo phân môn :
- Luyện từ và câu, tập làm văn
- Chính tả
- Kể chuyện
- Tập đọc
Theo số lượng học sinh:
- Theo cá nhân
- Theo nhóm, dãy, bàn…
5. Giới thiệu một số trò chơi học tập môn Tiếng Việt lớp 5
12
Trò chơi “ Gép từ thành câu”
Trò chơi được sử dụng vào phân môn Luyện từ và câu.

Mục tiêu:
- Sắp xếp các từ ngữ để tạo thành các câu khác nhau:
- Nhận biết một số câu hoàn chỉnh.
Chuẩn bị:
- Các bộ thẻ từ: Trên cành, chim, hót, véo von (số thẻ từ bằng số nhóm)
- Số giấy đủ cho các nhóm để viết câu

Tiến hành:
- Chia nhóm, mỗi nhóm 4- 5 học sinh, phát bộ thẻ từ cho các nhóm.
- Nêu cách chơi: Từng nhóm chọn các thẻ từ (không thứ tự) để sắp xếp
lại thành câu và viết các câu khác nhau vào giấy (khi viết, nhớ thể hiện
đúng cách viết hoa đầu câu và thêm dấu phẩy sau trạng ngữ).
- Nhóm nào nhanh, đúng 5 câu là thắng cuộc. Các câu có được là:
Trên cành, chim hót véo von .
Chim hót trên cành véo von .
Trên cành, véo von chim hót .
Véo von chim hót trên cành .
Chim hót véo von trên cành .
13
chim trên cành
hót
véo von
Trò chơi “Giúp tôi tìm nhà với”
Trò chơi được sử dụng vào phân môn Luyện từ và câu.
Mục tiêu:
- Xác định được đúng các từ loại: danh từ, động từ, tính từ.
- Mở rộng vốn từ.
Chuẩn bị:
Một số thẻ thuộc 3 dạng từ loại: danh từ, động từ, tính từ.
TÌM NHÀ HỘ TÔI

danh từ động từ tính từ.
………………………
………………………
………………………
………………………
………………………
………………………
Tiến hành:
- Chia lớp thành 5 nhóm, phát cho mỗi nhóm một bảng nhóm để viết
hoặc đính từ loại và một số thẻ thuộc 3 từ loại danh từ, động từ, tính từ.
- Các nhóm chọn thẻ từ và đính vào cột tương ứng.
- Nhóm nào hoàn thành nhanh, đúng thì nhóm đó thắng cuộc.
Lưu ý:
- Có thể cho các nhóm nhận xét chéo sản phẩm của nhau và có thể đặt câu
hỏi để nâng cao, khắc sâu VD: Đây là danh từ chung hay danh từ riêng? Bạn
biết thêm từ nào cùng loại?
Trò chơi “ S ẻ giúp Tấm”
Trò chơi được sử dụng vào phân môn Luyện từ và câu.
14
Vui vẻ
Chăm chỉ
Nha Trang
Đăk Nông
Nhường nhịn
Múa
Bay
Hà Nội
Chạy
Mục tiêu:
- Củng cố kiến thức, kĩ năng về cấu tạo từ, từ phân loại theo cấu tạo (hoặc

