Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận thời đại Hùng Vương này dưới nhiều dạng khác nhau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.91 KB, 19 trang )

Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
A - PHẦN MỞ ĐẦU
C. Mac đã từng nói rằng: “Lịch sử không chỉ là sự tích lũy của cải vật chất và tinh
thần do các thế hệ sau tạo ra mà còn là sự tích lũy những đức tính ưu việt và sức mạnh
lớn lao của dân tộc” [11;470].
Việt Nam - đất nước có nền văn minh lâu đời với hàng năm lịch sử. Từ thời đại xa
xăm nào đó, cái lâu đài lịch sử văn hoá ấy đã được khởi công xây dựng. Chính tổ tiên ta từ
thời đó, bằng những viờn đỏ đẽo thô sơ, bằng bàn tay lao động sáng tạo tài tình, bằng đấu
tranh quật cường gian khổ đã đặt nền móng xây dựng lờn cỏi lâu đài đó. Càng đi sâu vào,
ta càng bị thuyết phục trước một sự thật “ ngay từ những bước chập chững đầu tiên cho
lịch sử, những người lao động Việt Nam đã có sức sống dồi dào và khả năng sáng tạo xuất
sắc” [12; 5]. Những người lao động Việt Nam, sau hàng chục vạn năm, gian khổ lao động
và sáng tạo, từ những công cụ đá thô sơ đó tiến đến sự phát minh ra kỹ thuật luyện kim,
nghề làm gốm, nông nghiệp trồng lúa nước…Đời sống tinh thần của người nguyên thuỷ
ngày càng được nâng cao, từng bước làm thay đổi bộ mặt xã hội, đưa đến hình thành một
lãnh thổ chung, một nền văn hoá, văn minh chung và một tổ chức chính trị xã hội chung.
Đó là quốc gia, nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, đánh dấu bước chuyển biến cơ bản trong
lịch sử xã hội Việt Nam và mở ra một thời đại mới - thời đại dựng nước.
Với đặc trưng lịch sử như vậy, cũng như với tinh thần tìm tòi, tham khảo và niềm
đam mê cỏ nhõn. Người viết đi vào tìm hiểu, tổng hợp khai thác và làm rõ hơn về: “ Sự
phát triển đồ gốm dưới thời Hùng Vương dựng nước ”. Bởi đây là một thời đại đã đi vào
huyền thoại lịch sử với sự tồn tại gần 300 năm, trải qua 18 đời vua Hùng trị vì và gắn theo
đú chớnh là sự ra đời của nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Nghiờn cứu tìm hiểu “ Sự phát triển đồ gốm dưới thời Hùng Vương dựng nước ” để
thấy được đồ gốm có ý nghĩa như thế nào trong lịch sử buổi đầu dựng nước của dân tộc ?
Hơn nữa có thể thấy rằng: Nếu đứng trên góc độ chuyên môn khảo cổ học thì đồ
gốm có giá trị vô cùng lớn lao. Nhưng trong đời sống lịch sử kinh tế thì đồ gốm có ý
nghĩa hai chiều, bởi nó khụng gây ra được bước ngoặt lịch sử nào cả. Mà chính bản thõn
nó là kết quả, là sự biểu hiện của những bước ngoặt lịch sử. Nói như vậy để thấy được:
Đõy là một trong những phát minh quan trọng, thể hiện bước cải tiến kỹ thuật quan trọng


trong đời sống con người. Đồng thời cũng do những đặc điểm của nền kinh tế sản xuất,
nên đõy là một trong những ngành có khả năng đi tới chuyên môn hoá cao, quy mô sản
xuất lớn và phân công lao động sớm đạt trình độ sâu sắc hơn nhiều ngành thủ công khác
trong cùng thời đại lịch sử đó.
