Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận nền văn minh cổ trung đại ấn độ cơ sở hình thành và những thành tựu chủ yếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.68 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LỊCH SỬ

BÀI TẬP ĐIỀU KIỆN
BỘ MÔN LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI :
NỀN VĂN MINH CỔ TRUNG ĐẠI ÊN ĐỘ:
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU
Họ và tên: Nguyễn Thị Dung
Líp cao học: K17
Thầy giáo hướng dẫn : PGS.TS Đỗ Thanh
Bình
Hà Nội 03/2008


Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
MỞ ĐẦU
Văn minh là một nền văn hoá phát triển ở một trình độ cao của con
người, gắn với một thiết chế chính trị, xã hội nhất định từ sau chế độ công xã
nguyên thuỷ.
Thời kì lịch sử cổ trung đại của Ên Độ đã tồn tại một nền văn minh rực
rỡ. Trong số các điều kiện hình thành nên nền văn minh này thì điều kiện địa lí có
vai trò định hình nền móng ban đầu. Nhưng điều kiện cơ bản nhất khẳng định sự
phát triển về sau của nền văn minh đó chính là yếu tố kinh tế.
Trong khuôn khổ một bài tập điều kiện, em xin phép được trình bày về
cơ sở hình thành nền văn minh Ên Độ cổ trung đại dưới góc nhìn của điều kiện địa
lí và điều kiện kinh tế.
2
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới


NỘI DUNG
A/ CƠ SỞ HÌNH THÀNH:
I/ Điều kiện địa lí:
Ấn Độ được coi nh mét tiểu lục địa nằm ở phía nam châu Á.Vào thời kì
hình thành và phát triển nền văn minh cổ trung đại thì lãnh thổ Ên Độ vẫn bao gồm
cả Pa-ki-xtan, Băng-la-đet và Nê-pan.
Về mặt vị trí địa lí, bán đảo Ên Độ có chiều ngang rộng từ 67 đến 87°
kinh đông và có chiều dài từ 7 đến 32° vĩ bắc. Phía đông bắc, Ên Độ được ngăn
cách với lục địa châu Á bằng dãy núi Hi-ma-lay-a cao nhất thế giới. Ên Độ chỉ có
thể liên hệ bằng đường bộ với thế giới qua phía tây-bắc, qua đèo Bolan, hoặc từ Ta-
xi-la qua Ka-bul để đến I-ran và Trung Á. Tuy nhiên 2 mặt phía tây nam và phía
đông nam của Ên Độ đều giáp biển. Vị trí của Ên Độ nằm giữa đường biển từ Tây
( Hồng Hải và vịnh Ba-tư ) sang Đông ( biển Đông và Thái Bình Dương ). Đây
chính là nơi dừng chân bắt buộc trên con đường hàng hải Tây- Đông. Đặc biệt, với
đường biển thuận lợi nh thế thì việc thông thương giữa các vùng khác trên thế giới
với Ên Độ hoặc từ Ên Độ đi các nơi khác là hết sức dễ dàng và thuận tiện.
Về mặt địa hình thì lãnh thổ Ên Độ được chia thành 2 miền tương đối rõ
rệt qua sự ngăn cách của dãy núi Vindhya.
Nửa lãnh thổ phía bắc là lưu vực của 2 con sông lớn: sông Ên ( Indus) ở
phía tây- bắc và sông Hằng ( Ganga ) ở phía đông- bắc. Lưu vực sông Ên một thời
có điều kiện đất đai rất thuận lợi cho một nền kinh tế nông nghiệp. Và đây là một
trong những cái nôi để hình thành nền văn minh cổ đại Ên Độ. Tuy nhiên sau đó
khu vực này đã bị chi phối bởi các hiện tượng như hoang mạc hoá, cát lấn nên
phần chủ yếu của lưu vực sông Ên chịu tác động từ hoang mạc Thar.
Tuy nhiên lưu vực sông Hằng thì màu mỡ và ổn định hơn.
Nửa lãnh thổ phía nam rất rộng lớn nhưng lại là vùng đất không có nhiều ưu
đãi. Mặc dù có hai mặt giáp biển nhưng ảnh hưởng của biển không nhiều đối với
3
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới

khu vực này do hai dãy núi Gát-Đông và Gát-Tây bao chắn ở hai bờ phía đông và
phía tây của bán đảo. Sự khép lại của hai dãy núi này đã tạo nên một cao nguyên
Đê-can khô hạn. Đây là vùng núi cao, rừng rậm rộng lớn và khá khắc nghiệt. Tuy
nhiên chạy dọc theo hai bờ đông tây của bán đảo Ên Độ là hai vùng đồng bằng
duyên hải nhỏ hẹp. Đây là những nơi điều kiện sống thuận lợi nên cư dân tập trung
khá đông đúc.
Về mặt khí hậu, khí hậu Ên Độ khá đa dạng xét theo chiều giảm dần của
vĩ độ. Phía bắc, vùng giáp chân núi Himalaya thì khí hậu rất lạnh, có tuyết rơi.
Nhưng ngay ở phía bắc Ên Độ, tính từ vĩ độ 23° bắc thì khí hậu đã rất nóng và khô
do ảnh hưởng của đới chí tuyến. Vùng tây bắc thuộc lưu vực sông Ên, khí hậu khô
nóng. Chính kiểu khí hậu này đã tạo nên hoang mạc Thar rộng lớn, mỗi chiều
khoảng 600 km. Và đến lượt nó, hoang mạc Thar lại tác động trở lại đối với khu
vực. Lưu vực sông Ên vốn Ýt mưa lại chịu tác động trực tiếp từ hoang mạc Thar
nên cát bay dữ dội, phủ một líp dày trên hai bê trung lưu sông Ên. Nhưng phía đông
bắc, vùng lưu vực sông Hằng thì lại là một bức tranh khác hẳn. Chịu ảnh hưởng của
gió mùa từ biển thổi vào nên lưu vực sông Hằng có mưa và thực vật phát triển tốt.
Nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là trồng lúa nước khá phát triển.
Dịch xuống phía nam, nh đã nói ở trên, là khu vực cao nguyên Đê-can rất
khô, nóng và rất nóng. Nhưng ở vùng duyên hải thì gió biển đã đem lại mưa, khí
hậu dịu mát hơn và có nhiều nước sinh hoạt cho người dân ở đây.
Nh vậy Ên Độ là một quốc gia có thiên nhiên đa dạng. Miền Bắc có lắm
sông ngòi và nhiều điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển. Miền Nam có
lắm rừng nhiều núi, có sa mạc nóng cháy lại có mưa gió theo mùa. Đây quả thật là
một thiên nhiên vừa đóng kín, vừa cởi mở, vừa là một tiểu lục địa thống nhất, cách
biệt với bên ngoài, vừa chia cắt và khác nhau ở bên trong, vừa hùng vĩ và cực kì đa
dạng.
4
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
Chính sự đa dạng trên đây, đặc biệt là các điều kiện thuận lợi ở các lưu

vực sông ở miền Bắc mà cư dân cổ đại Ên Độ đã sáng tạo nên một nền văn minh
rực rỡ. Trong điều kiện thời kì cổ đại, khi các yếu tố về khoa học kĩ thuật chưa chi
phối thì những điều kiện địa lí thuận lợi chính là những viên gạch đầu tiên xây dựng
nên nền văn minh cổ trung đại Ên Độ.
II/ Điều kiện kinh tế:
Kinh tế thời cổ trung đại Ên Độ vừa là điều kiện để hình thành nên các giá
trị của nền văn minh Ên Độ vừa là biểu hiện của nền văn minh đó. Tuy nhiên, tương
ứng với các giai đoạn phát triển khác nhau của nền văn minh cổ trung đại Ên Độ thì
sự phát triển kinh tế ở mỗi giai đoạn là khác nhau. Vì thế, xin phép đựoc trình bày
các điều kiện kinh tế theo các giai đoạn của nền văn minh.
1/ Thời kì văn minh lưu vực sông Ên (từ đầu TNK III TCN đến giữa TNK
II TCN):
Nh trên chúng ta đã biết, khởi nguyên của nền văn minh cổ trung đại Ên
Độ là nền văn minh sông Ên (văn minh I ndus). Từ rất sớm cư dân Indus đã định cư
trên lưu vực sông Ên tạo nên các thành phố cổ với những ngành kinh tế sơ khai.
Đầu tiên là ngành kinh tế nông nghiệp. Thời kì này công cụ đồng thau đã
xuất hiện nhưng cư dân chưa biết đến kĩ nghệ đồ sắt. Họ không trồng lúa nước mà
trồng lúa đại mạch. Nông nghiệp đã khá phát triển biểu hiện qua số thóc thừa chứa
trong các kho đụn.
Bên cạnh nông nghiệp, thủ công nghiệp cũng đã có sự phát triển. Sản phẩm
thủ công nghiệp khá phong phú, từ công cụ lao động đến đồ gốm, đồ trang sức
Sản phẩm thủ công nghiệp của Ên Độ cũng đã có mặt tại Lưỡng Hà và ngược lại.
Do buôn bán phát triển mà sản phẩm của Lưỡng Hà cũng có mặt ở đây. Một con
dấu hình trụ của Lưỡng Hà được chế tạo mô phỏng theo kiểu của Ên Độ đã nói lên
quan hệ giao lưu thương mại giữa hai vùng.
5
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
Tuy nhiên do nhiều lÝ do, trong đó có sự ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết
mà sau đó cư dân sông Ên đã loạn li. Hướng đi của cư dân Arya là về phía đông,

