Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

luận văn Đời sống văn hóa tinh thần của người H''Mông ở huyện Mù Cang Chải – Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.23 KB, 107 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Người H'Mông là một trong những dân tộc thiểu số co dân số đông
ở miền Bắc Việt Nam. Theo số liệu của cuộc điều tra dân số năm 1999 thì
dân số của dân tộc H'Mông là trên 55 vạn người. người H'Mông cư trú chủ
yếu trên những vùng núi có độ cao trên dưới 1000m. Trải qua quá trình
thiên di hàng trăm năm tới định cư ở vùng núi phía Bắc Việt Nam, người
H'Mông đã xác lập cho mình một diện mạo kinh tế - văn hoá – xã hội khá
rõ nét. Cùng với 53 dân tộc anh em, người H'Mông luôn luôn là một phần
của sự thống nhất khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú
cho nền văn hoá các dân tộc Việt Nam. Vì thế mà đã từ lâu, người H'Mông
trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học trong nước và
trên thế giới.
Văn hoá H'Mông là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà
họ sáng tạo ra trong diễn trình lịch sử của mình. Trong văn hoá H'Mông,
văn hoá tinh thần là một yếu tố không thể thiếu được trong cuộc sống của
con người. Việc nghiên cứu văn hoá tinh thần của các dân tộc thiểu số nói
chung, dân tộc H'Mông nói riêng là sự đóng góp quan trọng trong việc bảo
lưu những giá trị văn hoá truyền thống. Nghiên cứu văn hoá tinh thần còn
là cơ sở khoa học cho nhiều ngành văn hoá, nghệ thuật… vận dụng, kế thừa
tính dân tộc, giá trị văn hoá, quan điểm thẩm mỹ… phục vụ cho công cuộc
xây dựng đất nước.
Đặc biệt, dưới góc độ văn hoá, lịch sử, nghiên cứu văn hoá tinh thần
còn góp phần làm sáng tỏ thêm những đặc trưng tộc người. Trên cơ sở đó,
chúng ta có những cứ liệu khoa học đánh giá đúng vị trí văn hoá các dân tộc
nói chung và văn hoá người H'Mông nói riêng để có định hướng đúng cho
việc xây dựng và phát triển một nền văn hoá Việt Nam dân tộc và hiện đại.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội


1
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Là một người con của vùng núi Tây Bắc - nơi có số lượng người
H'Mông cư trú khá đông nên tôi có dịp được điền dã ở một số vùng người
H'Mông sinh sống như Sa Pa, Mường Khương, Bắc Hà (tỉnh Lào Cai), Mù
Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn (tỉnh Yên Bái). Đó chính là điều kiện
quan trọng có tính quyết định về mặt tài liệu để tôi lựa chọn và thực hiện đề
tài khoá luận. Mặt khác trong quá trình đi điền dã, văn hoá H'Mông, đặc
biệt là văn hoá tinh thần có sức thu hút với rất lớn đối với tôi. Đó chính là
những lý do thôi thúc tôi chọn đề tài về đời sống văn hóa tinh thần của
người H'Mông. Tuy nhiên khi chọn địa bàn để nghiên cứu tôi đã chọn địa
bàn huyện Mù Cang Chải. Bởi nếu các vùng người H'Mông cư trú khác hầu
hết đều tiếp giáp với biên giới Lào và Trung Quốc thì Mù Cang Chải là một
khu vực hoàn toàn biệt lập. Bao quanh huyện là đồi núi với dãy Hoàng
Liên Sơn có độ cao và độ dốc lớn, địa hình chia cắt mạnh; nhiều điểm cao
trung bình từ 2000m đến dưới 3000m so với mực nước biển. Do đó sự giao
lưu và trao đổi hàng hoá không phát triển như các nơi khác. Hơn nữa Mù
Cang Chải là một huyện thuần người H'Mông (chiếm 95% dân số của
huyện. Do đó văn hoá tinh thần của người H'Mông ở đây còn giữ được hầu
như nguyên vẹn tính truyền thống.
Tôi hy vọng việc nghiên cứu về “Đời sống văn hóa tinh thần của
người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải – Yên Bái” sẽ góp thêm những
hiểu biết về người H'Mông nói chung và người H'Mông ở Mù Cang Chải
nói riêng, đồng thời góp phần nhận diện và gìn giữ những giá trị văn hoá
tộc người trước những biến đổi của cuộc sống trong thời đại mới.
2. Lịch sử vấn đề.
Nghiên cứu về đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc ta nói chung,
đời sống văn hoá của các dân tộc thiểu số nói riêng nhằm mục đích bảo vệ
và phát huy các giá trị văn hoá của cộng đồng dân tộc, phục vụ cho sự

nghiệp phát triển của đất nước đã và đang được các nhà khoa học quan tâm
và thực hiện.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
2
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc H'Mông được nhiều nhà
khoa học, nhà quản lý văn hoá vùng người H'Mông đi sâu tìm hiểu, trong
đó có đời sống văn hoá tinh thần của người H'Mông ở huyện Mù Cang
Chải – Yên Bái đã được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp trong các công
trình đó.
Trong cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Mù Cang Chải do huyện uỷ Mù
Cang Chải biên soạn năm 1995 đã giới thiệu sơ lược về người H'Mông và
truyền thống đấu tranh của của người H'Mông ở Mù Cang Chải.
Cuốn Yên Bái nơi hội tụ của đồng bào các dân tộc của nhà nghiên
cứu Hà Lâm Kỳ, Nxb Văn hoá dân tộc, 1996 đã giới thiệu những nét khái
quát nhất về nguồn gốc, tên gọi, đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào các dân tộc hiện đang sinh sống trên đất Yên Bái trong có nhắc đến dân
tộc H'Mông ở huyện Mù Cang Chải.
Cuốn Mỗi nét hoa văn do nhà nghiên cứu Hà Lâm Kỳ làm chủ biên,
Nxb Văn hoá dân tộc, 2001. Đây là tác phẩm viết về những nét đẹp trong
đời sống văn hoá tinh thần của một số dân tộc ở Yên Bái, trong đó có bài
viết của tác giả Minh Khương về một số nghi lễ trong cuộc sống gia đình
của đồng bào H'Mông ở Mù Cang Chải.
Cuốn Dân tộc Mông ở Việt Nam của hai tác giả Hoàng Nam và Cư
Hoà Vần, Nxb Văn hoá dân tộc, 1994. Các tác giả đã giới thiệu khái quát
về lích ử di cư, tên gọi, địa bàn cư trú, phân nhóm, sinh hoạt vật chất và
tinh thần của dân tộc H'Mông ở Việt Nam, trong đó có đề cập tới người
H'Mông ở Mù Cang Chải.