từ phân loại theo nghĩa của yếu tố mang nghĩa, câu phân loại theo chức năng
của vị ngữ, theo cấu tạo ).
Chuẩn bị:
- Các thẻ ghi các từ đơn, từ láy, từ ghép (hoặc câu Ai là gì? Ai làm gì? Ai
thế nào?…). Chọn 2 hoặc 3 đội chơi, mỗi đội gồm 4 - 5 người, tuỳ theo số
lượng đội chơi mà chuẩn bị số bộ thẻ chữ.
Tiến hành:
- Các thẻ từ để lẫn lộn được xem là gạo, thóc, đỗ mà mụ dì ghẻ trộn lẫn bắt
Tấm phải nhặt. Các thành viên trong đội là những chú chim sẻ được Bụt sai
xuống giúp cô Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, đỗ ra đỗ. Nhặt như vậy là đã
phân loại được các từ theo cấu tạo (hoặc phân loại các câu theo chức năng vị
ngữ…). Các đội chơi cùng lúc, đội nào phân loại nhanh và đúng nhất, đội ấy
thắng cuộc, giúp cô Tấm sớm được trảy hội mùa xuân.
Trò chơi “Ghép từ”
Trò chơi được sử dụng vào phân môn Luyện từ và câu.
Mục tiêu:
- Rèn luyện xác định nhanh các từ ghép.
Chuẩn bị:
- Các bộ thẻ từ: Yêu, kính, thương, mến,quý (Số bộ gấp đôi số nhóm dự
kiến chia)
- Các tờ giấy trắng (bằng số bộ thẻ từ)
yêu thương kính quý
kính yêu thương mến
thương kính mến quý
mến thương quý kính
15
Tiến hành:
- Chia nhóm theo dự kiến.
- Học sinh chọn nhanh các thẻ, ghép lại để thành 14 từ ghép khác nhau.
- Nhóm nào hoàn thành nhanh, đúng thì nhóm đó thắng cuộc.

- 14 từ có được : Kính yêu, yêu kính, yêu quý, quý yêu…
Trò chơi “ Câu cá nước mặn”:
Mục Tiêu:
- Phân biệt được từ không cùng thể loại, cấu tạo, không cùng từ loại…
Chuẩn bị:
- Các thẻ chữ có móc treo ở phía trên để tiện nhấc lên (sắp đặt để cả lớp
cùng quan sát). Mỗi thẻ chữ ghi một từ trong danh sách. Có 2 cần câu để câu
các thẻ chữ lên. Chọn hai đội chơi, mỗi đội từ 4- 6 em.
- Từ loại trong hệ thống (từ không cùng cấu tạo hay không cùng từ loại,
không cùng tiểu loại với các từ còn lại trong hệ thống) được xem là một chú
cá nước mặn bị thả nhầm vào ao nước ngọt. HS trong đội chơi là những người
cứu hộ, cần phải đưa chú cá nước mặn đó ra khỏi ao.
Tiến hành:
- Hai đội lần lượt cử từng người lên chơi. Đội nào phát hiện “chú cá nước
mặn” trong ao nhanh nhất và câu được lên nhanh nhất là đội thắng cuộc (để
tăng hấp dẫn, có thể tạo thêm trở ngại khi chơi bằng cách cho người chơi đứng
1 chân “câu cá”).
16
Trò chơi “ Nhận diện nhanh”
Mục tiêu:
- Giúp HS nhận diện nhanh
Ví dụ: Bài tập “Phân loại các từ sau đây theo nghĩa của tiếng tài: tài giỏi, tài
nguyên, tài nghệ, tài trợ, tài ba, tài đức, tài sản, tài năng, tài hoa”
Chuẩn bị:
- Chọn hai đội chơi, mỗi đội khoảng 6- 10 HS. Hai đội xếp hàng song song
được xem như hai đội quân ra trận. Làm lần lượt với từng nghĩa của tiếng tài:
tài có nghĩa là “có khả năng hơn người bình thường”, tài có nghĩa là “tiền
của”.
Tiến hành:
- Khi quản trò đọc một từ trong danh sách, mỗi đội một người bước lên

trước hàng 1 bước, suy nghĩ trong khoảng 5-10 giây. Quản trò đếm “một, hai,
ba”, hai người này lập tức nêu phương án trả lời “đúng” hoặc “sai”. Người nào
trả lời đúng đáp án, được trở về hàng. Người nào trả lời sai, phải ra khỏi hàng
kết thúc cuộc chơi, đội nào còn lại số người nhiều hơn, đội ấy giành chiến
thắng.
Trò chơi “ Nhanh! Nhanh lên bạn ơi’’
Mục tiêu:
- Xác định đúng các từ loại và vai trò của các từ loại trong câu.
- Mở rộng vốn từ.
Sử dụng trong các bài Luyện từ và câu.
Chuẩn bị :
- Số thẻ gấp đôi số người chơi.
- Chia bảng thành 3 cột để đính 3 từ loại:danh từ, động từ, tính từ.
17
nhả
y