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
B - PHẦN NỘI DUNG
Chương I
NHỮNG NÉT CHUNG VỀ THỜI HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC
1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Dân tộc ta có một hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt: vừa bước vào thời kỳ dựng nước
chưa được bao lâu thì mất nước.Hơn một nghìn năm bị đô hộ, lịch sử văn hiến của người
Việt đã hầu như bị xóa mất mọi dấu vết về một thời văn minh của dân tộc. Do vậy lịch sử
dựng nước của dân tộc ta không được ghi chép để truyền lại. Điều duy nhất mà những thế
lực đô hộ không thể xoá được là ký ức của nhân dân về lịch sử của cha ông mỡnh. Chớnh
vì lẽ đó mà thời kỳ lập quốc của dân tộc Việt Nam, trong một thời gian dài, chỉ được
phản ánh trong các huyền thoại hoặc truyền thuyết dân gian. Những câu chuyện kể về 18
đời vua Hùng nối nhau trị nước hay những truyền thuyết về sự tích “Bánh chưng, bánh
dầy”, sự tích “ Trầu cau”… liên quan đến phong tục tập quán và cuộc sống của người
xưa là những mảng màu còn giữ được trong ký ức của nhân dân, lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác về thời đại Hùng Vương. Huyền thoại Sơn Tinh, Thuỷ Tinh và thiên
anh hùng ca Thỏnh Gióng là những hình tượng khái quát do nhân dân sáng tạo nên để
truyền cho nhau về sự nghiệp của cha ông thời mở nước. Những “pho sử” không thành
văn này đã tỏ ra có sức sống mãnh liệt trong suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc.
Sau khi giành được độc lập, đất nước ta bước vào kỷ nguyên phục hưng và phát
triển. Nhu cầu nhận thức về nguồn gốc và ý thức tự tôn dân tộc thôi thúc các nhà sử học
yêu nước tìm hiểu về lịch sử thời Hùng Vương. Đến thời Trần – Lê những truyền thuyết
và huyền thoại bấy lâu chỉ lưu truyền trong dân gian lần đầu tiên được sưu tầm, biên khảo

và ghi chép lại trong các tài liệu thành văn. Các bộ sách Việt điện u linh của Lý Tế
Xuyên và Lĩnh Nam chớch quỏi của Trần Thể Pháp lần lượt ra đời. Đặc biệt, đến thế kỷ
XV, nhà sử học Ngô Sĩ Liờn đó chính thức đưa những tư liệu dân gian đó vào bộ chính
sử đồ sộ, do ông và các sử thần triều Lê biên soạn. Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư,
Ngô Sĩ Liờn đó dành riêng một kỷ đặt tên là “Kỷ Hồng Bàng” để trình bày một cách có
hệ thống các truyền thuyết mà ông tập hợp được với một diễn biến thế phổ: Kinh Dương
Vương – Lạc Long Quân – Hùng Vương. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra những niên
đại tuyệt đối cho thời đại lịch sử này. Theo đó, Kinh Dương Vương (ông nội của Hùng
Vương thứ nhất) lên ngôi vào thời Chu Noãn Vương thứ 57 (?) (năm 2879 trước Công
nguyên – TCN) và năm cai trị cuối cùng của Hùng Vương thứ 18 là năm 258 TCN.
Nhưng sự cố gắng chứng minh Việt Nam có lịch sử văn minh lâu đời của Ngô Sĩ Liên
không khỏi gây ra sự băn khoăn, hoài nghi của các nhà sử học thuộc các thời đại sau.
Ông viết như vậy, nhưng không nêu ra được những cơ sở khoa học có sức thuyết phục.
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
Chính bản thõn ụng theo sự trình bày những điều trên cũng phải hạ bút viết câu: “ Hãy
tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi” [ 16 ].
Quả thực, những điều Ngô Sĩ Liên đưa vào chính sử đều là huyền thoại và truyền
thuyết. Các chuyên gia về văn học dân gian thừa nhận rằng các truyền thuyết và huyền
thoại luôn chứa đựng trong nó những cốt lõi lịch sử. Nhưng đó không phải là lịch sử.
Không thể dựa vào truyền thuyết để xác định niên đại tuyệt đối cho các sự kiện lịch sử.
