Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tiểu luận Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong phong trào cách mạng và Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.09 KB, 16 trang )

Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân téc và vấn đề giai cấp trong phong
trào cách mạng và Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931)
Điểm nổi bật nhất trong cuộc đời hoạt động của Hồ chí Minh là sự
thống nhất lý luận và thực tiễn, sù thống nhất giữa nói và làm. Ngay từ
trong thời kỳ hoạt động cách mạng đầu tiên, Người không những rất quan
tâm đến vấn đề thực tiễn của cuộc sống và cuộc đấu tranh của các dân téc
bị áp bức mà Người còn hết sức chú ý tới vấn đề lý luận cách mạng,
nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn, làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc biệt là những luận điểm về mối quan hệ
giữa vấn đề dân téc và vấn đề giai cấp. Và người viết xin được tập trung
làm sáng rõ quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh khi nhận thức về mối
quan hệ giữa vấn đề dân téc và vấn đề giai cấp, cũng như giá trị thực tiễn
của nó được thể hiện trong phong trào cách mạng và Xô Viết Nghệ Tĩnh
(1930-1931).
I. Quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân
téc và vấn đề giai cấp
Tư tưởng xuyên suốt cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh là giải
phóng dân téc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng một chế
độ xã hội mang bản chất nhân đạo cao cả, một chế độ xã hội tốt đẹp không
có áp bức bóc lột, không có lạc hậu đói nghèo với mục tiêu cộng sản chủ
nghĩa. Vì vậy, Người hiểu được tầm quan trọng của vấn đề dân téc, vấn đề
giai cấp và tìm hiểu mối quan hệ giữa hai vấn đề Êy, điều hoà mâu thuẫn
giữa hai vấn đề với mục đích cuối cùng là phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân téc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Theo
Hồ Chí Minh thì thực chất của mối quan hệ giữa vấn đề dân téc và vấn đề
giai cấp là vấn đề quyền lợi, từ quyền lợi mà nảy sinh những nghĩa vụ,
giữa giữa quyền lợi và nghĩa vụ có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong một
1
nước thuộc địa nh Việt Nam, Người luôn đặt vấn đề dân téc lên trên vấn đề
giai cấp. Đây là vấn đề thuộc chiến lược nhưng tuỳ theo từng điều kiện
hoàn cảnh cụ thể mà có cách giải quyết thích hợp hai vấn đề trên để mưu


quyền lợi cho nhân dân. Đồng chí Trường Chinh đã tổng kết: “Trong cách
mạng dân téc dân chủ nhân dân của ta, hai nhiệm vụ phản đế và phản
phong có quan hệ khăng khít với nhau là vấn đề chiến lược, không tiến
hành song song nhất loạt ngang nhau là vấn đề sách lược”.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển chủ nghĩa MácLênin về quan
điểm mối quan hệ giữa vấn đề dân téc và vấn đề giai cấp trong thời đại
mới.
Mác và Ănghen sinh ra trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tù
do, thời kỳ vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp là vấn đề cấp thiết hàng
đầu song việc giải quyết vấn đề dân téc đã bắt đầu nổi lên. Cách mạng tư
sản một mặt đã giải quyết vấn đề dân téc trong nội bộ quốc gia, mặt khác
cũng hình thành nên hệ thống nô dịch và áp bức dân téc đối với các dân téc
khác. Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản Mác Ănghen đã viết: “Hãy xoá
bá nạn người bóc lột người thì nạn dân téc này bóc lột dân téc khác cũng
bị xoá bỏ, khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân téc
không còn nữa thì đồng thời quan hệ thù địch giữa các dân téc cũng mất
theo”. Mác và Ănghen đã coi vấn đề dân téc là một bộ phận của cả vấn đề
cải tạo xã hội hiện hành. Vấn đề dân téc và giai cấp tự bản thân nó đã có
mối quan hệ hữu cơ, không thể có một giai cấp chung chung mà giai cấp là
của một dân téc nhất định và giai cấp lãnh đạo cách mạng phải nắm được
chính quyền của dân téc Êy, tự mình quyết định vấn đề dân téc mình.
Lênin sống trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa nên Lênin đặc biệt quan
tâm đến vấn đề dân téc và thuộc địa. Người đã đề ra quyền tự quyết của
các dân téc và phát hiện ra mối quan hệ giữa vấn đề dân téc và vấn đề giai
2
cấp. Lênin đã xuất phát từ sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, từ cách
mạng thế giới để xem xét vấn đề vấn đề giải phóng dân téc. Đánh giá cao
phong trào giải phóng dân téc, Người đã phát triển khẩu hiệu: “Vô sản
toàn thế giới liên hiệp lại”. Người cho rằng sự phát triển của phong trào
giải phóng dân tộc phụ thuộc vào hai yếu tố: giai cấp vô sản các nước tiên