sác
h
xan
h

nón
xác
h
bác

Tiến hành:
- GV phát cho mỗi học sinh 2 thẻ chữ có ghi sẵn các từ loại như trên.
Khi nghe giáo viên phát lệnh “bắt đầu”, học sinh cầm các thẻ lần lượt lên bảng

đính đúng vào mục từ loại danh từ, động từ, tính từ.
- Nếu học sinh đính đúng cả hai từ thì được khen ngợi.
Trò chơi “Thi tìm từ mới’’
Mục tiêu:
- Mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh .
Chuẩn bị:
- Bảng ô chữ ( hàng dọc 8, hàng ngang 8 đến 10 ô)
- Bút dạ.
Tiến hành:
- Chia nhóm, mỗi nhóm 4- 5 học sinh.
18

đi
giáo
viên

ăn

hát

uống nói

ha
y
cần
cù tốt

giỏ
i
bộ

đội
họ
c
sin
h
B A O H I Ê M
B
B
B
B
B
B
B
- Phát cho mỗi nhóm 1 bảng, trên bảng ở đầu ô ghi chữ cái theo từng bài; ví
dụ chữ B
- Yêu cầu các nhóm tìm chữ cái thích hợp điền vào ô trống ở từng hàng để
được những từ có nghĩa. Nhóm nào hoàn thành trước sẽ thắng cuộc.
Trò chơi “Cùng về đích”
Sử dụng trò chơi “ Cùng về đích” vào phân môn Tập làm văn bài : “Luyện
tập tả người”
Mục tiêu:
- Giúp học sinh phát triển vốn từ ngữ miêu tả người, giúp cho các tiết tập
làm văn miệng trở nên lí thú hơn với học sinh.
- Tập cho học sinh làm quen với cách làm việc theo nhóm, nói trong nhóm.
Chuẩn bị :
- Giáo viên phải phân loại học sinh để việc phân nhóm. Một nhóm chơi chỉ
nên có từ 4- 6 em và phải đủ trình độ.
- Chuẩn bị bảng trò chơi Cùng về đích hình rắn kích thước, các bộ thẻ hình,
xúc xắc, các vòng nhựa tròn đủ cho số nhóm đã phân.






Tiến hành :
- GV cho các nhóm học sinh nhận một bảng trò chơi Cùng về đích, bộ ảnh
chụp, thẻ tên nhân vật, các vòng nhựa màu khác nhau đủ cho các em trong
19
Đích
Nơi
đặt
thẻ ô
Bắt
đầu
nhóm và một xúc xắc hoặc thẻ số.
- Các nhóm đặt úp bộ ảnh chụp, thẻ tên nhân vật vào vị trí nơi đặt bộ thẻ
hình trên bảng trò chơi Cùng về đích.
- Tất cả học sinh trong nhóm cùng đặt các chấm nhựa tròn của mình vào vị
trí bắt đầu. Trong nhóm, lần lượt từng em đổ xúc xắc hoặc bốc thăm thẻ số.
- Tùy theo số trên mặt xúc xắc hoặc số bắt thăm được mà em này sẽ di
chuyển vòng nhựa của mình theo số các vòng tròn nhỏ trên bảng trò chơi
Cùng về đích sao cho phù hợp. Nếu vòng nhựa của em vào vòng tròn màu đỏ
lớn, em sẽ lấy một ảnh, thẻ tên nhân vật theo thứ tự từ trên xuống của bộ ảnh.
- Em này xem ảnh và đặt 2- 3 câu về người trong ảnh, nhân vật có tên trong
thẻ. Cả nhóm cùng xem ảnh và nhận xét câu miêu tả của bạn.
- Sau khi thực hiện xong, em đặt ảnh chụp vào vị trí dưới cùng của bộ thẻ.
Nếu vòng nhựa của em vào các vòng tròn nhỏ thì em hết lượt đi.
- Trò chơi sẽ kết thúc khi tất cả các em trong nhóm cùng về đến đích hay
tất cả các ảnh hoặc nhân vật đã được học sinh xem và miêu tả hết.
Trò chơi “Tậ p trung” khi dạy bài“Từ đồng nghĩa”, Tiếng Việt 5, tập 1,