Vả lại khung niên đại về thời gian trị vì của 20 ông vua thời dựng nước do Ngô Sĩ Liên
đưa ra lên tới 2622 năm (2879 – 258 tr.CN) là điều phi lý, không thể chấp nhận. Trong
khoảng thời gian đó, mỗi ông vua trung bình phải cai trị tới hơn 130 năm
Như vậy có thể thấy rằng: Thời đại lịch sử này được rất nhiều người quan tâm
nghiên cứu và nhiều tài liều đề cập tới. Bởi:
* Ngay từ các triều đại phong kiến Việt Nam, ngoài các bộ sách kể trên đã có
thêm một số bộ sách khác cũng đề cập đến thời đại Hùng Vương này dưới nhiều dạng
khác nhau: truyền thuyết, lịch sử hay địa lý. Như: “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi; “Việt
sử thông giám ” của Vũ Quỳnh…Tuy vậy, các nhà sử học nước ta thời đú cũn tỏ ra hoài

nghi về sự tồn tại của thời kỳ lịch sử này. Có lẽ họ chưa đủ cứ liệu đáng tin cậy ? [1;33].
* Sang thời Pháp thuộc, với sự thành lập trường Viễn Đông Bác Cổ (1900), công
tác nghiên cứu thời đại này được chú trọng hơn. Việc tìm kiếm, thăm dò, khai quật và
nghiên cứu được quan tõm và có nhiều bước chuyển biến mới: “Từ năm 1924 khi khu di
tích văn hoỏ Đụng Sơn được khai quật do nhà khảo cổ học người Pháp Pagiụ đó phát
hiện được nhiều đồ đông, đồ gốm, đồ sắt…” [1;34].
Tiếp sau đó, nhiều nhà khảo cổ học nước ngoài khác cũng tham gia vào việc
nghiên cứu thời đại lịch sử này, như: H.ghenđec, O.Yanxe…với nhiều di tích khảo cổ đã
được phát hiện và khai quật. Tuy vậy các nhà nghiên cứu cũng chỉ tập trung nghiên cứu
niên đại ra đời, sự tồn tại và nguồn gốc một số nền văn hoá đặc trưng của thời kỳ lịch sử
này [1;35].
* Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là từ năm 1954 sau khi Thực dân
Pháp bại trận ở Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, ngành sử học và
khảo cổ học Việt Nam chính thức ra đời, phát triển. Việc nghiên cứu toàn diện về thời
Hùng Vương mới thực sự được chú trọng phát triển, đạt nhiều thành tựu to lớn. Các cuốn
sách: “Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thuỷ ở Việt Nam” của Trần Quốc Vượng và Hà
Văn Tấn; “Xã hội nước Văn Lang – Âu Lạc” của Văn Tân; “Kỉ yếu Hùng Vương dựng
nước” tập I (1970), tập II (1972), tập III (1973), tập IV (1974). [1; 35&36].
* Ngày nay có khá nhiều sách báo, tạp chí, kỉ yếu khảo cổ học đề cập đến thời kì
lịch sử này, cũng như lịch sử phát triển đồ gốm. Nhìn chung đó cú sự nghiên cứu toàn
diện và sâu sắc hơn.
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
Tuy nhiên để có một chuyên khảo cụ thể về “Sự phát triển đồ gốm dưới thời Hùng
Vương dựng nước ” thì hầu như chưa có tác giả nào đề cập chi tiết, mà chỉ là những số
liệu khảo cổ học hoặc những nét khái quát về đặc trưng hay sự phát triển của đồ gốm
trong thời kì lịch sử này mà thôi. Chính vì vậy, trên cơ sở tham khảo, tổng hợp những
nguồn tư liệu đó, người viết đi vào tìm hiểu để làm rõ hơn về đồ gốm cũng như sự phát
triển của nó trong buổi đầu dựng nước - thời các Vua Hùng.
2. Dấu tích - niên đại thời Hùng Vương

Dấu tích – niên đại thời Hùng Vương dựng nước được khá nhiều nhà lịch sử, nhà
khảo cổ học quan tâm. Dựa vào các nguồn tài liệu, nhiều nhà khảo cổ học và sử học cho
rằng: thời Hùng Vương dựng nước trải qua 4 giai đoạn phát triển nối tiếp nhau liên tục và
ngày càng cao, trên cơ sở kế thừa giai đoạn trước. Đó là các giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn Phùng Nguyờn tồn tại vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ II TCN.