tiến chiến thắng giai cấp tư sản và chính quyền Xô Viết chiến thắng chủ
nghĩa đế quốc.
Quốc tế cộng sản cũng rất quan tâm tới vấn đề dân téc và cách mạng
giải phóng dân téc. Trong mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách
mạng thuộc địa, quốc tế cộng sản vẫn cho rằng cách mạng thuộc địa chỉ có
thể có được cùng với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân ở chính
quốc.
Nh vậy, có thể nói Mác, Ănghen, Lênin và quốc tế cộng sản đã nhận
thấy mối quan hệ giữa vấn đề dân téc và giai cấp. Họ đều có nhận định
chung rằng: vấn đề dân téc nảy sinh từ vấn đề giai cấp, do đó muốn giải
phóng dân téc trước hết phải giải phóng giai cấp. Hồ Chí Minh đã nghiên
cứu học tập và phát triển sáng tạo những quan điểm sáng tạo của Mác
Ănghen, Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân téc và giai cấp áp dụng
thành công vào cách mạng Việt Nam.
Sáng tạo trong quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
vấn đề dân téc và vấn đề giai cấp.
Kế thừa những thành tựu tư duy của dân téc về mối quan hệ giữa vấn
đề dân téc và vấn đề giai cấp, tiếp thu trên sự hiểu biết sâu sắc của chủ
nghĩa Mác Lênin, và sự phân tích đúng đắn tính chất thời đại, đặc điểm
tình hình xã hội Việt Nam, đứng trên lập trường các quyền dân téc cơ bản,
Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm đúng đắn của mình về mối quan
hệ giữa vấn đề dân téc và vấn đề giai cấp.
3
Độc lập dân téc là xuất phát điểm, là cơ sở đầu tiên để giải phóng dân
téc. Muốn độc lập dân téc thì phải đoàn kết dân téc, đoàn kết các giai cấp,
điều hoà mối quan hệ quyền lợi giữa các giai cấp trong một dân téc. Giải
quyết mối quan hệ giữa các vấn đề dân téc với vấn đề giai cấp chính là cẩm
nang thần kỳ để giải quyết toàn bộ vấn đề giải phóng với tư tưởng tự giải
phóng, tự cứu mình, đặt độc lập dân téc trong hoàn cảnh Việt Nam. Giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân téc và vấn đề giai cấp chính là một

sáng tạo tuyệt vời của Người.
Trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc vấn đề dân téc và vấn đề giai cấp,
Người đã đặt vấn đề dân téc lên trên vấn đề giai cấp. Chủ trương giải
phóng dân téc rồi mới giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Thực
chất thì tự bản thân giải phóng dân téc đã bao hàm cả giải phóng giai cấp,
giải phóng con người song đó là một vấn đề nóng hổi mang tính thời đại
sâu sắc mà không phải một chốc một lát có thể hình thành. Từ khi đến với
chủ nghĩa Mác-Lênin, từ khi tìm ra chân lý cứu nước, đến khi xây dựng
thành công đường lối cơ bản cho cách mạng Việt Nam và trực tiếp lãnh
đạo cách mạng giành thắng lợi đó cũng chính là quá trình mà tư tưởng về
mối quan hệ giữa vấn đề dân téc và vấn đề giai cấp của Người từng bước
hình thành, bổ sung và phát triển song nó vẫn nhất quán trên một lập
trường: đặt vấn đề dân téc cao hơn vấn đề giai cấp.
Năm 1921, Người viết: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới
giải phóng được dân téc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Năm 1925 trong cương lĩnh của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
Người viết: “Trước làm quốc gia cách mạng, sau làm thế giới cách
mệnh”.
4
Năm 1927, trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người lại chia ra hai
thứ cách mệnh là dân téc cách mệnh và giai cấp cách mệnh, và xác định:
An Nam đuổi Pháp để giành lấy tự do, bình đẳng của dân nước mình Êy
là dân téc cách mệnh. Dân téc cách mệnh và giai cấp cách mệnh quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Khi thành lập Đảng, Người chủ trương: “làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Tháng 11 năm 1930 Người lại cho rằng: “dân téc cách mạng vẫn là
một nhiệm vô trong giai cấp cách mạng, sự chuyển biến lối này hay lối
khác là do hoàn cảnh từng nơi, từng lúc chứ không phải hai đường đi trái