trang 7. Trò chơi được vận dụng khi tìm hiểu bài.
- Mụ c tiêu :
Giúp học sinh bước đầu hiểu được thế nào là từ đồng nghĩa.
Khơi gợi sự tập trung chú ý để tìm tòi kiến thức mới.
- Chuẩ n bị : Đây là khâu khá quan trọng, khâu này quyết định 90% việc tổ
chức trò chơi có thành công hay không. Chính vì thế giáo viên phải thực hiện
một số việc sau đây :
Chuẩn bị các đồ dùng phục vụ để tổ chức trò chơi. Đối với trò chơi này, giáo
viên cần phải chuẩn bị : 1 bộ thẻ ghi các cặp từ có nghĩa giống nhau hoặc gần
giống nhau. ( có thể lấy từ ngữ liệu cần phân tích trong phần nhận xét của bài
học ở sách giáo khoa. )
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt sau khi kết thúc trò chơi để học sinh rút ra
20
được thế nào là từ đồng nghĩa ,đồng nghĩa hoàn toàn và đồng nghĩa không
hoàn toàn.
Xác định rõ các bước tiến hành trò chơi.
- Tiế n hành :
Bộ thẻ từ được đính lên bảng lớp ( đặt úp thẻ xuống theo 2 dãy).
Giáo viên chia lớp thành 2 đội chơi . Mỗi đội cử 1 bạn đại diện lật thẻ và
oẳn tù tì để giành quyền lật trước.
Đại diện mỗi đội lần lượt lật một thẻ từ ở mỗi dãy lên và trình bày với lớp
đây có phải là một cặp thẻ phù hợp hay không. Nếu hai thẻ từ tạo thành một
cặp thẻ từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau thì người chơi được giữ
cặp thẻ. Nếu hai thẻ không phù hợp, người chơi đặt úp hai thẻ này vào lại chỗ
cũ.
Trò chơi kết thúc khi tất cả các cặp thẻ đồng nghĩa được xác định. Đội thắng
cuộc sẽ là đội có nhiều cặp thẻ đồng nghĩa nhất.
Trò chơi “Tìm bạn”
Mục tiêu:
- HS hiểu nghĩa từ, ghép đúng các cặp từ trái nghĩa.

- Tạo thói quen nhanh nhẹn cho học sinh
Chuẩn bị:
Thẻ từ
21
đêm
ghét yêu
chê
dưới
khen
ngày
trên
nhanh
cao
nóng lạnh
thấp
chậm
ngắn dài
Tiến hành:
- Giáo viên phát cho học sinh 1 thẻ từ.
- Học sinh đọc lại thẻ từ của mình.
- Một học sinh đính thẻ lên bảng.
- Ví dụ: ngắn
+ Một học sinh khác tìm thẻ từ của mình trái nghĩa với nghĩa từ này là dài.
Trò chơi “Chọ n ô số”
Trò chơi sử dụng vào phân môn Tập làm văn, bài: Luyện tập tả người.
Mục tiêu :
- Giúp học sinh: Phát triển vốn từ ngữ miêu tả người, đặc biệt là các từ miêu
tả về ngoại hình.
Chuẩn bị :
- Một bộ ảnh chụp nhiều người ở các độ tuổi, giới tính, nơi chốn khác nhau