định cư trên lưu vực sông Ganga. Lóc này cư dân bản địa ở đây mới bước vào thời
kì đồng thau, vừa chăn nuôi vừa làm nông nghiệp sơ khai và chế tác đồ gốm. Người
Arya đến và đã dạy người dân bản địa cách dùng ngựa để chuyên chở. Còn người
bản địa thì lại dạy người Arya cách trồng lúa nước. Vì thế, một ngành nông nghiệp
định cư đã thay thế cho chăn nuôi du mục, thực sự phát triển năng động, nhanh
chóng chiếm ưu thế và làm chủ lưu vực sông G anga.
Đó là cơ sở để làm nên nền văn minh ở lưu vực sông Hằng.
2/ Thời kì nền văn minh ở lưu vực sông Hằng (từ khoảng giữa TNK II TCN
đến giữa TNK I TCN).
Nh trên đã trình bày thì nông nghiệp thời kì này ở lưu vực sông Hằng đã có
những chuyển biến lớn. Cư dân đã biết dùng công cụ đồng và đá để đẽo các dụng cụ
bằng gỗ, nhất là lưỡi cày. Họ còn đan bện các đồ dùng bằng lau sậy, thuộc da, làm
đồ gốm, mà loại gốm phổ biến nhất là gốm đen bóng có hoa văn giải băng chấm.
Cuối giai đoạn này, từ khoảng 800 năm TCN, kĩ nghệ luyện sắt đã được áp dụng.
Điều này đã thúc đẩy nghề đúc kim khí, làm đồ gỗ, nhất là xe kéo, nhà cửa.
Chính ở thời gian này thương nghiệp bắt đầu xuất hiện. Cư dân trao đổi sản
phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp giữa các vùng. Có lẽ cũng đã xuất hiện ngoại
thương. Các tài liệu có nói đến việc buôn bán ven biển với vịnh Ba-tư và Hồng Hải
qua đường biển Tây-Đông. Hình thức phổ biến trong buôn bán vẫn là trao đổi trực
tiếp tuy đã bắt đầu xuất hiện hình thức vật trung gian.
Sù phát triển kinh tế nêu trên đã thúc đẩy sự phân hoá xã hội theo tính chất
nghề nghiệp. Họ gọi dân làm nghề chăn nuôi ở đông bắc Ên Độ là Panis và dân làm
ruộng là Dasa. Suđra hẳn được dùng để chỉ tầng líp này.
3/ Thời kì các quốc gia sơ kì ở miền bắc Ên Độ (từ 600-321 TCN).
6
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
Đây là giai đoạn mà ở lưu vực sông Ganga có sự hình thành của hàng loạt
tiểu quốc trong đó thừa nhận vai trò bá quyền của tiểu quốc Magađa. Nhưng đây
cũng là giai đoạn người Ên Độ bắt đầu có sự tiếp xúc với người Iran và người

Hilạp, mà một trong những biểu hiện của sự tiếp xúc đó là sự xâm lược của
Alêchxăngđrơ Makêđônia vào phía tây bắc Ên Độ.
Tuy nhiên ở chính thời gian đó thung lũng sông Hằng vẫn đứng ngoài những
biến động của lưu vực sông Ên. Và mặc cho những thăng trầm diễn ra, vùng này
vẫn phát triển và đạt nhiều thành tựu mới.
Nông nghiệp tiếp tục phát triển nhờ đất đai màu mỡ và hệ thống thuỷ lợi
được mở mang. Các ngành thủ công có nhiều tiến bộ. Nghề luyện sắt và rèn đúc sắt
lần đầu tiên nở ré dưới thời Magađa. Các loại mòi lao, giáo, mòi tên sắt đã khá
phổ biến.
Loại gốm đặc trưng của miền Bắc là loại có xương gốm mịn, tráng màu xanh
thẫm, ngả từ màu xanh thép sang sám thẫm và đen bóng. Chủ yếu là đĩa và bát nhỏ-
những mặt hàng thương phẩm có giá trị cao.
Về dệt, người Ên Độ thời kì này đã dệt được vải trắng sợi bông.
Còn về thương nghiệp, thời kì này các nhà buôn chuyên chở và trao đổi hàng
hoá từ hạ lưu sông Hằng đến cửa sông Ên rồi theo đường biển đến vịnh Batư và
Hồng Hải hoặc ngược sông Hằng lên Ta-xi-la và theo đường bộ đến Iran và Tiền Á.
Trong trao đổi người Ên Độ đã đúc được tiền bạc và tiền đồng.
4/ Thời kì vương triều Môrya (321- 232 TCN)
Đây là thời kì kinh tế vẫn chủ yếu dùa vào nông nghiệp song đã thừa nhận
sự chiếm hữu tư nhân về ruộng đất. Việc khai khẩn đất hoang thuộc về nhà nước.
Người dân nhận ruộng của làng, tự canh tác và nép thuế.
Gắn với nông nghiệp là thuỷ lợi. Nhà nước rất quan tâm đến công tác đắp
đê, đào kênh, đập để phát triển nông nghiệp.
7
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có nhiều tiến bộ. Nhà nước điều
khiển việc chế tạo vũ khí và tàu thuyền bên cạnh các nghề thủ công truyền thống.
Thợ thủ công tập hợp lại với nhau trong các phường hội. Việc buôn bán nội địa lúc
này phát triển hơn nhiều do không còn có sự phân biệt quốc gia này với quốc gia