nhau”.
Thực chất vấn đề mối quan hệ giữa dân téc và vấn đề giai cấp là vấn
đề quyền lợi. Điều này được Người thể hiện rõ trong hội nghị trung ương
lần thứ 8 (5/1941): “Nếu không giải quyết được vấn đề dân téc giải phóng,
không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân téc thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân téc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ
phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Đây chính là bản
tổng kết khoa học quan điểm về mối quan hệ giữa dân téc và giai cấp của
Người. Then chốt của vấn đề là sự gắn bó về quyền lợi, quyền lợi của giai
cấp gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của quốc gia dân téc. Theo Hồ Chí Minh
thì quyền lợi của giai cấp hoà với quyền lợi dân téc vì dân téc chính là máu
thịt của nhân dân, của đồng bào. Đặt vấn đề dân téc lên trên vấn đề giai cấp
là một quan điểm đúng đắn sáng tạo khoa học vì nó dùa trên đặc điểm tình
hình xã hội Việt Nam, giai cấp trong xã hội Việt Nam. Đó là một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, mọi tầng líp nhân dân chịu bao cảnh áp bức bóc
lột, mối thù dân téc và mối thù giai cấp hoà làm một. Nông dân chiếm số
đông trong một cộng đồng có truyền thống yêu nước cố kết từ lâu đời thì
5
sự thống nhất biện chứng giữa vấn đề dân téc và vấn đề giai cấp, giải
phóng dân téc, giải phóng giai cấp còn là sự thống nhất về đối tượng đấu
tranh, động lực, lực lượng cách mạng, phương hướng, cho đến mục tiêu,
mục đích cách mạng.
Đặt vấn đề dân téc lên trên vấn đề giai cấp song không mâu thuẫn với
lợi Ých của giai cấp, bộ phận. Ngay trong đường lối chiến lược cách mạng,
Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc giải quyết vấn đề quyền lợi cho giai cấp
nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, phát huy sức mạnh
to lớn của dân téc. Chính cương vắn tắt bên cạnh nêu lên nhiệm vụ cách
mạng làm tư sản dân quỳên cách mạng còn nêu lên nhiệm vụ làm “thổ địa
cách mạng”, mà thực ra trong dân quỳên cách mạng đã bao gồm có “thổ
địa cách mạng”. Nhưng nhấn mạnh “thổ địa cách mạng” là Bác muốn

nhấn mạnh ước mơ ngàn đời của người nông dân nhằm lôi cuốn đông đảo
quần chúng nhân dân ủng hộ cách mạng. Trong tiến trình cách mạng Việt
Nam đã từng bước giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, tập hợp đông
đảo quần chúng nhân dân trong Đảng, mặt trận, cô lập cao độ kẻ thù, tạo
tình thân ái đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân téc để giành thắng lợi cuối
cùng. Vì vậy mà cách mạng Việt Nam giai đoạn đầu là cuộc cách mạng
dân téc dân chủ nhân dân. Giải quyết mối quan hệ giữa dân téc và giai cấp
là thực hiện nhiệm vụ dân téc dân chủ nhằm mục tiêu cuối cùng là giải
phóng dân téc, giải phóng giai cấp tiến tới giải phóng con người.
Có thể nói đây là tư tưởng vĩ đại đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh. Nó
đúng đắn, thực thi và mang tầm nhân loại. Nó định hướng cho cách mạng
Việt Nam vận dụng trong thời đaị mới có thể giành được thắng lợi đánh đổ
chủ nghĩa đế quốc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Nó chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn sáng tạo từ tư tưởng cách mạng Mác-
6
Lênin, truyền thống văn hoá dân téc và chính từ tầm văn hoá cao “văn hoá
tương lai” của Hồ Chí Minh.
II. Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân téc và vấn đề giai
cấp trong phong trào cách mạng và Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931)
Bối cảnh lịch sử:
Đầu thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra cuộc khủng hoảng chưa từng
có mà người ta gọi là cuộc khủng hoảng thừa. Cuộc khủng hoảng này bắt
đầu diễn ra ở Mỹ vào tháng 10/1929 và kéo dài đến năm 1933, đã tác động
mạnh mẽ đến nền kinh tế thế giới, làm cho kinh tế thế giới giảm suy
nghiêm trọng. Tình hình trên tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng
thế giới, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng thế giới phát triển.
Trong khi đó công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đang
giành được thắng lợi to lớn, rực rỡ trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã
hội do kế hoạch năm năm lần thứ nhất mang lại, đã góp phần cổ vũ động
viên tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam cũng như nhân