Theo kết quả xác định niên đại bằng phương pháp các bon phóng xạ (C14), văn hoỏ
Phùng Nguyờn (thuộc giai đoạn sơ kỳ đồ đồng) tồn tại cách ngày nay khoảng trên dưới
4000 năm. Nêu theo quan niệm dân gian thì thời điểm nhà nước đầu tiên xuất hiện trên đất
nước ta tương ứng với niên đại của văn hoỏ Đụng Sơn. Nhưng các chứng cứ vật chất được
khảo cổ học phát hiện đã không cho phép kết luận như vậy. Ở thời Phùng Nguyờn, mặc dù
đã sớm bước vào thời đại đồ đồng, nhưng công cụ bằng đá vẫn còn phổ biến và chiếm ưu
thế tuyệt đối. Các nhà sử học đã thống nhất nhận định rằng cư dân thời Phùng Nguyờn
chưa vượt ra khỏi phạm trù của hình thái công xã nguyên thủy. Có nghĩa là không thể nói
từ cách đây 4000 năm, nước ta đã bước vào thời đại văn minh, đã có nhà nước.
- Giai đoạn Đồng Đậu tồn tại vào nửa sau thiên niên kỉ II TCN. Di tích khảo cổ
này được phát hiện năm 1964. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích khảo cổ
thuộc văn hoá Đồng Đậu ở các tỉnh Phú Thọ, Hoà Bình, Hà Tây, Bắc Giang, Bắc Ninh,
Hà Nội. Đây là giai đoạn phát triển kế tiếp và cao hơn giai đoạn Phùng Nguyờn.
- Giai đoạn Gò Mun tồn tại vào nửa đầu thiên niên kỉ I TCN, thuộc huyện Phong
Châu – Phú Thọ. Di tích khảo cổ học này được phát hiện năm 1961.
- Giai đoạn Đông Sơn tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỉ VII TCN đến thế kỉ I
sau CN. Địa điểm khảo cổ học Đông Sơn được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1924, là
thời kì phát triển rực rỡ của đồ đồng sang sơ kì đồ sắt. Nhiều tài liệu khảo cổ học cho
thấy nền kinh tế thời Đông Sơn phát triển khá cao. Đặc biệt, sự phõn hoỏ giai tầng cũng
đó cú những biểu hiện rõ nét. Chẳng hạn, trong di chỉ mộ táng Việt Khê (Hải Phòng),
được xác định niên đại tuyệt đối là 2415 ± 100 năm (tính đến năm 1950), thuộc thời đại
Đông Sơn, các nhà khảo cổ học phát hiện 4 ngôi mộ chôn quan tài hình thuyền. Ba ngôi
trong số đó hoàn toàn không có hiện vật chôn theo. Trong khi đó, có một ngôi người chết
được chôn theo 107 hiện vật với 73 hiện vật bằng đồng, trong đó có những đồ dùng sang
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt

Nam học
trọng như thạp, thố, bỡnh, õu, khay, ấm… Như vậy thì chỉ có thể dùng niên đại của Văn
hoỏ Đụng Sơn làm giới hạn đầu cho thời đại dựng nước của Việt Nam. Cách đây khoảng
2.500 – 2.700 năm. Điều này phù hợp với ghi chép của sách Việt sử lược - một bộ sử
khuyết danh nhưng được biên soạn sớm nhất ở nước ta.
Như vậy căn cứ vào các di tích khảo cổ mà thấy rằng thời Hùng Vương từ giai
đoạn Phùng Nguyờn đến giai đoạn Đông Sơn về mặt không gian không những có sự mở
rộng dần, tập trung ở những vùng đồng bằng ven các con sông lớn của Bắc Bộ, Bắc
Trung Bộ mà các khu cư trú thường rộng lớn, có thể tới vài vạn m
2

với tầng văn hoỏ khỏ
dày, nhất là giai đoạn Đông Sơn, khu cư trú rộng tới 250.000m
2
.
.
3. Nguồn gốc lịch sử thời Hùng Vương dựng nước - Sự ra đời của nhà nước Văn Lang.
Trong cuốn Thế thứ các triều đại vua Việt Nam (Nguyễn Khắc Thuần, Nxb Giáo
Dục 1997) đã viết:
"Trái với ghi chép của chính sử cũ và các tài liệu dã sử khỏc, cỏc nhà nghiên cứu
cho rằng: Nước Văn Lang của các vua Hùng chỉ tồn tại trong khoảng 300 năm và niên
đại tan rã khoảng năm 208 tr.CN. Với 300 năm, con số 18 đời Hùng Vương là con số dễ
chấp nhận. Tuy nhiên, cũng không vì thế mà khẳng định rằng nước Văn Lang thực sự có
18 đời vua Hùng nối tiếp nhau trị vì. Tóm lại, nước Văn Lang là một thực thể có thật của
lịch sử Nhưng nước Văn Lang chỉ tồn tại trước sau khoảng 300 năm và con số 18 đời
vua Hùng cho đến nay vẫn chỉ là con số của huyền sử”. [13;15].