khác từ bắc đến nam.
5/ Thời kì phân liệt trên bán đảo Ên Độ (232 TCN-320 sau CN)
Đây là thời kì Ên Độ diễn ra sự phân chia các quốc gia với sự phát triển khác
nhau giữa các tiểu quốc ở các miền Nam-Bắc. Tuy nhiên có thể nói rằng sau thời kì
thống nhất của vương triều Môrya thì đây không phải là một giai đoạn khủng hoảng
tan rã của Ên Độ mà đây là sự chia cắt để phát triển cao hơn, tương đối đồng đều
hơn trong từng phạm vi nhỏ hơn ở mỗi miền đất nước.
6/ Từ triều đại Gupta đến triều đại Hacsa (từ 320 đến 648)
Nông nghiệp vẫn được chú trọng với việc khai hoang và làm thuỷ lợi.
Trong khi đó thì thủ công nghiệp khá phát triển. Nghề dệt là nghề phát triển nhất và
có ý nghĩa hàng đầu đối với kinh tế. Tiếp đến là khai mỏ và luyện kim, đặc biệt là
nghề làm đồ trang sức đã đạt đến trình độ nghệ thuật cao và hoàn thiện.
Thương nghiệp cũng được phát triển với mạch máu giao thông chính là con
sông Hằng. Hàng hoá trao đổi rất phong phú. Một loạt các hải cảng quan trọng đã
thu hót các tàu buôn từ Trung Quốc, Ai Cập, Đông Dương, Mã Lai
7/ Thời kì bị chia cắt và xâm lược (giữa thế kỉ VII đến thế kỉ XII).
Nhìn chung kinh tế Ên Độ thời kì này sa sút dù rằng cũng đã được duy trì ở
một mức độ nhất định để phục vụ chiến tranh.
Nông nghiệp được canh tác 2 mùa với những kĩ thuật canh tác mới. Sản
phẩm thừa từ nông nghiệp được mang ra trao đổi khá phong phú. thời gian này thợ
thủ công được các chóa phong kiến đưa vào thành phố nên thủ công nghiệp ở thành
thị phát triển mạnh. Ngoại thương vẫn được duy trì nhưng thời kì này người ta còn
biết buôn bán cả với Nhật Bản. Thương nhân cũng tập hợp lại trong các đẳng cấp.
8
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
8/ Thời kì Xuntan Đêli và Ên Độ Môgôn (thế kỉ XIII đến thế kỉ XIX)
Thời kì Xuntan Đêli: Nền kinh tế với nông nghiệp vẫn là chủ yếu nhưng
thời kì này năng suất đã tăng lên. Thủ công nghiệp vẫn phát triển các ngành truyền
thống làm cho ngoại thương cũng trở nên tấp nập với nhiều hải cảng ở vịnh Bengan,

biển Arập
Bước sang thời kì vương triều Môgôn, với sự tập trung nhất định của nhà
nước trong việc điều hành đất nước thì nền kinh tế Ên Độ đã được nâng cao Ýt
nhiều. Ngoài trồng cây lương thực người ta còn trồng các loại cây công nghiệp. Mỗi
thành phố hải cảng thường có một nghề thủ công riêng nhưng thương mại của thành
phố đó mới là quan trọng nhất.
Nhìn chung mỗi thời kì nền kinh tế Ên Độ có những bước phát triển riêng
nhưng về cơ bản ngành kinh tế truyền thống của nước này vẫn là nông nghiệp và
công thương nghiệp. Giao lưu trao đổi nội vùng và với thế giới bên ngoài phát triển
mạnh. Nhờ đó, nền văn minh cổ trung đại Ên Độ vừa có những thành tựu đa dạng
khẳng định những giá trị của văn hoá truyền thống vừa có sự tiếp thu những tinh
hoa văn hoá từ bên ngoài vào. Như vậy kinh tế chính là một trong những điều kiện
qui định tính chất và trình độ của nền văn minh cổ trung đại Ên Độ.
B/ NHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH:
Trong bối cảnh điều kiện tự nhiên của các lưu vực sông ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động kinh tế và văn hoá nên các thành tựu của nền văn minh Ên Độ có
những đặc điểm riêng. Về cơ bản, các thành tựu đó tập trung trên một số lĩnh vực
sau:
1. Về chữ viết:
Chữ viết của Ên Độ được sáng tạo đầu tiên vào thời văn hoá Happara. Tại
lưu vực sông Ên đã phát hiện tới trên 3000 con dấu khắc chữ đồ hoạ. Đây là một
loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vần. Loại chữ này được viết từ phải sang
trái. Điều đặc biệt là các con dấu này được đóng trên các kiện hàng để xác nhận
9
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
hàng hoá, chứng tỏ nền kinh tế, đặc biệt là việc trao đổi hàng hoá đã rất phát đạt.
Chi tiết đó càng chứng tỏ kinh tế chính là điều kiện làm nên văn minh nh đã phân
tích ở trên.
Đến thế kỉ V TCN thì xuất hiện một loại chữ, đó là Kharosthi, phỏng theo