dân thế giới thêm tin theo con đường cách mạng vô sản mà nhân dân Liên
Xô là nước dẫn đường.
Ở trong nước: do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã
giáng một đòn nặng nề vào nền kinh tế Đông Dương. Lúa gạo là sản phẩm
chính của Đông Dương sụt giá ghê gớm. Năm 1929 giá 1 tạ gạo là 11,58
đồng, năm 1933 chỉ còn 3,2 đồng, lượng gạo xuất khẩu giảm, ruộng đất bỏ
hoang năm 1933 lên tới 800.000 ha. Giai cấp địa chủ phong kiến và đế
quốc tăng cường bóc lột tô thuế nặng nề làm cho đời sống nhân dân điêu
đứng. Trong khi đó nhiều nhà máy, đồn điền thu hẹp sản xuất, hàng vạn
công nhân thất nghiệp. Thiên tai lũ lụt thường xuyên xảy ra đã đẩy cuộc
7
khủng hoảng kinh tế đến mức trầm trọng trong mọi tầng líp nhân dân Đông
Dương rên xiết trong nỗi lầm than cơ cực không lối thoát. Ách áp bức bóc
lột của bọn thực dân phong kiến càng khơi sâu mâu thuẫn giữa nhân dân
với thực dân Pháp xâm lược.
Phong trào cách mạng Việt Nam phát triển song đã bị thực dân Pháp
đàn áp cực kì tàn bạo, hàng nghìn vụ bắt bớ giam cầm, chém giết diễn ra ở
khắp Bắc-Trung-Nam nhất là sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam
Quốc dân Đảng đã gây nên một không khí rất căng thẳng làm cho mâu
thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc xâm lược trở nên gay gắt đến cực điểm.
Đói khổ và căm hờn nhân dân Việt Nam sẵn sàng đứng dậy đấu tranh.
Chính trong bối cảnh lịch sử Êy Đảng cộng sản Việt Nam được thành
lâp (3/2/1930) với đường lối chiến lựơc đúng đắn giương cao ngọn cờ cách
mạng, kêu gọi các tầng líp nhân dân yêu nước đứng dậy kiên quyết đấu
tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai. Đảng ra đời là một nhân tố cơ
bản thúc đẩy phong trào cách mạng (1930-1931) phát triển đỉnh cao là Xô
Viết Nghệ Tĩnh.
Chủ trương của Đảng:
Phân tích sâu sắc tình hình thế giới và Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam khi mới ra đời ngay trong cương lĩnh đầu tiên của mình đã vạch ra