Cuốn Lịch sử người Mèo của cha cố Savina (người Pháp), xuất bản
tại Hồng Kông năm 1924. Đây là công trình nghiên cứu về đặc điểm trong
đời sống văn hoá và xã hội của dân tộc H'Mông để phục vụ cho mục đích
truyền đạo và thiết lập ách thống trị của thực dân Pháp ở vùng người
H'Mông. Vì vậy, công trình này manh nặng quan điểm của thực dân Pháp
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
3
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
áp đặt khiên cưỡng khi cho rằng người H'Mông và văn hoá dân tộc H'Mông
có nguồn gốc sâu xa từ phương Tây. Mặc dù vậy, công trình này cũng có
giá trị về mặt tư liệu trong việc nghiên cứu về nguồn gốc và những tập tục
xã hội của dân tộc H'Mông.
Cuốn Văn hoá tâm linh của người H'Mông ở Việt Nam truyền
thống và hiện đại của tác giả Vương Duy Quang, Nxb Văn hoá Thông tin,
2005. Tác giả viết về đời sống tâm linh truyền thống của người H'Mông,
những nét mới trong đời sống tâm linh của đồng bào H'Mông hiện nay và
những tác động của sự biến đổi đó tới văn hoá dân tộc H'Mông, trong đó
tác giả có đề cập tới đời sống tâm linh của người H'Mông ở Mù Cang Chải.
Cuốn Dân ca H'Mông của nhà sưu tầm văn hoá dân gian Doãn
Thanh, Nxb Văn học, 1984 là công trình sưu tập hệ thống các bài hát dân
ca của dân tộc H'Mông - một yếu tố quan trọng làm nên văn hoá tinh thần
của dân tộc H'Mông.
Cuốn Âm nhạc dân tộc H'Mông của Hồng Thao, Nxb Văn hoá dân
tộc, 1997. Trong tác phẩm tác giả đi sâu nghiên cứu về các nhạc khí của
dân tộc H'Mông, lời ca trong bài hát H'Mông, trên cơ sở đó tác giả rút ra
những đặc điểm của âm nhạc H'Mông. Đây là một tài liệu có giá trị quan
trọng để nghiên cứu về văn hoá thần của dân tộc H'Mông ở Việt Nam nói
chung và dân tộc H'Mông ở Mù Cang Chải nói riêng.

Ngoài những tác phẩm trên, đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc
H'Mông ở Mù Cang Chải còn được phản ánh trong nhiều bài viết, công
trình nghiên cứu trên các tạp chí: Dân Tộc học, Văn hoá dân gian, Nghiên
cứu lịch sử… Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên
cứu và dựng lại toàn diện đời sống văn hoá của người H'Mông ở Mù Cang
Chải – Yên Bái. Đây là vấn đề mới mẻ và là việc làm cần thiết phục vụ cho
mục đích bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc H'Mông nói chung, văn hóa
người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải nói riêng.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
4
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
3.1. Nguồn tư liệu.
Nghiên cứu đời sống văn hoá tinh thần của các dân tộc H'Mông ở
Mù Cang Chải tác giả đã dựa vào các nguồn tư liệu chủ yếu sau:
a. Các tác phẩm, các công trình nghiên cứu đề cập đến người H'Mông
và văn hoá tinh thần của dân tộc H'Mông của các nhà nghiên cứu như:
- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái.
- LỊch sử Đảng bộ huyện Mù Cang Chải.
- Lịch sử người Mèo của Savina.
- Yên Bái nơi hội tụ của đồng bào các dân tộc của Hà Lâm Kỳ.
- Mỗi nét hoa văn của Hà Lâm Kỳ.
- Các báo cáo của sở văn hoá Yên Bái.

b. Nguồn tư liệu địa phương.
Tác giả đã tiến hành điền dã tại một số xã tập trung người H'Mông
sinh sống trên địa bàn huyện Mù Cang Chải, tập hợp nguồn tư liệu truyền
miệng về phong tục tập quán, tục lệ xã hội, ca dao, lễ hội,…của người

H'Mông do những người am hiểu phong tục tập quán của dân tộc H'Mông
cung cấp.
3.2. Phương pháp nghiên cứu.
Sưu tầm tài liệu tại các thư viện Quốc Gia, Phòng tư liệu của Bảo
tàng dân tộc học, thư viện trường Đại học khoa học xã hội nhân văn, Thư
viện tỉnh Yên Bái, Bảo tàng tỉnh Yên Bái, Thư viện huyện Mù Cang Chải,
Phòng văn hoá thông tin huyện Mù Cang Chải.
Phương pháp thực địa, điền dã tại một số xã của huyện Mù Cang
Chải, trò chuyện trực tiếp với cán bộ địa phương và đồng bào dân tộc
H'Mông ở đây.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
5
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích, so sách, tổng hợp, đánh
giá và rút ra những kết luận xác thực nhất cho vần đề cần nghiên cứu.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc
H'Mông, cụ thể là dân tộc H'Mông ở huyện Mù Cang Chải – Yên Bái trên
các khía cạnh chủ yếu của đời sống văn hoá tinh thần đồng thời cũng nêu
thêm những nét mới trong đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc H'Mông
Mù Cang Chải và đưa ra một giải pháp để gìn giữ và phát huy những giá trị
văn hoá tộc người.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
+ Về không gian: huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái
+ Về thời gian: Khoá luận nghiên cứu văn hoá tinh thần của dân tộc
H'Mông từ khi dân tộc H'Mông đến sinh sống ở huyện Mù Cang Chải đến
ngày nay.

5. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài
gốm ba chương.
Chương 1: Khái quát về điều kiện tự nhiên và người H'Mông ở
huyện Mù Cang Chải – Yên Bái.
Chương 2: Đời sống văn hoá tinh thần truyền thống của người
H'Mông ở huyện Mù Cang Chải - Yên Bái.
Chương 3: Sự biến đổi trong đời sống văn hoá tinh thần của người
H'Mông ở huyện Mù Cang Chải và những vấn đề đặt ra.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
6
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ NGƯỜI HMÔNG
Ở HUYỆN MÙ CANG CHẢI – YÊN BÁI
1.1. Điều kiện tự nhiên.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên:
Là một huyện vùng cao nằm phía Tây tỉnh Yên Bái. Mù Cang Chải
giáp huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai về phía Bắc, huyện Mường La tỉnh Sơn
La về phía Nam, huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái về phía Đông và huyện
Than Uyên tỉnh Lào Cai về phía Tây.
Tổng diện tích của huyện là 119.913 ha, trong đó đất nông nghiệp là
6.193 ha, đất lâm nghiệp 13.041 ha, đất ở 195 ha, đất chưa sử dụng 100.215
ha. Riêng diện tích trồng lanh chỉ khoảng từ 35 ha đến 40 ha.
Địa phận huyện Mù Cang Chải hiện nay thuộc phạm vi dãy Hoàng
Liên Sơn với hệ thống núi cao và đồ sộ nhất Việt Nam nên địa hình bị chia
cắt dữ dội và có độ dốc lớn. Độ cao trung bình của toàn huyện là 800 - 1200
m nhưng có nhiều đỉnh cao hơn 2000m, thậm chí có đỉnh núi thuộc xã Nậm

Có cao tới 2771m. Đất Mù Cang Chải chủ yếu là loại đất pheralít núi có mùn
phát triển trên đá phiến thạch rất thích hợp với cây chè, thông, mía. Đất
thung lũng và đất phù sa không bồi chiếm tỉ lệ thấp. Những nơi có độ cao
lớn như Lao Chải, Nậm Có có tầng mùn dầy, trồng đậu, lạc, vừng rất tốt.
Với vị trí địa lý nằm sát chí tuyến Bắc, hàng năm mặt trời hai lần đi
qua thiên đỉnh (trung tuần và hạ tuần tháng 6) nhưng do chịu ảnh hưởng
của quy luật đai cao nên khí hậu Mù Cang Chải mang tính chất á nhiệt đới
gió mùa vùng núi cao. Ở đây, tổng nhiệt độ năm là 6500 – 7000
0
C, nhiệt độ
trung bình hàng năm là 15-20
0
C nhưng những tháng mùa đông, có ngày
nhiệt độ xuống dưới 0
0
C cùng với những hiện tượng thời tiết như sương
muối, băng giá và tuyết và mùa hè vào những đợt nắng nóng có gió Lào,
nhiệt độ buổi trưa có khi lên tới 30–35
0
C.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
7
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Mạng lưới suối chiếm khoảng 2% tổng diện tích tự nhiên phân bố
rải rác ở nhiều nơi trong huyện. Phần lớn các suối là suối nhỏ, ngắn và dốc,
lưu lượng nước ít, thất thường và hầu như không có bồi tụ, lòng suối đầy
những tảng đá lớn.
Trong hệ thống thủy văn ở đây, Nậm Kim là con suối dài và lớn