chữ của vùng Lưỡng Hà. Sau đó xuất hiện chữ Brami được sử dụng rộng rãi, đặc
biệt trên bia mộ của Axôca. Trên cơ sở chữ Brami, người Ên Độ đã đặt lại chữ
Đêvanagari có cách viết thuận tiện hơn. Loại chữ này còn được dùng tới ngày nay
tại Ên Độ và Nêpan.
2. Văn học:
Trong cuộc sống sinh hoạt, đấu tranh sinh tồn, chống thiên tai và chống xâm
lấn, nền văn học Ên Độ đã ra đời và có nhiều thành tựu đáng kể. Hai bộ phận quan
trọng của văn học là sử thi và Vêđa.
a/ Vêđa: Thông qua hình thức các bài ca và những bài cầu nguyện, các tập của
Vêđa không những phản ánh bối cảnh xã hội Ên Độ ở thời kì tan rã của chế độ công
xã thị téc, hình thành một xã hội có giai cấp và nhà nước mà còn là bức tranh về
cuộc sống của cư dân Ên Độ ở thời điểm đó. Đó là nội dung của 3 tập đầu tiên: Rích
Vêđa, Xama Vêđa và Yagiua Vêđa.
Còn tập cuối cùng là Atacva Vêđa lại đề cập đến một lĩnh vực khác, đó là chế độ
đẳng cấp, việc hành quân hay cả một số mặt của đời sống xã hội.
Và sau 4 tập kinh Vêđa là một số tác phẩm viết bằng văn xuôi, tuy nhiên không có
nhiều giá trị.
b/ Sử thi: Có hai bộ sử thi rất nổi tiếng đó là Mahabharata và Ramayana. Đây là
hai bộ sử thi đồ sộ được truyền miệng từ nửa đầu thiên niên kỉ I TCN rồi được chép
lại bằng khẩu ngữ.
-Mahabharata (nghĩa là cuộc chiến tranh giữa con cháu Bharata) là bộ sử thi
dài nhất thế giới gồm có 18 chương và một chương bổ sung tài liệu, gồm 220.000
10
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
câu. Đây là tác phẩm phản ánh cuộc đấu tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương ở
miền Bắc Ên Độ.
-Ramayanala là bộ sử thi kể về câu chuyện tình duyên giữa hoàng tử Rama và
người vợ chung thuỷ Sita. Tác phẩm bao gồm 7 chương với 48.000 câu, tương
truyền là của Vanmiki.

Cả hai bộ sử thi trên là những công trình sáng tác tập thể của nhân dân Ên Độ
trong nhiều thế kỉ và đã trở thành niềm tự hào của nhân dân Ên Độ cho tới tận ngày
hôm nay, là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học đương đại của Ên Độ.
Ngoài hai tác phẩm đã nói ở trên, văn học Ên Độ thời kì này còn phải nhắc đến tên
tuổi của nhà thơ, nhà soạn kịch lớn nhất thời đại Gupta. Đó là Caliđaxa với tác
phẩm tiêu biểu nhất là vở kịch Sơcuntla. Đây là một nhà văn lớn của thế giới.
Từ cuối thế kỉ 10, ngoài văn học tiếng Xanxcrit còn có các tác phẩm viết bằng các
phương ngữ khác nhau, dùng ngôn ngữ dân gian để phản ánh tâm tư nguyện vọng
của quần chúng nhân dân nên được quần chúng nhiệt tình đón nhận
3. Về thiên văn học:
Người Ên Độ từ thời cổ đại đã tính ra rằng một năm có 12 tháng, một tháng có 30
ngày, một ngày có 30 giê và cứ 5 năm thì lại có một năm nhuận.
Do yêu cầu của cuộc sống sản xuất nông nghiệp nên cư dân cổ Ên Độ sớm có
những quan sát bầu trời và vũ trụ và tính toán, cho dù những tính toán đó có thể là
chưa chính xác. Tuy nhiên việc họ cho rằng Trái Đất và Mặt Trăng hình cầu là hoàn
toàn chính xác. Họ còn biết được quĩ đạo của Mặt Trăng, biết được 5 hành tinh là
Kim, Méc, Thuỷ, Hoả, Thổ
4. Toán học:
Còng do hoạt động sản xuất nông nghiệp và buôn bán khá phát triển nên nhu cầu
tính toán là rất cần thiết. Vì thế người Ên Độ đã phát minh ra một loạt các khái
niệm, con số có ý nghĩa to lớn cho toán học ứng dụng ngày nay. Vĩ đại nhất có lẽ là
11
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
việc người Ên Độ đã sáng tạo ra 10 chữ số đếm ngày nay, mà tài liệu có sử dụng
sớm nhất các chữ số đó là ở trên bia đá của Axôca (thế kỉ 3 TCN).
Ngoài ra, người Ên Độ đã tính được sè π bằng 3,1416. Họ cũng đã phát minh ra
được đại số học. Còn trong hình học họ biết tính diện tích hình vuông, hình chữ
nhật, hình tam giác, đa giác, tính được quan hệ giữa các cạnh trong tam giác
vuông