những chủ trương, đường lối đúng đắn, sáng tạo lãnh đạo phong trào Việt
Nam phát triển. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng với các văn kiện nh: chính
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt, chương trình tóm tắt của
Đảng, lời kêu gọi An Nam gia nhập Đảng được hội nghị hợp nhất thông
qua. Các văn kiện này từ sự phân tích sâu sắc tình hình thế giới và Việt
Nam. chấp hành nghị quyết của Quốc tế cộng sản đã xác định vị trí tính
chất cách mạng Việt Nam là “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, Đảng ta xác định con đường
8
phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam từ xã hội thuộc địa nửa phong
kiến tiến lên xã hội cộng sản trước hết phải làm cuộc cách mạng dân téc
dân chủ, cách mạng tư sản dân quyền trong đó bao gồm cả cách mạng
ruộng đất để đánh đổ đế quốc và phong kiến giành độc lập dân téc đi lên
chủ nghĩa xã hội. Chánh cương xác định về phương diện chính trị, nhiệm
vụ cơ bản chủ yếu của cách mạng Việt Nam là:
- Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
- Làm cho nước Nam được độc lập hoàn toàn.
- Dựac vào chính phủ công nông binh
- Tổ chức ra quân đội công nông.
Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Bọn phong kiến
theo tinh thần của chánh cương là chỉ bọn đại địa chủ đứng hẳn về phe đế
quốc, làm tay sai cho bọn đế quốcvà bọn vua quan trong bộ máy Nam
triều, chứ chưa phải là toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến. Vì vậy, về
phương diện kinh tế, Chánh cương chỉ nêu nhiệm vô “thâu hết sản nghiệp
lớn (nh công nghiệp, vận tải, hàng hải ) của bọn tư bản đế quốc chủ
nghiã Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lí. Thâu hết ruộng
đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bá sưu
thuế cho dân cày nghèo. Mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành
luật ngày làm 8 giê” chứ chưa nêu khẩu hiệu “cải cách ruộng đất – người
cày có ruộng” là nhiệm vụ chủ chốt của cách mạng phản phong. Về

phương diện xã hội, chủ trương dân chúng được tự do, nam nữ bình quyền,
phát triển giáo dục theo công nông hoá.
Nh vậy, nhiệm vụ của cách mạng đề ra trên bao gồm cả nội dung dân
téc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến. Hai nhiệm vụ này có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng nổi bật lên là nhiệm vụ chống đế quốc và
tay sai giành độc lâp cho toàn thể nhân dân Việt Nam. Từ việc xác định
9
đúng tính chất của cuộc cách mạng, xác định đúng kẻ thù cơ bản và chủ
yếu nên đặt vấn đề dân téc lên trên vấn đề giai cấp, và xác định lực lượng
cho cách mạng chủ trương đoàn kết toàn thể nhân dân yêu nước Việt Nam
thực hiện nhiệm vụ cao cả chống đế quốc xâm lược giải phóng dân téc.
“Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng, Đảng phải thu phục được đại bộ
phân dân cày và phải dùa vào hạng dân cày nghèo”. Với các tầng líp giai
cấp khác, sách lược chủ trương đoàn kết rộng rãi, phân hoá và lôi kéo họ
về phía cách mạng. “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí thức
trung nông, Thanh niên Tân việt còn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ bộ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, Ýt lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản
cách mạng thì phải đánh đổ”. Chủ trương tranh thủ, tập hợp rộng rãi lực
lượng cách mạng, nhưng Người vẫn quán triệt quan điểm “công nông là
gốc cách mạng” nên sách lược vắn tắt ghi: “Đảng phải làm cho các đoàn
thợ thyền và dân cày khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản
quốc gia”. Bên cạnh đó nhằm kết hợp sức mạnh dân téc với sức mạnh thế
giới phải liên kết với các dân téc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới nhất
là vô sản Pháp. Cương lĩnh cũng đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.
Cương lĩnh đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo tuy còn vắn tắt
song đây là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân téc đúng đắn sáng
tạo phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, nhuần nhuyễn về quan
điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân téc, độc lập dân téc gắn liền với