nhất, bắt nguồn từ vùng núi cao Púng Luông chảy dọc quốc lộ 32 qua địa
phận các xã La Pán Tẩn, Dế Xu Phình, Chế Cu Nha, Mồ Dề, Kim Nọi, Lao
Chải, Khao Mang, Hổ Bốn rồi đổ về dòng Nậm Mu ở Than Uyên. Suối
Nậm Kim có nguồn nước khá dồi dào nên có khả năng mở mương máng
thủy lợi dẫn nước tưới ruộng và xây dựng các trạm thủy điện.
Lượng mưa trung bình hàng năm ở Mù Cang Chải là 1500-
2000mm, nhưng lại phân bố không đều. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9,
cực đại vào tháng 6,7, có tới 112 ngày mưa tập trung 88% lượng mưa cả
năm. Mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3, khô nhất là vào các tháng 12 và
tháng 1. Trong các tháng mùa khô, chỉ có 36 ngày mưa với lượng mưa hơn
200mm (chiếm 12% lượng mưa cả năm), trong khi lượng bốc hơi quá lớn,
gần 600mm, gây nên tình trạng khô hạn ở nhiều nơi, nhất là vùng cao, thậm
chí nước cho sinh hoạt còn thiếu.
Nhìn chung, khí hậu Mù Cang Chải không thuận lợi cho sản xuất
nông nghiệp. Mùa đông thì rét kéo dài, có năm ở một số xã còn có tuyết
rơi. Mùa hè thì mưa to, đá lở làm xói mòn đồi núi và sạt lở đường giao
thông. Sương muối xuất hiện nhiều vào tháng 1 và tháng 2. Mưa đá thường
xảy ra vào cuối tháng 4, tháng 5, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất cũng
như đời sống của nhân dân.
Thảm thực vật ở Mù Cang Chải cũng rất phong phú về chủng loại.
Ở đây, rừng á nhiệt đới núi cao chiếm ưu thế, bao gồm những vùng lá kim
chính như pơmu, các loại thông, sa mộc, liều sam xen lẫn với các loài cây
lá rộng thuộc họ sổi dẻ và họ đỗ quyên. Lên cao hơn từ độ cao 1800m trở
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
8
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
lên, là đai rừng ôn đới trên núi với những loại cây thật quý hiếm như lãnh
sam, vân sam, thiết sam, thông mọc xen kẽ. Hệ động vật ở Mù Cang Chải

gồm nhiều loài đặc trưng cho khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới như
hổ, báo, nai, hoẵng, sơn dương, mèo rừng, các loại chim, công, trĩ
Thế nhưng, do nhiều năm qua, việc du canh du cư, phát rừng làm
rẫy của đa số cư dân ở đây và quá trình khai thác bừa bãi đã làm cho diện
tích rừng ở Mù Cang Chải ngày càng bị thu hẹp. Tính đến năm 2005, diện
tích rừng của Mù Cang Chải chỉ còn hơn 11 000 ha (6216 ha rừng tự nhiên;
5300,92 ha rừng trồng) chiếm 10% tự nhiên toàn huyện. Trong số diện tích
rừng tự nhiên ít ỏi đó chủ yếu là rừng thứ sinh với các sa van cỏ, sa van cây
bụi. Hiện nay, trong rừng tuy vẫn còn những loại gỗ quý như lát, lim, pơ
mu, chò chỉ nhưng khối lượng không nhiều; các loài thú quý như hổ, báo,
gấu còn không đáng kể.
Về mặt phân chia hành chính thì Mù Cang Chải gồm có 13 xã với
110 bản được tách ra từ một số huyện của các tỉnh Yên Bái, Sơn La, Lào
Cai vào ngày 18-10-1957 và cái tên Mù Cang Chải cũng ra đời trong thời
gian này. Mù Cang Chải là tên ghép của hai địa danh đầu và cuối của
huyện: dãy núi Mù Cang (nghĩa là: núi có nhiều cây khô) ở phía Nam và xã
Lao Chải (nghĩa là: nơi ở lâu) ở phía Bắc. Theo thống kê năm 1997, huyện
có 4855 hộ với 35295 người, trong đó, dân tộc Hmông chiếm 91,1%, Kinh
3,9%, Thái 3,8% và dân tộc Tày chiếm 1,2%.
Được sự đầu tư của Nhà nước thông qua các chương trình như phát
triển vùng cao, xây dựng nông thôn mới , nhất là các chương trình định
canh định cư kéo dài hơn 30 năm nay, huyện đã xây dựng được một số hồ
đập chứa nước, hàng trăm con mương, trong đó có những con mương lớn
như mương Dế Xu Phình, Nậm Có, Lao Chải, Chế Cu Nha, Kim Nọi Do
địa hình phần lớn là núi cao nên cư dân ở đây, đặc biệt là người Hmông đã
cố gắng khai mở các đường mương dẫn nước trên các sườn núi, tạo nên
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
9
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim

Dung
một hệ thống ruộng bậc thang rất ngoại mục, nhất là ở hai khu vực xã Púng
Luông và xã La Pán Tẩn.
Về mạng lưới giao thông, Mù Cang Chải có quốc lộ 32 chạy qua
địa phận của 10 xã (trừ 3 xã là Nậm Có, Nậm Khắt và Chế Tạo) với chiều
dài khoảng 60km là con đường huyết mạch giao thông quan trọng nhất.
Năm 1971, huyện mở đường Ngã Ba Kim đi Nậm Khắt. Qua nhiều năm,
nhiều lần tu bổ, xe cộ đã có thể đi lại trên tuyến đường này. Ngoài ra, Mù
Cang Chải còn có hai con đường mòn dân sinh quan trọng là đường Chế
Cu Nha đi Nậm Có và Nậm Khắt đi Khao Vai.
Nhìn chung, mạng lưới giao thông như vậy đảm bảo việc đi lại của
người dân trong vùng. Nhưng do chất lượng của mặt đường còn thấp, chủ
yếu là đường đất, thậm chí ngay quốc lộ 32 được rải đá cấp phối nhưng
mùa mưa xe cộ đi lại còn rất khó khăn, hạn chế nhiều việc giao lưu trao đổi
hàng hóa của nhân dân các xã trong huyện cũng như đối với các nơi khác.
Cùng với sự chuyển đổi phương thức quản lý của nhà nước từ cơ chế bao
cấp sang nền kinh tế thị trường, từ cuối những năm 1980 thị trường địa
phương đã được hình thành. Huyện đã thành lập ba trung tâm vùng ở ba
khu vực: Púng Luông, huyện lỵ và Khao Mang với hệ thống chợ, các cửa
hàng bách hóa tổng hợp thuộc nhiều thành phần kinh tế, bước đầu đã đáp
ứng nhu cầu trao đổi mua bán của nhân dân trong huyện. Hàng năm, hàng
hóa của huyện xuất ra trao đổi với bên ngoài chủ yếu gồm có: sơn trà 2300
tấn, chè búp khô 10 tấn, trâu bò 500 con, ý dĩ 100 tấn, mật ong 6 tấn, nhựa
thông 100 tấn.
Các dân tộc Mù Cang Chải tuy thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau
nhưng đều chung sống xen kẽ. Người dân có thể nói nhiều thứ tiếng của
các dân tộc anh em, am hiểu và tôn trọng phong tục tập quán của nhau. Các
dân tộc còn có kho tàng văn hóa dân gian phong phú bao gồm hệ thống dân
ca, truyện cổ và các loại nhạc cụ khác nhau. Hệ thống lễ hội khá phong
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