Có thể nói toán học xuất hiện từ bản thân cuộc sống của cư dân Ên Độ cổ đại và
đến lượt nó toán học đã ứng dụng thiết thực vào chính nhu cầu của cuộc sống đó.
5. Về vật lí học:
Phát minh lớn nhất đó là thuyết nguyên tử của các nhà khoa học kiêm triết học
người Ên Độ. Trường phái triết học Vaisêsica cho rằng vạn vật đều do nguyên tử
tạo nên, vật chất khác nhau là do nguyên tử khác nhau. Ngoài ra người Ên Độ cũng
đã biết đến sức hót của quả Đất Đây rõ ràng là những nhận thức ban đầu rất quan
trọng, đặt nền móng cho các ngành vật lí học về sau.
6. Về y dược học:
Ên Độ cổ đại đã có nhiều thành tựu rất lớn và sớm hơn nhiều so với các nước khác.
Ngay trong tập Vêđa, các thầy thuốc đã biết dùng phẫu thuật để chữa bệnh. Ngoài
ra, từ những thế kỉ 5 - 4 TCN người Ên Độ đã biết cách chắp xương sọ, mổ bụng
lấy thai, lấy sỏi thận với hàng trăm thứ thuốc thảo méc.
Ngoài những ngành khoa học trên đây, người Ên Độ còn có những hiểu biết về
các lĩnh vực nh hoá học, sinh học, nông học
7.Về nghệ thuật:
Cuộc sống phong phú cùng với sự giao lưu văn hoá đã làm nên những nét đặc sắc
của kiến trúc, điêu khắc của nền văn minh Ên Độ.
Kiến trúc phát triển là sự phản ánh sinh động nhất sự phát triển kinh tế. Từ thời
Harappa đến thời Môrya, kinh tế có một bước phát triển nhanh làm cho kiến trúc
gạch đã được thay thế bằng kiến trúc đá qua các cung điện, chùa, tháp, trụ đá
12
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
Thời kì trị vì của Asôca, ông ta đã xây cho mình một toà hoàng cung lộng lẫy.
Cung điện chính là một toà nhà 3 tầng và được trang trí bằng những tác phẩm điêu
khắc rất đẹp.
Tháp là một công trình kiến trúc Phật. Có một toà tháp còn tồn tại tới ngày nay, đó
là tháp Xansi ở miền Trung Ên Độ.
Trô đá cũng là một công trình kiến trúc Phật giáo. Trên trụ đá thường người ta

khắc lên đó các sắc lệnh của vua. Mét trong những trụ đá tiêu biểu nhất còn sót lại
là trụ đá ở Xácna.
Trong thời kì cổ trung đại ở Ên Độ kiến trúc đền chùa là kiến trúc tiêu biểu của các
tôn giáo. Đây được coi là những công trình nghệ thuật có sự kết hợp giữa kiến trúc
với điêu khắc và hội hoạ. Có những gian chùa được cấu tạo khoét sâu vào trong
hang núi dùng để thờ Phật. Ngoài ra còn có những ngôi chùa lớn được xây bằng
gạch và đá. Đặc biệt ở ngôi chùa Tajino có một ngọn tháp xây hình Kim tự tháp.
Đây cũng là một công trình kiến trúc nổi tiếng.
Từ thế kỉ XII đến thế kỉ XIX, dưới thời Xuntan Đêli và Môgôn, do việc đạo Hồi
trở thành quốc giáo nên đã xuất hiện nhiều công trình kiến trúc được xây dựng theo
kiểu Trung Á và Tây Á. Đó là những nhà thờ, cung điện, lăng mộ mà đặc điểm
chung của kiểu kiến trúc này là có mái hình tròn, cửa vòm và có tháp nhọn. Một số
công trình có sự kết hợp với phong cách truyền thống. Chúng ta không thể không
nhắc tới lăng Taj Mahan, công trình kiến trúc tiêu biểu nhất thời Môgôn ở thế kỉ
XVII. Để làm nên tuyệt tác này, các kiến trúc sư và thợ thủ công của nhiều nước
nh Ên Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kì Toàn bộ công trình này được xây bằng đá cẩm thạch
trắng. Nghệ thuật điêu khắc cũng được phát huy bằng rất nhiều nét chạm trổ. Các
phần của lăng được bố trí rất cân đối, hài hoà.
Về nghệ thuật tạc tượng, phải mãi tới thế kỉ I mới được chú ý phát triển. Tượng
Phật ngày một nhiều hơn, mà tiêu biểu nhất là pho tượng bằng đá ở Ganđara.
13
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
Không chỉ có tượng Phật, các vị thần của đạo Hinđu cũng được các nghệ nhân thể
hiện khá phong phú, chủ yếu là các vị thần có hình thù rất đáng sợ.
Nhìn chung, trong số các lĩnh vực đã xét trên đây thì nghệ thuật chính là lĩnh vực
chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất từ tôn giáo. Nội dung triết lí của các tôn giáo tồn tại ở
Ên Độ qua các thời kì đã qui định tư tưởng và giá trị nghệ thuật của các tác phẩm.
8.Tôn giáo:
Nói tới Ên Độ không thể không nhắc tới tôn giáo. Đây là một quốc gia phương