chủ nghĩa xã hội.
Theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản tháng 10/1930 đã giao cho Trần
Phú soạn thảo bản luận cương chính trị thay cho chính cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc. Bản luận cương chính trị nhằm chỉ đạo
10
cách mạng trên toàn cõi Đông Dương. Luận cương đã chỉ rõ để tiến lên xã
hội cộng sản, cách mạng nước ta phải trải qua hai giai đoạn: giai đọan cách
mạng dân téc dân chủ và giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Luận
cương nêu: “Nhiệm vụ cốt yếu của tư sản dân quỳên cách mạng là phải
đánh đổ các thế lực phong kiến, xoá bỏ ách áp bức bóc lột theo kiểu tiền
tư bản. Tiến hành cách mạng thổ địa cho triệt để và đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương cũng
vạch rõ mối quan hệ hữu cơ giữa hai nhiệm vụ dân téc dân chủ chống đế
quốc và chống phong kiến. “Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng
khít với nhau vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp
địa chủ và làm cách mạng thổ địa thắng lợi. Có phá tan chế độ phong kiến
thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Tuy nhiên, luận cương chưa
thấy đựơc mâu thuẫn chủ yếu của cách mạng Việt Nam, chưa đặt nhiệm vụ
chống đế quốc và giải phóng dân téc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh
giai cấp và cách mạng ruộng đất, do đó chưa đánh giá đúng đắn tác dụng
của nhân tố dân téc. Vì vậy mà chưa tập trung được đông đảo quần chúng
nhân dân trong một mặt trận dân téc thống nhất. Luận cương chỉ nêu giai
cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính mà chưa thấy được vai trò to
lớn của các giai tầng khác trong xã hội. Luận cương cũng nhấn mạnh vai
trò lãnh đạo của Đảng, nhấn mạnh sức mạnh đoàn kết với các dân téc
thuộc địa, với giai cấp vô sản anh em. Luận cương còn vạch ra phương
pháp đấu tranh cách mạng, dùng bạo lực cách mạng “con đường bạo lực
tiến tới khởi nghĩa vũ trang. Đảng phải coi trọng vận động quần chúng
đấu tranh đòi các quyền lợi trước mắt từng bước dẫn dắt quần chúng tiến
lên”. Đảng động viên quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao khi tình thế

cách mạng xuất hiện, Đảng phải lãnh đạo quần chúng đánh đổ chính quyền
của địch giành chính quyền về tay công nông. Luận cương chính trị được
11
viết dưới ánh sáng của bản đề cương về cách mạng thuộc địa của quốc tế
cộng sản, vì vậy chịu ảnh hưởng sâu sắc về đường lối của quốc tế cộng
sản, vận dụng một cách máy móc lý luận chủ nghĩa Mác Lênin đặt vấn đề
giai cấp lên trên vấn đề dân téc mà không thấy đựơc mâu thuẫn chủ yếu
của toàn thể nhân dân thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc Pháp đó là mâu
thuẫn dân téc. Chính vì sai lầm này khi đi vào thực tế cách mạng đã gây
nên hậu quả nghiêm trọng. Nhưng Đảng vô cùng nhanh nhạy đã nhanh
chóng điều chỉnh chủ trương đường lối của mình, kêu gọi đoàn kết các
tầng líp nhân dân thực hiện nhiệm vụ giải phóng. Vì vậy ngay khi Đảng ra
đời đã lãnh đạo một phong trào cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ, phong trào
cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Cuộc vận động cách mạng 1930-1931:
Dưới ngọn cờ giải phóng dân téc của Đảng cộng sản Việt Nam, mét
phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp diễn ra rộng khắp cả nước sôi
nổi, mạnh mẽ quyết liệt và triệt để bắt đầu từ khi Đảng mới ra đời đến
khoảng giữa năm 1931.
Chưa bao giê trong lịch sử lại có một phong trào đấu tranh cách mạng
rộng lớn, mạnh mẽ, triệt để đến nh vậy. Chỉ từ sau khi Đảng ra đời, và nhất
là sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái, hàng loạt các cuộc bãi công biểu tình của
công nhân nổ ra. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền cao
su Phú Riềng (3/1930), và 4000 công nhân nhà máy sợi Nam Định
(4/1930). Công nhân nhà máy Bason, công nhân nhà máy xe lửa Dĩ An,
biểu tình của thợ mỏ Đông Dương, bãi công của nhà máy diêm Bến Thuỷ
(4/1930) đòi quyền lợi về kinh tế và chính trị. Phối hợp với phong trào
công nhân, nông dân ở nhiều nơi đã nổi dậy biểu tình đòi giảm sưu thuế,
tiêu biểu là phong trào nông dân ở Thái Bình, Hà Néi, Nam Định, Nghệ
An, Hà Tĩnh. Đặc biệt sau ngày quốc tế lao động 1/5 được sự lãnh đạo của