Hà Nội
10
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
phú, bao gồm các loại hội xuân như hội xuống đồng, hội “sải sán”, hội mùa
thu mừng được mùa ăn cơm mới và hàng loạt các sinh hoạt văn hóa dân
gian khác góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa truyền thống các dân
tộc ở Mù Cang Chải.
1.2. Đôi nét về lịch sử người H'Mông.
Người Hmông là một trong các dân tộc thiểu số có dân số tương đối
đông ở miền Bắc nước ta với trên 55 vạn người (số liệu Tổng điều tra dân
số năm 1999). Người Hmông trước kia còn được gọi là người Mèo, họ sinh
sống ở những vùng núi cao trên dưới 1000m so với mặt nước biển, với
nhiệt độ trung bình trên 20
0
C, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1800-
2000mm, thuộc các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La,
Lai Châu, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Riêng
ở vùng Tây Bắc, người Hmông cư trú tập trung tại các huyện Tủa Chùa,
Tuần Giáo, Điện Biên (tỉnh Lai Châu), Mù Cang Chải, Trạm Tấu (Yên
Bái), Mộc Châu, Thuận Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình).
Người Hmông gồm nhiều nhóm địa phương: nhóm Hmông Đơ
(Hmông Trắng), Hmông Đu (Hmông Đen), Hmông Lềnh (Hmông Hoa),
Hmông Sư (Hmông Đỏ), Hmông Sua (Hmông Xanh), Na Miẻo. Sự phân biệt
này một phần dựa trên sự khác nhau về trang phục và ngôn ngữ. Giữa các
nhóm có sự phân biệt về một số bộ phận trên y phục (kích thước, mầu sắc, các
mô típ trang trí hoa văn ) nhưng nhìn chung trang phục người Hmông là
thống nhất và phân biệt hẳn về mặt tộc người với các dân tộc khác.
Về nguồn gốc người Hmông hiện còn nhiều ý kiến khác nhau.
Trong cuốn “Lịch sử người Mèo, học giả Savina cho rằng người Hmông

xưa kia cư trú ở vùng Xibêri - nơi quanh năm tuyết phủ, có 6 tháng ngày và
6 tháng đêm. Vào triều Hoàng đế (Trung Quốc) - 2500 trước công nguyên,
họ chuyển tới lưu vực sông Hoàng Hà. Về sau họ bị người Hán đàn áp nên
phải di cư về phương Nam [27;39]
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
11
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Có ý kiến lại cho rằng người H'mông là một trong những tộc người
nằm trong khối Bách Việt, có chung gốc gác với người Dao thuộc ngữ hệ
Nam Á nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao. Tổ tiên của họ đã sớm biết nghề
trồng lúa nước ở vùng giữa hồ Bành Lãi và Động Đình thuộc Nam Trung
Quốc. Đến thế kỷ VIII sau công nguyên 2 tộc H'mông và Dao mới tách ra.
Từ thế kỷ IX - XVI, người Hmông di cư về phía Tây Nam tập trung ở Quý
Châu sau đó mới di cư vào Việt Nam [5;27].
Người H'mông cho rằng, tổ tiên họ xưa kia vẫn cư trú ở Trung
Quốc, sau bị phong kiến Mãn Thanh chèn ép, nên họ phải di cư sang Việt
Nam. Nhiều tài liệu và sách của Trung Quốc cũng nói đến sự kiện đầy bi
thảm của người H'mông ở Trung Quốc trong thời kì bị phong kiến Mãn
Thanh đàn áp. Vào nửa cuối thế kỷ XVII, nhiều cuộc nổi dậy của người
H'mông và các tộc người thiểu số khác đã liên tiếp nổ ra chống lại phong
kiến Mãn Thanh. Các cuộc khởi nghĩa này kéo dài hơn 100 năm nhưng
cuối cùng đều thất bại và bị triều đình Mãn Thanh đàn áp đẫm máu. Đến
năm 1849, sau thất bại của phong trào Thái Bình Thiên Quốc, hầu hết đất
đai của người Hmông bị tước đoạt, nhiều làng mạc bị triệt hạ, cư dân bị tàn
sát, xua đuổi tan tác. Từ đó, họ đã có nhiều đợt thiên di xuống vùng Nam
và Tây Nam lục địa Trung Hoa để lánh nạn. Chính trong thời kỳ này nhiều
nhóm Hmông đã ồ ạt nhập Việt; theo các tài liệu điền dã dân tộc học thì
người H'mông mới đến Việt Nam khoảng trên dưới 200 năm.

1.3. Sự phân bố của người H'Mông ở huyện Mù Cang Chải, tỉnh
Yên Bái.
Những tư liệu điền dã dân tộc học cho biết, người H'mông từ Trung
Quốc sang Việt Nam qua Lào Cai rồi vào Tây Bắc theo 2 hướng:
Một hướng từ Lao Xả Phình (tỉnh Lào Cai) qua Giào San (huyện
Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) đến Tủa Chùa, Tuần Giáo rồi về Long Hẹ,
Điện Biên
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
12
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Một hướng khác từ vùng núi phía Nam Lào Cai đến Mù Cang Chải,
Trạm Tấu, Bắc Yên rồi sang vùng núi Mộc Châu. Một số nhóm từ Mù
Cang Chải chuyển thẳng tới Tủa Chùa, Thuận Châu, Điện Biên. Những
chặng đường di cư của người H'mông vào Tây Bắc còn được phản ánh
trong những bài cúng đưa hồn người chết về với tổ tiên.
So với các khu vực khác, huyện Mù Cang Chải là nơi người
H'mông có tỷ lệ cao nhất so với các dân tộc khác (chiếm tới 95% dân số
của cả huyện. Trong khi các huyện khác nằm trên dãy Hoàng Liên Sơn như
Trạm Tấu chỉ chiếm 78,5%, Bắc Hà 63,2%, Sa Pa 50,22%, Mường Khương
32,86%, Bát Xát 28,23%, Than Uyên 10,65% [19;23]. Mù Cang Chải chỉ
có 13 xã thì trong đó 9 xã người H'mông chiếm trên 90% dân số, 4 xã
chiếm từ 61-90% dân số toàn xã. Đặc trưng cư trú ở đây là có sự xen kẽ
giữa dân tộc H'mông với các dân tộc khác như Kháng, Tày, Kinh, Dao,…
Là cư dân tới sau nên họ cư trú chủ yếu trên các triền núi cao trong tình
trạng phân tán. Trong từng xã có thể có sự cư trú xen kẽ giữa họ với các
dân tộc khác nhưng trong từng bản lại không có hiện tượng cư trú hỗn hợp
giữa người H'mông với các dân tộc khác. Ví dụ ở xã Kim Nọi có 7 bản thì
6 bản hoàn toàn người H'mông, 1 bản hoàn toàn người Thái; xã Cao Phạ có

1 bản người Thái và 6 bản người H'mông. Mật độ cư dân ở Mù Cang Chải
trong những năm vừa qua cũng không ngừng tăng lên.
Người H'mông ở đây bao gồm 4 nhóm người H'mông: H'mông
Lềnh (H'mông Hoa), H'mông Sư (H'mông Đỏ), H'mông Đu (H'mông Đen),
H'mông Đơ (H'mông Trắng). Trong đó nhóm H'mông Hoa đông nhất
chiếm khoảng 60% dân số, sống ở các xã Cao Phạ, Nậm Khắt, Nậm Có,
Púng Luông, La Pán Tẩn, Dế Xu Phình, Chế Cu Nha, Kim Nọi; nhóm
H'mông Đỏ chiếm 30% sống xen kẽ trong các bản làng với nhóm Hmông
Hoa ở các xã Kim Nọi, Mồ Dề, Chế Tạo, Khao Mang, Lao Chải; nhóm
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
13
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
H'mông Trắng có số lượng ít nhất sống ở các bản Trống Là, Sáng Nhù,
Háng Đề Chu, Trống Trở, Páo Láu, Háng Áng thuộc xã Hổ Bốn.
2. Một số đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội.
2.1. Kinh tế.
Từ khi đến sinh cơ lập nghiệp ở Mù Cang Chải, đồng bào H'mông đã
trải qua một quá trình lao động lâu dài để không ngừng biến tài nguyên
thiên nhiên thành những của cải vật chất cần thiết đáp ứng những nhu cầu
của cuộc sống.
Mặc dù có một ít ruộng nước nhưng nguồn sống chính của người
Hmông vẫn là nương rẫy. Căn cứ vào quá trình sử dụng có thể phân chia
nương làm hai loại: nương định canh và nương du canh, trong đó nương du
canh là chủ yếu. Trên ruộng nương, ngoài ngô, lúa là cây trồng chính còn
có mạch ba góc, ý dĩ, khoai, rau, lạc, đậu, vừng, lanh Các loại cây đặc sản
và cây ăn quả cũng khá phát triển.
Do xu hướng thâm canh năng suất và định canh định cư, từ lâu,
người H'mông ở Mù Cang Chải đã chú ý khai khẩn ruộng bậc thang trên