Đông với đầy đủ những đặc điểm đặc trưng. Tuy nhiên điểm đặc biệt hơn của Ên
Độ so với các quốc gia phương Đông khác chính là ở chỗ Ên Độ là một quốc gia đa
tôn giáo. Mặc dù sự ngự trị của mỗi tôn giáo trong đời sống chính trị và tư tưởng
của Ên Độ ở mỗi giai đoạn là khác nhau song về cơ bản chúng ta có thể xét một số
tôn giáo lớn đã và đang tồn tại trong lịch sử Ên Độ như sau:
8.1/Đạo Bàlamôn- Đạo Hinđu:
a/ Sự hình thành và đặc điểm về giáo lí của đạo Bàlamôn:
* Sù hình thành
- Vào đầu thời kì Vêđa, trong quan niệm tư tưởng của người Ấn Độ còn có nhiều
dấu vết của thời kì nguyên thuỷ. Họ cho rằng vạn vật đều có linh hồn cho nên trong
tín ngưỡng họ sùng bái nhiều thứ.
- Đến đầu thiên niên kỉ I TCN, chế độ đẳng cấp đã phát triển khá sâu sắc trong đời
sống xã hội. Các tín ngưỡng dân gian đã được tập hợp thành một thứ tôn giáo lớn:
Đạo Bàlamôn.
* Đặc điểm:- Do đặc điểm hình thành nêu trên có nhiều nét rất tự nhiên nên
có thể thấy đạo Bàlamôn là một tôn giáo không có người sáng lập, không có tổ chức
giáo hội chặt chẽ.
- Bàlamôn là một tôn giáo đa thần: Thần cao nhất là thần Brama- vị thần sáng tạo
thế giới. Tuy nhiên cũng có nơi lại đặt vị thần Siva- thần phá hoại thế giới ở vị trí
14
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
cao nhất. Có nơi vị trí đó lại thuộc về thần Visnu- thần bảo vệ ánh sáng, thần 4 mùa,
thần làm cho nước sông Hằng dâng lên và làm mưa để tưới tiêu cho đồng ruộng
- Cho tới đầu công nguyên, đạo Bàlamôn chia thành 2 phái: phái thờ thần Siva và
phái thờ thần Visnu. Để thống nhất về tư tưởng, đạo Bàlamôn đưa ra quan niệm
rằng 3 thần đó tuy là 3 nhưng vốn là mét .
- Đạo Bàlamôn sùng bái rất nhiều con vật nh voi, khỉ, bò
- Giáo lí: Đạo Bàlamôn có thuyết luân hồi. Đó là một thuyết tôn giáo cho rằng linh
hồn của con người là một bộ phận của Brama. Mà Brama tồn tại vĩnh hằng cho nên

con người cũng có sống có chết nhưng linh hồn thì còn mãi mãi và sẽ luân hồi trong
những kiếp sinh vật khác nhau. Người nào giữ đúng luật lệ tôn giáo và các qui tắc
của thần định sẵn thì sẽ được đầu thai ở kiếp sau, ngược lại sẽ bị đầu thai làm chã
lợn và những động vật bẩn thỉu khác nếu vi phạm những điều cấm kị
- Về mặt xã hội, đạo Bàlamôn bảo vệ đắc lực cho chế độ đẳng cấp đang tồn tại ở
Ên Độ.
- Do sự phân hoá giai cấp, sự phân công nghề nghiệp mà chế độ đẳng cấp được
hình thành bao gồm:
+ Braman(Bàlamôn) là đẳng cấp của những người tôn giáo.
+ Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến sỹ.
+ Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân.
+ Suđra là đẳng cấp của những người cùng khổ.
- Tuy vậy, tăng lữ Bàlamôn dùng uy lực của thần linh để giải thích hiện tượng xã
hội Êy, bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp thống trị trong xã hội lúc bấy giê.
“Bàlamôn có quyền là chóa tể của tất cả các tạo vật Êy”. (luật Manu đầu công
nguyên). Ngoài Balamôn, chỉ có Ksatơrya và Vaisya được trở thành tín đồ của đạo
Blamôn và đều được sinh ra hai lần. Còn Suđra chỉ được sinh có một lần và không
được dự những buổi lễ tôn giáo
b/ Sự hình thành và giáo lí của đạo Hinđu:
15
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
- Sự hình thành: Thế kỉ IV, đạo Phật xuất hiện ở Ên Độ, đạo Bàlamôn bị suy
thoái. Cho tới thế kỉ VII, đạo Phật lại bị suy sụp. Nhân tình hình đó thì đạo
Bàlamôn lại phục hưng dần dần. Cho đến thế kỉ VIII và IX, đạo Bàlamôn có bổ
sung thêm nhiều yếu tố mới và từ đó được gọi là đạo Hinđu, hay còn gọi là Ên Độ
giáo.
- Giáo lí: Đạo Hinđu ra đời trên cơ sở đạo Bàlamôn nên về cơ bản nội dung
tư tưởng của nó không có nhiều thay đổi. Đối tượng sùng bái của đạo Hinđu vẫn là
3 vị thần: Brama, Siva và Visnu. Có khác chăng là quan niệm về các vị thần này đã