12
Đảng, phong trào phát triển rộng khắp cả ba kỳ. Trong cả nước đều xuất
hiện đấu tranh của công nhân, biểu tình của nông dân. Trong các cuộc đấu
tranh đã xuất hiện cờ đỏ búa liềm, truyền đơn, biểu ngữ, đòi tăng lương,
giảm giê làm cho công nhân, hoãn sưu thuế cho nông dân. Cuộc đấu tranh
ngày 1/5 đã đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng.
Công nông không chỉ đấu tranh giành quyền lợi cho mình mà còn biểu
hiện tính đoàn kết cách mạng với nhân dân lao động trên thế giới. Các
khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” đã xuất hiện ở khắp các
thành phố từ Bắc chí Nam. Sù phát triển mạnh mẽ của phong trào đã làm
cho thực dân Pháp hoảng sợ, nội các Pháp phải họp khẩn cấp để tìm cách
đối phó. Từ giữa năm 1930, phong trào cách mạng tập trung về hai tỉnh
Nghệ An, Hà Tĩnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Nghệ An, Hà Tĩnh
phong trào công nhân ở Vinh, Bến Thuỷ phối hợp với nông dân các huyện
tổ chức đấu tranh làm cho khí thế cách mạng nhày càng mạnh mẽ. Sau
ngày 1/5, phong trào cách mạng ngày càng quyết liệt phát triển thành cao
trào. Hàng chục cuộc biểu tình lôi cuốn hàng vạn người tham gia có sự
đoàn kết chặt chẽ giữa công nông, đòi quyền lợi về kinh tế và chính trị.
Đặc biệt trong những ngày tháng 9, phong trào đấu tranh trở nên dồn dập.
Ngày 12/9/1930, 2 vạn nông dân Hưng Nguyên tổ chức biểu tình đòi yêu
sách đã bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp đẫm máu làm cho 217 người
chết, 125 người bị thương. Ngày 12/9 đã đi vào lịch sử đấu tranh cách
mạng Việt Nam. Phong trào ngày càng quyết liệt, đấu tranh chính trị đã kết
hợp với đấu tranh vò trang lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân đạp tan
ách áp bức bó lột của đế quốc và phong kiến, đã cho ra đời chính quyền
công nông đầu tiên ở Việt Nam cũng như trên toàn cõi Đông Dương đó là
Xô Viết Nghệ Tĩnh. Xô Viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách
mạng 1930-31. Xô Viết Nghệ Tĩnh với những thành tựu đã đạt được của
13
mình về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục xứng đáng với danh

hiệu “đỏ” mà Hồ Chí Minh trao tặng. Tuy nhiên, Xô Viết Nghệ Tĩnh tồn
tại trong thời gian không lâu khoảng 4-5 tháng, do những điều kện chủ
quan và khách quan giữa năm 1931, phong trào cách mạng tạm thời lắng
xuống và cuộc đấu tranh chuyển sang mét giai đoạn mới. Xô Viết Nghệ
Tĩnh đã để lại hạt giống tốt tươi làm vốn cho giai đoạn sau. Hạt giống đó là
những bài học kinh nghiệm quý giá.
Trong giai đoạn này Hồ Chí Minh không trực tiếp lãnh đạo cách mạng
và cương lĩnh cách mạng của Người cũng không được đế quốc cộng sản
chấp nhận vì Người bị cho là mang tư tưởng dân téc chủ nghĩa. Cương lĩnh
lãnh đạo cách mạng Việt Nam lóc này là luận cương chính trị của Trần
Phú. Tuy nhiên, xét trong thực tế cương lĩnh của Hồ Chí Minh có ảnh
hưởng sâu sắc đến sự vận động và phát triển của cách mạng cùng những
sai lầm do chỉ đạo cuộc cách mạng ngày càng chứng minh tính đúng đắn
sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đường lối đúng đắn của Đảng do Hồ Chí Minh
vạch ra ngay từ đầu là giương cao ngọn cờ giải phóng dân téc và ruộng đất
dân cày, đi lên chủ nghĩa xã hội, đã đánh tróng mâu thuẫn sâu sắc của toàn
thể dân téc đối với bọn đế quốc xâm lược đã đáp ứng khát vọng ngàn đời
của người nông dân là vấn đề ruộng đất. Thực tế phong trào cách mạng
(1930-1931) đã cho thấy sự liên minh chặt chẽ, nhịp nhàng giữa công
nông, công nhân bãi công, nông dân biểu tình ủng hộ, giúp đỡ san sẻ khó
khăn cho nhau. Nhưng bên cạnh hai giai cấp chính là công nông còn đoàn
kết với các giai tầng yêu nước khác trong xã hội, đoàn kết với các dân téc
anh em vô sản thế giới.
Hạn chế của Luận cương chính trị là không đánh giá hết vai trò của
các giai tầng khác nhau trong xã hội mà sau này Đảng đã phải nhanh chóng
điều chỉnh. Chỉ thị về vấn đề thành lập “hội phản đế đồng minh” của ban
14
thường vụ trung ương Đảng đã nêu rõ trong cao trào cách mạng ở nhiều
địa phương nh: Nghệ An, Hà Tĩnh. Một phần lớn tầng líp trí thức, tư sản
nhỏ và một số địa chủ nhỏ đã ngả theo cách mạng. Do đó chỉ thị chỉ rõ