Quan niệm mới cho rằng thời Hùng Vương tồn tại khoảng 300 năm. Qua bài báo
đăng trên một tạp chí được phát hành rộng rãi là “Kiến thức ngày nay”, số 256, phát
hành ngày 1/9/1997 - với tựa đề “Thời điểm lập quốc và quốc hiệu Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Anh Hùng, đã viết:

“Cỏc nhà sử học ngày càng thống nhất chung quan điểm khi cho rằng nhà nước đầu
tiên trên đất nước ta chỉ có thể xuất hiện vào thời văn hóa Đông Sơn. Quan niệm này được
cộng đồng khoa học thế giới thừa nhận - chẳng hạn trong nhiều công trình lịch sử, xã hội
học của các tác giả nước ngoài đó dựng từ “văn minh” (civilization) thay vì “văn húa”
(culture) khi bàn về văn hóa Đông Sơn. Do vậy chỉ có thể dùng niên đại văn hóa Đông Sơn
làm giới hạn đầu cho thời kỳ lập quốc của dân tộc ta cách đây chừng 25 - 27 thế kỷ”.
Trong tạp chí “Thế giới mới” số 89 năm 1994 qua bài “Cú phải Việt Nam lập
quốc cách đây 4000 năm?”, trong mục “Nhỡn lại lịch sử” tác giả Tiến sĩ Vũ Minh
Hoàng đã viết:
“Mỗi quốc gia đều có thời điểm bắt đầu lịch sử văn minh của mình. Đó là lúc nhà
nước đầu tiên xuất hiện.Trong lịch sử Việt Nam, điểm khởi đầu là thời các vua Hùng
dựng nước. Từ lâu có một quan niệm phổ biến gần như hiển nhiên, cho rằng cách đây
4000 năm, chúng ta đã bước vào thời lập quốc. Những cụm từ như “4000 năm lịch sử”,
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
“4000 năm dựng nước và giữ nước” hay “4000 năm văn hiến”… trở thành rất quen
thuộc trong tiếng Việt. Quan niệm trên đây thực ra chưa từng được khoa học chứng minh
và vì vậy cần xem nó cú chính xác hay không?”
So sánh các quan điểm mới về thời Hùng Vương được trình bày ở trên với một số
bộ chính sử của các triều đại Việt Nam trước đây ghi chép lại, thì thời kỳ Hùng Vương
tồn tại 2622 năm (từ 2879 tr.CN đến 258 tr.CN).Bởi:
Dựa vào các tài liệu khảo cổ học cũng như các thành tựu nghiên cứu về thời
đại Hùng Vương [1;46&47], có thể thấy rằng nhà nước Văn Lang ra đời với tư cách là
một nhà nước sơ khai. Nhưng dù sao cũng đánh dấu một bước phát triển lớn lao có ý
nghĩa thời đại trong lịch sử Việt Nam - mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên
của dân tộc ta.
- Sách “Việt sử lược ” ghi rằng: đến đời Trang Vương nhà Chu (696 – 682 TCN) ở
bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương,
đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang. Ngụi Hựng Vương cha truyền con nối.
Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các lễ nghi tôn giáo.

- Sách “ Lịch triều hiến chương loại chí ” cũng ghi: đời Hùng Vương dựng
nước gọi là nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, chia nước ra làm 15 bộ, vốn là
15 bộ lạc trước đó. Lạc tướng (tù trưởng) cũng thế tập cha truyền con nối, còn gọi
là phụ tướng, bộ đạo. Dưới bộ là các công xã nông thôn. Đứng đầu kẻ chạ, chiềng
là các bộ chính (già làng). Bên cạnh đú cũn cú một nhóm người đại diện cho hội
đồng công xã để tham gia điều hành công việc của kẻ chạ, chiềng. Mỗi công xã
nông thôn có một nơi để hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà
công cộng.).