các sườn núi và trong những năm qua do công tác thủy lợi được tăng
cường, diện tích ruộng bậc thang không ngừng được phát triển. Trong
những năm gần đây, do có sự chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng và thời vụ,
từ chỗ chỉ sản xuất một vụ trong năm đã tăng lên 3 vụ, đó là vụ đông xuân,
vụ mùa và vụ thu đông. Năng suất lúa thường đạt 15-20 tạ/ha một vụ.
Vì sản xuất trên ruộng và nương thổ canh chưa đảm bảo được
những nhu cầu sinh hoạt, nên đồng bào cũng phải làm nương du canh, chỉ
trồng được 2-3 vụ lại bỏ. Việc chọn đất thường được tiến hành trước Tết
theo những kinh nghiệm cổ truyền và đất đã được lựa chọn đánh dấu quyền
chiếm hữu quy ước chung. Sau đó nương được phát vào tháng chạp hay
tháng giêng, hai và đốt, dọn vào tháng ba, chuẩn bị cho trồng trọt.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
14
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Trên nương lúa thường trồng xen các loại dưa, bí và các loại rau
đậu. Việc xen canh đã trở thành tập quán lâu đời, thể hiện khả năng chịu
của nông nghiệp H'mông trong những điều kiện tự nhiên cụ thể. Xung
quanh nương được bao bọc bởi những luống ý dĩ. Sau khi thu hoạch vụ hè
thu, người H'mông còn trồng đậu răng ngựa, mạch ba góc vụ đông. Các cây
trồng đều được làm cỏ 2-3 lượt. Năng suất lúa, ngô nương có thể đạt từ 1,2
tấn đến 1,5 tấn/ha; rau, đậu cũng thu hoạch được số lượng đáng kể. Các
loại củ (mài, khoai sọ ) cũng được trồng nhiều.
Canh tác nương rẫy phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, năng suất
cây trồng không ổn định và mỗi mảnh nương chỉ làm được vài năm. Ở một
số nơi đồng bào đã làm nương theo chế độ luân khoảnh kết hợp với bảo vệ
rừng, trồng rừng. Cùng với việc tạo ruộng bậc thang, cách sử dụng đất như
vậy cho phép đồng bào có thể định cư tốt.
Trong các loại cây công nghiệp, lanh là loại cây trồng phổ biến,

chiếm một diện tích khá lớn. Vải lanh dùng làm váy, may quần, áo, khâu bao
đựng bột, làm mặt chăn, địu Theo quan niệm của đồng bào, người chết
phải có áo ngoài bằng vải lanh thì mới được về đoàn tụ với tổ tiên. mỗi
người thiếu nữ từ 15-16 tuổi đến các bà cụ 60 tuổi đều có đám lanh riêng cho
mình. Cây lanh sau khi chặt vào khoảng tháng 6, được phơi khô tước lấy vỏ
và từ vỏ lanh làm thành sợi. Việc này đòi hỏi nhiều thời gian cho nên người
phụ nữ lúc nào cũng có vỏ lanh quanh mình, tranh thủ tước sợi trong lúc
nghỉ lao động sản xuất, lúc đi dường hay họp chợ, để có nguyên liệu cho
công việc dệt vải thường được tiến hành vào tháng 11-12. Mỗi năm, một
người có thể làm được 4-5 tấm vải, mỗi tấm dài 20 vuông khổ nhỏ.
Cây thuốc phiện trước đây được trồng nhiều đem lại nguồn thu
nhập quan trọng; nay không được trồng nữa đã gây ra những xáo trộn trong
đời sống kinh tế của người H'mông.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
15
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Chăn nuôi cũng là ngành kinh tế bổ trợ quan trọng trong cơ cấu hệ
thống kinh tế nông nghiệp H'mông. Các loại gia súc, gia cầm chính thường
được các gia đình nuôi gồm có trâu, ngựa, lợn, gà Mục đích chính của
kinh tế chăn nuôi là nhằm thỏa mãn các nhu cầu về sức kéo, vận chuyển;
đôi khi các sản phẩm của kinh tế chăn nuôi còn được dùng vào các mục
đích tôn giáo, tín ngưỡng (lễ tết, ma chay ) hay trong các dịp sinh hoạt
cộng đồng khác (như cưới hỏi, về nhà mới ). Xưa kia đàn gia súc còn là
một tiêu chuẩn đánh giá giàu nghèo, nên các gia đình người H'mông đều
mong muốn có đàn gia súc, gia cầm đông đúc.
Kinh tế tự nhiên (săn bắt, đánh cá, hái lượm) cũng có vị trí khá
quan trọng trong đời sống thường nhật của người H'mông. Họ thường thu
hái củ gấu, đẳng sâm, hà thủ ô, hoàng liên, cánh kiến, chè , những thứ có

giá trị hàng hóa cao để trao đổi và tìm kiếm các loại cây, củ, quả có giá
trị dinh dưỡng để làm phong phú thêm các bữa ăn hàng ngày. Ngoài mục
đích tìm kiếm thêm nguồn thực phẩm, người H'mông đi săn còn nhằm
mục đích bảo vệ mùa màng. Đối tượng săn là các loại thú như: lợn rừng,
hổ, gấu, cầy, chồn, khỉ, gà rừng Vũ khí cho việc săn bắt là súng kíp, nỏ
và các loại cạm bẫy
Sản xuất thủ công nghiệp gồm các nghề: đan lát mây tre, làm đồ gỗ,
dệt vải, làm giấy bản, làm đồ trang sức, rèn nông cụ, vũ khí, làm nhang,
nấu rượu Về cơ bản tiểu thủ công nghiệp hộ gia đình là một bộ phận
không thể thiếu được trong cơ cấu nông nghiệp H'mông, nhưng ở đây đã
xuất hiện một lớp thợ chuyên nghiệp trong một vài nghề như rèn đúc, làm
bạc. Sản phẩm của thủ công nghiệp chủ yếu thỏa mãn những nhu cầu của
sản xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nhìn chung, trình
độ kỹ thuật của những người thợ thủ công nghiệp dư ở trình độ khá cao, có
những nghề họ đã đạt độ tinh xảo như nghề làm bạc, làm mộc và đặc biệt là
nghệ thuật trang trí hoa văn trên vải.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
16
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
1.2. Các dạng thức văn hóa cơ bản.
Trong phần này tôi chỉ xin giới thiệu sơ lược về một số dạng thức
văn hóa liên quan đến sinh hoạt vật chất, tổ chức xã hội. Riêng về đời sống
tinh thần là nội dung chính của luận văn nên tôi sẽ không giới thiệu ở đây.
Ăn, uống: Nguồn lương thực chủ yếu là ngô, lúa, tùy từng nơi mà
đồng bào coi trọng ngô hoặc lúa. Người H'mông ăn ngày hai bữa trưa và
tối. Vào ngày mùa ăn ba bữa. Ngô thường được xay thành bột làm “mèn
mén”. Với gạo, thường ngày họ ăn gạo tẻ, gạo nếp để dành giã làm bánh ăn
trong các dịp lễ, tết. Các món ăn chủ yếu được chế biến theo cách thức luộc