rõ ràng và sâu sắc hơn. Đạo Hinđu cũng chia thành hai phái, còng chú trọng thuyết
luân hồi, và đặc biệt vẫn hết sức coi trọng sự phân chia đẳng cấp.
8.2/ Đạo Phật:
a/ Sự hình thành:
- Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Phật là Xitđacta Gôtama, sau khi tu
thành phật đã được đệ tử tôn xưng là Xakia Muni (Thích ca Mâu ni). Xitđacta
Gôtama đi tu là để tìm đến con đường cứu vít nỗi khổ của loài người. Đến 35 tuổi,
ông đã nghĩ ra cách giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau và
ông cho rằng đã tìm được ra con đường cứu vít đúng đắn. Từ đó ông được gọi là
Buddha (người ta quên gọi là Phật hoặc Bụt, có nghĩa là người đã giác ngộ hoặc
người đã hiểu được chân lí).
Ngày nay tín đồ đạo Phật lấy năm 544 TCN là năm mở đầu kỉ nguyên Phật giáo.
b/ Học thuyết:
- Nội dung chủ yếu được tóm tắt “Trước đây và ngày nay ta chỉ lí giải và nêu ra cái
chân lí về nỗi khổ đau và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ”. “ Còng nh nước đại
dương chỉ có một vị là mặn, học thuyết của ta chỉ có một vị là cứu vớt”(Phật Thích
ca).
16
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
- Chân lí về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ Êy thể hiện trong thuyết
“tứ thánh đế ” bằng “tứ diệu đế ”, “tứ chân đế ”, “tứ đế ”, nghĩa là 4 chân lí thánh.
Tứ đế bao gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.
- Về thế giới quan, đạo Phật có thuyết duyên khởi, bằng các pháp đều do nhân
duyên mà có. Phật cho rằng duyên khởi là do tâm mà ra, tâm là nguồn gốc của vạn
vật. Phật chủ trương “vô tạo giả” tức là không có vị thần nào sáng tạo ra vũ trụ. Tư
tưởng này đã chống lại giáo lí của Bàlamôn và là sự khác biệt của đạo Phật với các
tôn giáo khác. Phật còn chủ trương vô ngã, tức là không có những thực thể vật chất
tồn tại một cách cố định, chống lại tư tưởng bản ngã của đạo Bàlamôn. Phật còn chủ
trương vô thường, tức là mọi sự vật đều trong quá trình sinh ra, biến đổi, tiêu diệt

chứ không bao giê ổn định.
- Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp. Phật mong muốn
một xã hội có vua nhưng vua có đạo đức, dùa vào luật để thống trị chứ không
chuyên quyền độc đoán, còn nhân dân thì được an cư lạc nghiệp.
c/ Quá trình phát triển:
- Sau khi Phật tịch, đạo Phật được nhanh chóng truyền bá ở miền Bắc Ên Độ. Từ
thế kỉ III TCN, đạo Phật được truyền bá sang Xrilanca, Myanma, Thái Lan,
Inđônêxia
- Đến khoảng năm 100 sau công nguyên, đạo Phật triệu tập đại hội và thông qua
giáo lí của đạo Phật cải cách bằng phái Đại thừa. Sau đại hội này, đạo Phật lại tiếp
tục được truyền bá mạnh ở Trung Á, Trung Quốc và trở thành quốc giáo của
Xrilanca, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào
Ngoài đạo Hinđu và đạo Phật, ở Ên Độ còn tồn tại một số tôn giáo khác nh đạo
Jain, đạo Xích Thực sự tôn giáo đóng vai trò không thể thiếu được trong đời sống
tinh thần của cư dân Ên Độ, ảnh hưởng và chi phối tình hình chính trị – xã hội của
Ên Độ. Đây là một trong những thành tựu đáng kể nhất trong nền văn minh cổ trung
đại Ên Độ.
17
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
KẾT LUẬN
Tóm lại, những thành tựu của nền văn minh cổ trung đại Ên Độ là cực kì phong
phú và nổi bật. Những nét văn hoá trong nền văn minh đó vừa mang những nét
chung của văn hoá Á Đông, vừa có tác dụng định hình những bản sắc riêng của văn
hoá Ên Độ. Những thành tựu đó có thể vẫn đang tồn tại hoặc cũng có thể đã không
còn, nhưng chúng vẫn vẹn nguyên sự vô giá đối với lịch sử hiện đại của Ên Độ và
đối với loài người.





18
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amalnach những nền văn minh thế giới, NXB văn hóa thông tin, Hà nội, 1995.
2. Đặng Đức An (Chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, NXBGD, 1995
3. Lê Phụng Hoàng (Chủ biên), Lịch sử văn minh thế giới, NXBGD, 1999
4. Lê Phụng Hoàng, Hà Bích Liên, Trần Hồng Ngọc, Các công trình kiến trúc nổi
tiếng trong lịch sử thế giới cổ-trung đại, NXBGD, 1999
5. Lương Ninh (Chủ biên), Lịch sử văn hóa thế giới cổ–trung đại, NXBGD
6. Lương Ninh (Chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, NXBGD,1995
7. Vò Dương Ninh (Chủ biên), Lịch sử văn minh thế giới, NXBGD.
19
Nguyễn Thị Dung Lịch sử văn minh thế
giới
PHỤ LỤC
20

×