Như vậy, giữa quan niệm của một số học giả hiện nay và sử cũ có một khoảng
cách quá lớn. Sự chênh lệch thời gian của khoảng cách này là gần 2500 năm, tức là xấp
xỉ một nửa lịch sử của nhân loại kể từ khi các quốc gia cổ đại đầu tiên của loài người
được thành lập. Để thấy rằng: Thời Hùng Vương đã đi vào huyền sử, còn sót lại một số
truyền thuyết được ông cha lưu truyền qua bao thăng trầm của lịch sử đến ngày nay. Hầu
hết những tư liệu về thời Hùng Vương chỉ được viết lại sau khi người Việt giành được
độc lập, kể từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần tức là hàng ngàn năm sau đó. May thay, sự phát
triển của khoa học lịch sử những năm gần đây qua những di vật tìm được đã khẳng định:
Thời Hùng Vương là một thời đại có thật !
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
Chương II
ĐẶC TRƯNG ĐỒ GỐM DƯỚI THỜI HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC
1. Nguồn gốc ra đời chung của đồ gốm.
Hầu hết những đồ gốm mà thế hệ trước làm ra đều còn lại, phần đa là những mảnh
vỡ. Nhờ đó người ta dễ xác định niên đại phát sinh và phát triển của ngành gốm.
L.Morgan cho rằng: đồ gốm phát sinh từ việc lấy đất trát bên ngoài các đồ đựng
bằng nan hay bằng gỗ để nó khỏi cháy. Qua sự thể nghiệm này, con người hiểu được
thuộc tính mới của đất, là bản thân đất có thể làm được đồ đựng, từ đó người ta bỏ cái lõi
bên trong đi.
Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng: đồ gốm phát sinh từ việc lấy đất trát bên
trong các đồ đựng bằng nan để đựng các chất lỏng. Khi các đồ đựng được đem ra đun

nấu, nan bên ngoài bị cháy đi, đất bên trong vẫn còn và lại càng cứng hơn. Từ đó người
ta phát minh ra đồ gốm.
Cũng cú thờm một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng: đồ gốm là một phát minh
độc lập, bắt nguồn từ việc đào lỗ đất để đựng nước hay đựng các vật phẩm khỏc…
Có thể thấy rằng: mỗi dân tộc đi tới đồ gốm bằng những con đường cụ thể khác
nhau, có kỹ thuật sản xuất khác nhau. Nhưng đại đa sỗ các dân tộc đều biết chế tạo đồ
gốm từ khi bước sang thời kì đồ đá mới, từ việc nặn bằng tay rồi người ta chuyển sang
dùng bàn xoay để lặn và nung gốm trong nhiệt độ cao.
Ở Việt Nam, những mảnh gốm đầu tiên ở nước ta thường có vết khuôn nan ở
ngoài, chứng tỏ tổ tiên ta bắt đầu làm gốm bằng cách trát đất vào bên trong khuôn nan.
Sau đó kỹ thuật làm gốm có bước phát triển quan trọng: người ta bắt đầu làm gốm trực
tiếp bằng tay và đến hậu kỳ đá mới kỹ thuật dùng bàn xoay ra đời. Tuy nhiên vẫn còn in
những vết nan đan, có thể đây là một cách trang trí của người nguyên thuỷ. Sang các giai
đoạn sau, kỹ thuật đã thay đổi, chức năng kỹ thuật của vết khuôn nan đã hết mà thay vào
đó là chức năng thẩm mỹ của nó [12; 34 - 37].
Như vậy đồ gốm là một trong những phát minh quan trọng, thể hiện bước tiến
trong kỹ thuật và đời sống con người, góp phần cải thiện cuộc sống và mang vai trò to
lớn trong lịch sử dân tộc.
2. Đặc trưng của đồ gốm dưới thời Hùng Vương dựng nước.
Căn cứ vào nguồn tài liệu khảo cổ học mà thấy rằng: nghề làm gốm thời kì này có
sự phát triển thêm một bước. Từ chất liệu, loại hình, kỹ thuật chế tạo cho đến nghệ thuật
trang trí hoa văn…[14; 74-80].