hoặc xào. Các loại thị nếu có nhiều ăn tươi không hết họ thường để dành
bằng cách sấy khô trên gác bếp. Rau xanh, đậu đỗ, bầu bí cũng thường
được xào hoặc nấu canh. Cơm và rau được xúc ăn bằng thìa. Thông thường
vào các dịp tết hoặc khi có khách bữa cơm bao giờ cũng sang hơn ngày
thường. Khi có khách, phụ nữ không được ngồi ăn chung với mâm khách.
Khi bầy mâm, bát thức ăn chung và bát muối ớt được đặt ở giữa; nhiều
người cho rằng đây chính là biểu hiện của tính cộng đồng vốn thể hiện rất
rõ ở các dân tộc phương Đông. Người H'mông rất thích uống rượu; chủ yếu
là rượu ngô được chưng cất. Khi uống dùng bát hoặc chén. Xưa kia, người
H'mông hút nhiều thuốc phiện; hầu như gia đình nào cũng có từ một đến
vài ba bàn đèn. Cả đàn ông, đàn bà, người già, trung niên đều hút thuốc
phiện. Đồng bào thường hút trước lúc đi làm, sau khi ăn trưa, sau bữa ăn
tối. Trong các dịp đám ma, đám cưới đều có hút thuốc phiện. Một số
người hút thuốc lào đồng bào tự trồng, tự thái phơi để hút.
Trang phục: Người H'Mông có một đặc biệt là xe sợi lanh dệt vải.
Lanh trồng vụ xuân đến tháng 7 – 8 thu hoạch đập bỏ lõi, vỏ phơi khô tước
nhỏ xe sợi dệt thành vải. Chỉ trừ lúc ở ngoài ruộng, trên nương, lúc ngủ còn
thì ở nhà, đi đường, đi chợ phụ nữ H'Mông lúc nào cũng có bó lanh vắt vẻo
trên vai, luôn tay tước lanh xe sợi.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
17
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Trang phục của phụ nữ H'Mông rất sặc sỡ, đa dạng, gồm: váy, áo xẻ
ngực có yếm lưng, tấm xiêm che trước bụng, thắt lưng, khăn cuốn đầu to
xù, xà cạp quấn hai bụng chân. Váy của phụ nữ H'Mông hình nón cụt, xếp
nếp xòe rộng. Tuy vậy, mỗi nhóm H'Mông khác nhau váy áo cũng có
những nét khác nhau. Váy của người H'Mông Trắng để nguyên vải sợi lanh
se, có thêu chỉ màu sặc sỡ quanh gấu; áo thì xẻ ngực có thêu hoa văn ở

cánh tay và yếm lưng. Váy của người H'Mông hoa màu chàm có thêu hoặc
in hoa ở quanh gấu váy, còn áo thì xẻ nách, trên vai và ngực có nẹp thêm
vài mẫu thêu hoa văn, thường là hình con ốc. Váy của nữ H'Mông đen cũng
như phụ nữ H'Mông trắng và H'Mông hoa nhưng ngắn hơn, màu chàm, hoa
văn màu trắng, còn áo thì giống áo của phụ nữ H'Mông trắng nhưng thêu
hoa ở cánh tay và cổ áo. Váy của phụ nữ H'Mông xanh may bằng vải chàm,
sát gấu có thêu hoa văn hình chữ thập trong các hình vuông, nhưng váy
may hình ống, khi mặc mới xếp nếp thắt lưng ngoài cạp; còn áo thì mở
chếch ngực về phía bên trái, cài một khuy, cánh tay và cổ áo đều thêu hoa
văn, gấu áo cũng khâu đề ba bốn lớp vải màu, áo xẻ tà không khâu mà buộc
dây giữ hai tà.
Trang phục của đàn ông H'Mông giống như đàn ông Nùng: quần
dài, đũng chân què, cạp lá tọa, áo ngắn ống rộng cổ đứng mổ bụng cài
khuy, quần áo đều màu chàm.
Ở: Người Hmông cư trú thành các làng (jiao). Làng được cấu trúc
theo lối mật tập: nhà cửa bố trí rải rác ven các sườn đồi. Nhà ở của người
H'mông ở Yên Bái là nhà trệt, nhà thường gồm 3 gian 2 chái, gian giữa đặt
bàn thờ “ma nhà”, hai bên là bếp và buồng ngủ, buồng ngủ thường không
bố trí ngang hàng cùng với bàn thờ. Bàn thờ đơn giản chỉ là một ống
hương, trên dán giấy bản cắm lông gà. Mỗi nhà đều được mở từ 2 đến 3
cửa. Mọi người trong nhà, nhất là phụ nữ thường đi lại hàng ngày chủ yếu
qua cửa phụ. Nhà ở cũng là nơi để lương thực. Ngô xếp trên bếp, một số
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
18
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
nơi làm kho cạnh nhà. Các chuồng gia súc nằm cách nhà không xa. Để
chống gió, khí hậu lạnh, sương mù ở vùng cao, nhà ở của họ thường có đặc
tính thấp, vững chắc, kín đáo. Nhà của người giàu thường khá rộng, tường

trình, cột gỗ kê đá tảng đẽo hình đèn lồng hay hình quả bí, mái lợp ngói,
sàn gác lát ván. Nhà nghèo phổ biến là nhà bưng ván hay vách nứa, mái
tranh. Ngoài thờ “ma nhà” người Hmông còn thờ “cột ma nhà”. Cột này
nằm ở vì kèo thứ hai ngăn giữa hai đầu hồi bên phải. Người Hmông quan
niệm “cột ma” là cột linh thiêng, người ta kiêng không được ngồi dựa vào
cột, không treo lên cột bất cứ thứ gì. Khi sinh con, nếu là con trai, nhau đẻ
được chôn ở dưới cột này (nhau của trẻ em gái chôn dưới gầm giường ở
vách gian giữa nơi đặt bàn thờ). Khi dựng nhà, khâu quan trọng nhất là việc
dựng cột ma. Mùa làm nhà của người H'mông thường từ tháng 11 đến
tháng giêng âm lịch. Việc san nền, dựng cột thường phải chọn ngày giờ tốt,
theo quan niệm của đồng bào. Trước khi dựng cột, chủ nhà mổ lợn, gà để
cúng cột ma. Người Hmông cũng cúng “ma cửa” khi trong nhà có người
ốm đau, dịch bệnh. Khi có người đẻ, chủ nhà cầm cành lá xanh đầu hồi nhà
báo hiệu khách lạ không nên vào vì sợ mang rủi ro đến cho đứa trẻ.
Hôn nhân, gia đình: Người H'mông quan niệm rằng việc dựng vợ
gả chồng trước hết là để có con cái nối dõi tông đường, đồng thời nâng cao
uy tín dòng họ, tăng lực lượng lao động cho gia đình và có chỗ nương tựa
lúc tuổi già sức yếu. Nhìn chung, nam nữ H'mông lấy vợ lấy chồng tương
đối sớm. Trước kia không thiếu trường hợp con trai 12-13 tuổi đã lấy vợ;
người vợ thường nhiều hơn chồng 5-7 tuổi. tuổi kết hôn hiện nay thường là
17-18 đối với con trai, 15-16 đối với con gái. Ở người H'mông con gái đôi
mươi mà chưa lấy được chồng đã bị coi là đã “quá lứa”, khó tìm được
người bạn vừa ý. Gia đình người H'mông là gia đình một vợ một chồng bền
vững, cư trú bên chồng. Ngoại hôn dòng họ là nguyên tắc cơ bản trong hôn
nhân; hiện tượng nội hôn tộc người không bị tập quán hạn chế song trên
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
19
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung

thực tế người H'mông rất ít quan hệ hôn nhân với các tộc khác. Những
người cùng dòng họ dù xa đến mấy đời nếu đã “cùng ma” cũng không được
lấy nhau. Trước kia, ở người H'mông cũng tồn tại hình thức hôn nhân chị
dâu em chồng, hôn nhân con em con cậu. Tuy nhiên, hiện nay hình thức
này không còn phổ biến.
Tiêu chuẩn chọn vợ của con trai H'mông là có đạo đức, sức khỏe,
lao động chăm chỉ, thủy chung với chồng, có hiếu với cha mẹ, nhất là biết
dệt, thêu thùa váy áo đẹp. Những cô gái lười lao động, vụng về bếp núc,
không biết thêu thùa thường không lọt vào tầm nhìn của các chàng trai. Ở
người H'mông, sắc đẹp không phải là tiêu chuẩn chính để người ta chú ý.
Ngoài ra, khi tìm vợ cho con cái, cha mẹ cũng chú ý đến “môn đăng hộ
đối”, hoàn cảnh kinh tế, uy tín dòng họ nhà gái. Ngược lại khi gả chồng
cho con gái, cha mẹ cô gái cũng đòi hỏi ở chàng rể về sức khỏe, siêng lao
động, thông thạo việc nương rẫy
Xưa ở người H'mông còn tồn tại tục “cướp vợ”, một số nơi có tục
“kéo vợ”, tức người con trai tổ chức kéo người con gái về nhà mình trước
khi cưới.
Gia đình người H'mông là loại hình gia đình nhỏ phụ quyền. Quy
mô mỗi gia đình khoảng 6-8 người. Nhiều gia đình gồm 2 hay 3 thế hệ cha-
con- cháu sống chung trong một mái nhà, có kinh tế chung. Cá biệt có
những gia đình “tứ đại đồng đường”. Loại hình gia đình lớn (gồm bố mẹ và
1-2 cặp vợ chồng anh em sống chung) còn tồn tại ở một số nơi nhưng
không phổ biến. Những trường hợp này là do em trai chưa đủ điều kiện để
ra riêng. Trong gia đình, tính phụ quyền thể hiện tập trung nhất ở người
cha; ông ta có quyền quyết định tất cả công việc trong nhà. Thông thường,
ở người H'mông, con cái và vợ luôn phải phục tùng, nghe lời của người
cha, người chồng. Người cha quyết định trong việc chi tiêu mua sắm, bán
chác và điều hành phân công lao động hàng ngày trong nhà. Khi có việc
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội

20
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
hệ trọng như tang ma, cưới xin tuy có bàn bạc với vợ nhưng quyền quyết
định chính vẫn thuộc về người chồng.
Tính phụ quyền còn thể hiện trong ngôi nhà người H'mông, ở tục lệ,
chỗ gần nơi thờ “ma nhà” khi ngồi ăn, duy nhất có chủ nhà mới được ngồi
quay lưng vào; vợ, con cái không bao giờ được ngồi vào vị trí đó. Con cái
tính theo dòng cha. Tài sản của gia đình như: ruộng, nương, các nông cụ,
trâu, bò, ngựa, tiền bạc khi đem trao đổi, cầm cố, bán chác, ý kiến của chủ
nhà là quyết định. Tài sản trong gia đình chỉ chia cho con trai, không chia
cho con gái. Thứ của hồi môn duy nhất của người con gái được mang về
nhà chồng là váy áo và đồ trang sức.
Việc phân công lao động trong gia đình thường theo giới và tùy
theo độ tuổi từng thành viên. Con trai lo việc nặng nhọc hơn: cày, bừa, chặt
gỗ, đi săn, rèn, mộc con gái: bếp núc, chăn gia súc, lấy củi, hái rau Khi
đến tuổi trưởng thành, con gái được tự do tìm hiểu, yêu đương. Mỗi thành
viên trong gia đình ngoài việc phải tuân thủ theo luật tục của dòng họ và
cộng đồng còn phải khuôn mình trong gia pháp mà người đại diện cao nhất
chính là người chồng, người cha - chủ gia đình.
Dòng họ: Trong xã hội truyền thống của người H'mông có tồn tại
khá rõ một loại hình tổ chức xã hội dựa trên quan hệ huyết thống đó là
dòng họ (xênh). Trước đây hầu như mỗi vùng hay trong làng đều có một
dòng họ vừa đông đúc vừa có thế lực nhất. Ngày nay hầu hết các họ người
H'mông đếu sống xen kẽ với nhau và một làng thường có ít nhất là hai họ.
Có hai phạm trù cố kết trong dòng họ: ở phạm trù rộng gồm tất cả
những người cùng họ cư trú ở khắp nơi. Người H'mông hay nhận nhau để
biết cùng dòng máu hay không, dấu hiệu nhận họ là cùng họ và cùng ma.
Những người chỉ cùng họ “thùng xênh” mà không cùng ma “thùng đang”
thì không chết ở nhà nhau được, mặc dù có những kiêng kỵ như nhau.

Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
21
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Ở phạm vi hẹp, một làng người H'mông thường có vài dòng họ sinh
sống, trong đó mỗi dòng họ được xem như một đơn vị cộng đồng huyết
thống theo hệ cha. Đây là những người “thùng xênh, thùng đang” (cùng họ
cùng ma) được gắn bó chặt chẽ với nhau bởi cùng phả hệ do một ông tổ
sinh ra từ 3-4 đời.
Ở người H'mông, khi muốn nhận anh em cùng tổ tiên, người ta hỏi
nhau kỹ lưỡng về các điều kiêng kỵ, cách thức cúng ma, đặc biệt là nghi
thức làm ma cho người chết như ma khô, ma bò Mỗi họ đều kiêng ăn một
số con vật hoặc bộ phận con vật như: Họ Giàng kiêng ăn tim, họ Lý kiêng
lá lách, họ Thào kiêng dưa chuột Cách cúng ma thường khác nhau về số
lượng bát cúng, cách bầy bát, chia thịt, chỗ cúng: họ Vàng cúng 33 bát, họ
Sùng bầy 13 bát, họ Mùa 19 bát. Mỗi họ có tên gọi riêng liên quan đến một
số con vật, loại cây, đồ vật, màu sắc: Sùng (gấu), Mã (ngựa), Giàng (dê),
Hờ (khỉ), Cư (trống), Thào (đào), Lù (xanh) [1;67]. Các họ người Hmông
có rất nhiều: Thào, Giàng, Vàng, Hảng, Vừ, Lẩu, Lỳ, Sổng, Hờ, Và, Cư,
Mã, Phùng, Mùa Những gia đình cùng họ thường có xu thế cư trú cạnh
nhau. Tuy nhiên, việc cư trú xen kẽ giữa các họ đến nay là phổ biến, vì thế
làng mang tính chất láng giềng nổi trội. Trong xã hội truyền thống dòng họ
thống nhất về kinh tế biểu hiện về quyền sở hữu, chiếm hữu đất đai. Sự
thống nhất về tinh thần của dòng họ biểu hiện ở lễ ma bò “nhu dạ”. Tất cả
các thành viên dòng họ phải có mặt trong lễ này kể cả phụ nữ đã đi lấy
chồng. Lễ do trưởng họ chủ trì. Đây là lễ cúng báo hiếu ông bà, cha mẹ của
con cháu. Khi cúng bày 3 bát, cho tổ tiên, cha mẹ, chú bác đã khuất. Sự gắn
kết về tinh thần còn thể hiện ở lễ “tù xu”-lễ đuổi tà ma, cầu yên cho dòng
họ. Mỗi họ tổ chức vào những ngày nhất định trong năm, luân phiên từ gia