có đánh số từ 1 đến 9 .
- Bảng phụ có kẻ sẵn ô số như sau :
Tiến hành:
- Giáo viên gọi một học sinh lên bảng tham gia trò chơi .
- Học sinh được gọi lên chọn một số bất kì trên bảng phụ. Sau đó giáo viên
cử một học sinh khác dán bức ảnh có số tương ứng lên bảng, người chơi có
nhiệm vụ miêu tả về người trong ảnh ( từ 2-3 câu ).
- Giáo viên gọi tiếp một số học sinh khác tham gia trò chơi (số lượng phụ
thuộc vào thời gian dành cho trò chơi).
- Khi trò chơi kết thúc, giáo viên và cả lớp bình chọn người chơi miêu tả
22
1 2 3
4 5 6
7 8 9
hay nhất. Học sinh nào có phiếu bình chọn nhiều nhất sẽ là người thắng cuộc.

IV. HIỆU QUẢ
- Giáo viên thấy rõ các vai trò và lợi ích của việc dạy học Tiếng Việt với
một số trò chơi giúp học sinh thay đổi loại hình hoạt động trong giờ học, làm
cho giờ học bớt căng thẳng, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu. Học sinh tiếp thu
kiến thức nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập. Bên cạnh đó hình thành đức tính
trung thực, có kỉ luật, tính độc lập, tự chủ, có ý thức cao.
- Khi dạy học các phân môn Tiếng Việt có sử dụng các trò chơi học tập ở
lớp 5, không khí trong những giờ học trở nên sôi nổi hơn, học sinh rất tích
cực, các em chuyển từ thụ động sang chủ động chiếm lĩnh kiến thức, thích thú
với những hình thức học tập mới lạ. Ngoài ra những kĩ năng sử dụng Tiếng
Việt trong giao tiếp của các em phát triển vượt bậc. Những học sinh giỏi thì
ngày càng tự tin năng động, có trách nhiệm cao trong việc học tập còn những
học sinh thụ động, học sinh nhút nhát thì trở nên tích cực hơn, bắt đầu biết
chia sẻ, hợp tác với các bạn để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Trong số 65 học

sinh lớp 5 tôi áp dụng dạy học với trò chơi và một số biện pháp nâng cao chất
lượng khác. Qua theo dõi và đối chiếu từng giai đoạn học tập của học sinh, tôi
thấy học sinh có sự tiến bộ nhiều mặt, các kĩ năng của học sinh trở nên nhanh
nhẹn. Chất lượng học tập của lớp có sự thay đổi rõ rệt. Cụ thể như sau:
Loại Học kì I Cuối tháng 3
Giỏi 16HS tỉ lệ: 24.6% 17HS tỉ lệ :26.2 %
Khá 21HS tỉ lệ: 32.3% 28 HS tỉ lệ: 43.1 %
TB 17HS tỉ lệ: 26.2% 20 HS tỉ lệ: 30.7 %
Yếu 11HS tỉ lệ: 16.9% 0HS tỉ lệ: 0.0 %

- Đối với giáo viên khi dạy học các môn Tiếng Việt cảm thấy nhẹ nhàng
hơn, không còn nặng nề khi truyền thụ kiến thức cho học sinh. Vì kiến thức
được các em tiếp thu một cách chủ động tích cực thông qua trò chơi. Kĩ năng
23
sử dụng trò chơi của giáo viên linh hoạt hơn, thành thạo hơn. Giáo viên có
nhiều kinh nghiệm hơn trong việc lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp nhất,
đảm bảo rèn đúng kĩ năng cho học sinh theo mục tiêu bài tập. Từ trò chơi đã
có, giáo viên sáng tạo thêm và làm sâu sắc các trò chơi, giúp cho giáo viên
thiết kế được nhiều trò chơi học tập hiệu quả nhất.
- Khi dạy học các phân môn Tiếng Việt với một số trò chơi, tôi đã tiếp
nhận được rất nhiều ý kiến thắc mắc từ phía cha mẹ học sinh. Từ phía đồng
nghiệp: Hoạt động chơi theo nhóm, nhiều nhóm chơi sẽ không có cơ hội đánh
giá cá nhân học sinh.
- Tôi đã giải thích cụ thể từng trường hợp.
Qua một thời gian, tự phụ huynh thấy được các em trở nên nhanh nhẹn
hơn, mạnh dạn hơn, thích thú hơn khi đến trường và đặc biệt là các em thích
học môn Tiếng Việt hơn. Ở lớp, khi các em chơi và ghi nhớ, sau đó các em
hoàn thành bài tập ở trong vở bài tập. Như vậy ở lớp các em tham gia tập thể,
sau đó tự củng cố lại. Các em sẽ ngày càng nắm vững kiến thức hơn.
Đối việc đánh giá học sinh: Học sinh chơi theo nhóm sẽ có nhiều lợi ích