2.1 Về chất liệu gốm.
Chất liệu chủ yếu để làm gốm thời kì này chính là các loại đất sét dẻo được khai
thác ở ngay gần nơi ở của con người. Để giảm dẻo, chống dính, giảm độ co, tăng khả
năng chịu lửa của đất sét, người xưa đã pha trộn thêm vào đất sét dẻo các chất không dẻo
khác nhau như: cỏt, đỏ sạn sỏi tán vụn, vỏ nhuyễn thể, bã thực vật…
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
Trong quá trình sản xuất đồ gốm, chất liệu gốm không ngừng được chọn lọc để

nâng cao về chất lượng, bằng cách chọn dùng những nguyên liệu tốt, loại bỏ nguyên liệu
xấu: tăng chất pha trộn bằng cát, hạn chế hoặc loại bỏ nhuyễn thể và bã thực vật. Bởi thế
gốm càng ở những giai đoạn cao càng có chất liệu tốt. Nhưng để có được quy trình tạo
chất liệu gốm tốt, con người phải tiến hành nhiều thử nghiệm khác nhau. Sự hiện diện
đồng thời nhiều loại gốm khác nhau (gốm mịn, gốm thô, gốm xốp…) trong cùng một di
chỉ hay một giai đoạn văn hoỏ đó chứng minh cho quá trình thử nghiệm chọn lọc chất
liệu gốm của người xưa. Rõ ràng qua thực tế sản xuất, con người đã dần biết được thuộc
tính của đất sét, của các chất pha trộn khác nhau giữa các thành phần tạo nên chất liệu
gốm. Nhờ đó con người thấy được ưu điểm, nhược điểm của từng loại nguyên liệu trong
quá trình tạo gốm.
Song song đó con người cũng không ngừng nâng cao nhiệt độ nung để nâng cao
chất lượng gốm (nhiệt độ nung gốm ở giai đoạn Phùng Nguyờn khoảng 600 – 700
o
C thì
ở giai đoạn Gò Mun, Đông Sơn lên khoảng 800 – 900
o
C).
2.2 Về loại hình gốm.
Nếu như thời kì trước (sơ và trung kỡ đỏ mới) số lượng cũn ớt, nghèo nàn về loại
hình, chủ yếu gồm một số loại nồi có miệng loe, miệng đứng, miệng khum và cú đỏy
trũn, đỏy nhọn, đáy bằng. Thì bước sang thời kì này, cùng với sự xuất hiện, phát triển của
bàn xoay, các loại hình gốm ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Hàng loạt các đồ
đựng với hình dáng và kích thước khác nhau ra đời. Đó là các loại nồi, niờu, bỡnh vũ,
cốc chén, bát đĩa, chậu, thạp, thố , chừ…Mỗi loại gồm nhiều kiểu loại khác nhau. Nhiều
loại gốm đẹp với cấu tạo phức tạp ra đời, như gốm miệng đa giác, bình con tiện, gốm có
chân đế, gốm có tai…
Ngoài đồ đựng, người ta còn tạo ra nhiều loại gốm với nhiều hình dạng và công cụ
khác nhau (chì lưới, dọi xe chỉ, nồi nấu rót kim loại, khuôn đúc công cụ và vũ khí). Các
loại đồ trang sức (vòng tay, khuyên tai). Các loại tượng nghệ thuật, các loại gốm chưa rõ
công dụng (chân chạc, con dấu, gốm hình hộp, gốm sừng bò) và các loại đồ minh khí.

Với chiếc bàn xoay, với kinh nghiệm ngày càng phong phú và với đôi bàn tay
ngày càng khéo léo, con người thời kì này đã biết cải biến những hình dạng cũ ở thời kì
trước thành những sản phẩm mới độc đáo hơn nhiều. Ví dụ: cấu tạo dáng gốm sơ trung
kỡ đỏ mới (gốm miệng loe, miệng đứng, miệng khum, có cổ, đỏy trũn hoặc đáy bằng), thì
đến thời kì này trờn cỏi nền đó, con người đã tiếp thu hình mẫu của người trước với nhiều
sáng tạo mới sao cho thích hợp với nhu cầu mới, như chắp thờm chõn đế, gắn thêm tai,
thay đổi tỉ lệ giữa các phần và tạo ra loại hình mới.