đình này sang gia đình khác trong dòng họ.
Đứng đầu dòng họ là trưởng họ gọi là “hố pâu” (gốc), “ua thâu” (cái
đầu). Trưởng họ do con trai trưởng của ngành trưởng giữ chức và cha
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
22
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
truyền con nối. Trưởng họ là người am hiểu phong tục dòng họ, biết cúng,
lắm lý lẽ và có uy tín. Một số nơi trưởng họ được xem như thầy cãi lý
“tráng kê” cho dòng họ. Trưởng họ là người có phẩm chất trung thực, kinh
nghiệm tổ chức lao động, được các dòng họ khác kính nể. Tiếng nói của
ông có trọng lượng, ông ta có nhiệm vụ duy trì sinh hoạt trong dòng họ,
đảm đang việc thờ cúng tổ tiên, bàn bạc cưới gả, triệu tập các cuộc họp khi
họ có việc hệ trọng (tang ma, cưới xin, làm nhà mới, thừa kế, xích mích ),
giải quyết bất hòa giữa dòng họ mình với dòng họ khác, dàn xếp tranh chấp
đất đai, tài sản, xử lý các vi phạm luật tục, quyết định trong việc định cư
hay di chuyển của cả dòng họ. Nói chung, người trưởng họ của người
Hmông có vai trò rất quan trọng, mức độ uy tín của trưởng họ khác nhau.
Những bậc cha, chú là người giám sát việc làm của trưởng họ. Nếu ông ta
không hoàn thành nhiệm vụ thì sẽ bị bãi miễn. Ý kiến của trưởng họ có
trọng lượng nhưng không thể đi lại quyền lợi chung của cả dòng họ.
Trưởng họ không được hưởng quyền lợi gì ngoài sự kính trọng của các
thành viên. Ngoài trưởng họ còn có bà cô “nhẵng” (chị em gái của bố) cũng
là người có vai trò quan trọng. Tuy đã thành ma nhà người khác nhưng bà
ta vẫn có trách nhiệm với dòng họ mình, góp ý kiến trong cưới gả cháu gái,
quyết định đồ sính lễ, thách cưới. Khi bố mẹ cháu mất, bà có thể thay mặt
gia đình bàn bạc với các bậc cha chú trong dòng họ để làm ma. Nếu nghi
thức làm ma muốn thay đổi chút ít phải được sự đồng ý của bà cô.
Như vậy, người H'Mông ở Mù Cang Chải có nền kinh tế nương rẫy,

du canh du cư, tự cung tự cấp, kinh tế mang tính chất biệt lập ở miền núi
cao. Xã hội có sự phân hóa giai cấp, thường xuyên đấu tranh với âm mưu
của chủ nghĩa Đại Hán, nên ý thức cộng đồng, nhất là cộng đồng dòng họ,
dân tộc luôn được đề cao… Những đặc điểm này ảnh hưởng và chi phối
đến đời sống văn hóa tinh thần của người H'Mông ở đây.
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
23
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Chương 2
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN
TỘC HMÔNG Ở HUYỆN MÙ CANG CHẢI, TỈNH YÊN BÁI
2.1. Tín ngưỡng tôn giáo
Trong xã hội truyền thống, tín ngưỡng tôn giáo là một trong
những thành tố quan trọng của văn hoá tinh thần, nó tác động mạnh mẽ
đến nghệ thuật và văn học dân gian. Tín ngưỡng, tôn giáo của người
H'Mông ở Mù Cang Chải có nhiều nét tương đồng với các tín ngưỡng,
tôn giáo của các tộc người khác. Sự khác biệt thường bộc lộ ở sự phát
triển một số loại hình hoặc ít chịu ảnh hưởng của tam giáo như một số
tộc người láng giềng như Dao, Tày, Nùng. Trong các hình thức tôn giáo
truyền thống H'Mông, việc thờ cúng tổ tiên, đặc biệt là Sa man giáo
tương đối phát triển. Nhưng những hình thức tôn giáo sơ khai như vật
linh, tô tem giáo, các loại ma thuật… Vẫn tồn tại ở dạng tàn dư và đóng
vai trò quan trọng. Tôn giáo tín ngưỡng đã hoà quyện với các tổ chức
hội hè tạo nên những sắc thái, sự phong phú trong đời sống văn hoá
tinh thần H'Mông.
2.1.1. Thờ cúng tổ tiên, ma nhà và thần bản mệnh cộng đồng “giao”
a. Thờ cúng tổ tiên và ma nhà.
Thờ cúng tổ tiên là một hình thức tôn giáo quan trọng của người

H'Mông. Sự thờ cúng tổ tiên thể hiện trong quan niệm, nghi lễ và các
điều kiện kiêng kị, huyền thoại về tổ tiên.
Thờ cúng tổ tiên “đó là thờ cũng ông bà, cha mẹ và những người
đồng tộc đã chết và trước hết là các hình thức gia đình - thị tộc của sự
thờ cúng đó, tức là lòng tin rằng tổ tiên đã chết, che chở cho con cháu
đang sống và những nghi lễ cầu xin cho các thành viên thị tộc hay gia
đình tiến hành để nhằm thờ phụng tổ tiên. [28; 312]
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
24
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Kim
Dung
Người Thái quan niệm tổ tiên chỉ là thế hệ cha của chủ nhà.
Người Tày quan niệm tổ tiên gồm 4 đời (cha, ông, cụ, kỵ). Nhưng
người H'Mông quan niệm tổ tiên là những người đã chết trong 3 đời trở
lại (cha, ông, cụ). Quan niệm này thể hiện trong các bài khấn mời tổ
tiên (cúng năm mới, cúng ma trâu…) chủ nhà hoặc thầy cúng đều gọi
tên tuổi những người thuộc 3 thế hệ đã khuất trở về ăn tết với con cháu,
phù hộ cho con cháu làm ăn. Trong một bản người H'Mông thường có
vài dòng họ, mỗi dòng họ có một ông tổ cụ thể đã chết mà người già ở
thế hệ cao nhất trong phả hệ còn nhớ được.
Các thành viên trong dòng họ gắn bó chặt chẽ với nhau bởi cùng
một phả hệ dòng tam do một ông tổ sinh ra. Thông thường nếu tính từ
thế hệ con lên đến ông tổ là 3 đời. Trong dịp làm ma bò (ma trâu) “nhu
đa” tất cả các thành viên trong dòng họ phải tới dự. Đồ cúng bày theo
đúng quy cách của từng dòng họ, theo số lượng cụ thể của mỗi dòng họ,
nhưng thông thường bát cúng thứ nhất mời tổ tiên, bát cúng thứ hai mòi
cha mẹ đã khuất, bát cúng thứ ba mời những người đã khuất cùng thế
hệ cha mẹ, bát cúng thứ tư trở đi mời những người trong họ hàng, mời
ma nhà, ma rừng, ma suối, ma núi… Trong lễ cúng, ông trưởng họ

thường kể về sự nghiệp của tổ tiên, các quy ước kiêng kị của dòng họ.
Mỗi lần cúng như vậy, hình ảnh của tổ tiên lại được khắc sâu vào trong
tâm trí của mỗi thành viên.
Khác với người Việt, người Tày, bàn thờ tổ tiên thường đặt ở vị
trí gian giữa, nhiều dòng họ H'Mông không lập bàn thờ tổ tiên riêng.
Nơi thờ cúng tổ tiên chỉ là một miếng giấy hình chữ nhật kích thước 20
x 30cm gần nơi thờ “xử ca” ở trên bức vách hậu gian giữa. Một số dòng
họ như họ Vừ, họ Lầu, họ Và…. Ở xã Nậm Khắt có lập bàn thờ tổ tiên.
Bàn thờ được đóng vào chính giữa gian cúng, cách mặt đất khoảng
1,2m đến 1,5m. Trang trí trên bàn thờ chỉ là mảnh giấy bản và cắm 3
Líp: K55B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
25

×