như tôi đã trình bày ở trên. Nếu có nhiều nhóm chơi, đầu tiên chọn nhóm
thắng cuộc, nhóm đó sẽ bình chọn cá nhân xuất sắc để giáo viên thưởng điểm
10, các thành viên còn lại điểm thấp hơn. Như vậy các nhóm sẽ thi đua, tham
gia chơi sôi nổi, nhiệt tình.
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN:
Qua quá trình nghiên cứu và quá trình thực tế tổ chức trò chơi cho học sinh
lớp 5. Tôi thấy rằng, việc thiết kế và sử dụng trò chơi học tập Tiếng Việt là
một quá trình lâu dài, liên tục và có sự nghiên cứu kĩ của giáo viên liên quan
đến nhiều vấn đề. Vì vậy nó đòi hỏi giáo viên phải có đức tính kiên trì, thực
hiện thường xuyên, tế nhị để có thể tìm hiểu sâu sắc từng đối tượng học sinh,
và thương yêu các em với một tình cảm chân thành. Cần có cách rèn luyện
24
nhẹ nhàng, chừng mực với từng đối tượng, thể hiện sự quan tâm với các em,
qua đó tạo cho các em tin tưởng tuyệt đối với giáo viên.
Khi được học Tiếng Việt với trò chơi các em thấy thoải mái, tự tin mạnh
dạn tham gia thể hiện trong các hoạt động. Từ đó những kĩ năng giao tiếp
được phát triển. Sự say mê học tập của các em là nguồn động viên thúc đẩy tôi
phải luôn sử dụng các trò chơi học tập vào tiết học. Đồng thời luôn tìm tòi,
nghiên cứu thiết kế các trò chơi mới để lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt
động học tập.
Khi thiết kế, sáng tạo các trò chơi học tập cần lưu ý :
- Phải phù hợp với mục tiêu bài học cũng như đặc trưng của từng phân môn
cũng như tâm lí và đối tượng học sinh.
- Giáo viên cần chú ý tới các khâu: chuẩn bị, tổ chức, phương tiện, cách
đánh giá…
- Việc làm đồ dùng phục vụ cho trò chơi phải đảm bảo tính khoa học, thẩm
mỹ, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi tiểu học.
Khi sử dụng các trò chơi học tập cần lưu ý một số điều sau đây :
- Trò chơi học tập phải có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện,

không đòi hỏi thời gian dài cho việc huấn luyện.
- Trò chơi cần diễn ra trong một thời gian hợp lí, phù hợp với tất cả các đối
tượng học sinh.
- Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các trò chơi học tập sẽ có tác dụng rất tích
cực, kích thích hứng thú học tập giúp tiết học đạt hiệu quả cao.
- Không lạm dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi hoặc tổ
chức quá nhiều trò chơi trong tiết học gây cho học sinh sự mệt mỏi.
- Tránh lặp đi lặp lại trò chơi học tập trong tiết học sẽ không hấp dẫn học
sinh, không thu hút học sinh.
- Việc đánh giá học sinh phải công bằng, khách quan, động viên các em là
chính.
25

×