ngoài khối liên minh công nông cần phải đoàn kết các tầng líp yêu nước
khác để tổ chức thành một lực lượng rộng lớn. Chỉ thị nhắc nhở các Đảng
bộ địa phương phải gấp sức thành lập hội phản đế đồng minh để thu hót
các tầng líp trong nhân dân chống đế quốc, chống khủng bố trắng, ủng hộ
công nông. Điều đó càng thể hiện rõ sự đúng đắn của cách mạng. Người
luôn kiên quyết quan điểm của mình và lúc có điều kiện đấu tranh để ngăn
ngõa tác hại của xu hướng “tả khuynh”, chỉ thị gửi xứ uỷ trung kỳ về vấn
đề thanh Đảng (5/1931) phân tích: “Xứ ta chưa phải là xứ kĩ nghệ cao, tư
bản tập trung, công nhân thành một hàng ngò mạnh mẽ mà là xứ thuộc
địa, kinh tế phụ thuộc, nông nghiệp lạc hậu” và “Đảng cộng sản Đông
Dương xuất phát từ chỗ giác ngộ phản đế, ghét Pháp từ trước đến nay,
nên trong hàng ngò Đảng có những thư gia đệ tử, cựu nho, trung, tiểu địa
chủ, phú nông và trung nông ở vùng nông thôn và một số giáo viên, học
sinh chữ Pháp, một số tiểu thương, tiểu chủ hay con nhà một số công chức,
tổ chức hỗn hợp lại trong phong trào Giai cấp công nhân ở Đông Dương
đã thành một lực lượng giai cấp giác ngộ nhất định của nó mặc dầu mới
đầu tiên và còn yếu ớt. Hai lực lượng Êy hợp lại xây dựng nên Đảng Cộng
sản Đông Dương”. Từ sự phân tích trên, chỉ thị phê phán: “Xứ uỷ trung
kỳ, nhất là đồng chí bí thư ra chỉ thị Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừ trí
phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ như vậy thì gốc đâu mà đào, xem rễ
ở đâu mà tước, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và một lối
hành động quàng xiên chi tướng”. Chính ví sai lầm này đã gây nên tổn thất
cho Đảng, sai lầm này càng chứng tỏ tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh, chủ
trương của Người vạch ra cho Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo.
Như vậy, là trong giai đoạn 1930-31 tuy Hồ Chí Minh không trực tiếp
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tư tưởng của Người không được trực tiếp
15
áp dụng vào thực tiễn cách mạng song thực tiễn cách mạng lại vận động và
phát triển theo con đường mà Người đã vạch ra, khẳng định tính đúng đắn
sáng tạo của Người. Và để phù hợp với thực tiễn cách mạng, Đảng từng

bước tự điều chỉnh. Phong trào cách mạng (1930-31) đã bị chìm trong bể
máu. song nó được nuôi dưỡng bởi hạt giống tốt đến một lúc khi có điều
kiên thuận loại nó lại nảy mầm tôt tươi đó là lúc mà lịch sử nhận thức đúng
đắn sứ mạng vào con đường đi của mình, khi mà tư tưởng Hồ Chí Minh
được trực tiếp vận dụng vào cách mạng.
16

×