Sự sáng tạo trong tạo dáng chủ yếu tập trung ở việc tạo dáng miệng gốm. Ví dụ:
người Phùng Nguyờn thớch cỏc gốm miệng loe, miệng đứng với mép miệng được đắp
dày thêm và cú thờm 1- 2 gờ đắp nổi ở ngoài bản miệng; người Gò Mun đặc biệt ưa thích
các loại gốm có miệng loe góy…Và trong khi cải tiến cấu tạo miệng, người xưa bao giờ
cũng chú ý điều chỉnh các bộ phận như cổ, thõn, đỏy, đế sao cho hình dáng gốm chắc
khoẻ, cân đối, hài hòa.
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
Như vậy tính phong phú, đa dạng của gốm thời kì này không chỉ được thể hiện ở
hình loại mà còn cả chức năng sử dụng. Tính phong phú, đa dạng và sự hoàn thiện của
hình loại không chỉ phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật mà còn phụ thuộc vào đòi hỏi của
thực tại đời sống của từng khu vực, cộng đồng người trong từng giai đoạn phát triển cụ
thể của lịch sử. Có thể nói, toàn bộ kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm của người thợ gốm
được thể hiện tập trung trong tạo hình sản phẩm gốm.
2.3 Về hoa văn gốm
Hoa văn gốm thời kì này rất phong phú và đa dạng, thể hiện rõ tài năng sang tạo và tư
duy thẩm mỹ của người xưa. Qua kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học, cho thấy:
Về những hoa văn truyền thống (hay những hoa văn có nguồn gốc kỹ thuật): văn
thừng, văn chải và văn in dập ở thời trung kỡ đỏ mới được gắn liền với kỹ thuật tạo dáng
bằng bàn đập, hũn kờ. Bước sang thời kì này, các loại văn này có ý nghĩa trang trí nhiều
hơn. Tuy nhiên văn thừng chiếm ưu thế nhiều hơn.
Những hoa văn mang sắc thái riêng của từng giai đoạn văn hoá:
- Hoa văn gốm Phùng Nguyờn phong phú và độc đáo chưa từng có. Đó là các loại

hoa văn in lăn, in chấm, khắc vạch, các loại hoa văn khắc vạch trong các hoạ tiết khắc
vạch, khắc vạch trên nền thừng (chải hay in đập), các hoa văn đệm và miếng láng. Đặc
biệt hoa văn được cấu tạo bởi những đường cong uốn lượn uyển chuyển, các hoạ tiết
được liờn kết với nhau rất chặt chẽ và trang trí theo quy luật đối xứng. Các hoa văn này
được bố trí chủ yếu trên thõn gốm.
- Hoa văn gốm Đồng Đậu: Khác với người Phùng Nguyờn, người Đồng đậu thích
trang trí hoa văn trên phần cổ và miệng gốm, nhất là mặt trong hay trờn trờn miệng.
Người Đồng Đậu hình như không chuộng những hình đóng kín có vẻ gò bó, những dải
hoa văn do tính cân xứng chặt chẽ tạo nên, mà thích trang trí theo lối phối hợp nhiều kiểu
hoa văn, tạo nên một lối bố cục phóng khoáng, sáng tạo. Phong cách sử dụng hoa văn
phù trợ làm nền được phát triển phong phú. Sự phối hợp tài tình giữa hai loại hoa văn chủ
đạo và hoa văn phù trợ đã gây cho người qua sát cảm giác nhẹ nhõm, tự do. Đường nét
giai đoạn này được thể hiện bằng một dụng cụ khắc vạch có nhiều răng như bút kẻ
khuông nhạc. Bắt đầu xuất hiện hoa văn hình nan hoa. Nhìn chung hoa văn giai đoạn này
ghi nhận một xu hướng phát triển theo phong cách đơn giản hoá.
- Hoa văn gốm Gò Mun: Người Gò Mun không chỉ làm “cuộc cách mạng” trong
tạo hình mà cả trong tạo hoa văn. Người Gò Mun ưa chuộng nhất các loại hoa văn khắc
vạch với những đường nét góy gúc trang trí trong miệng đồ đựng. Đây là hướng quán
xuyến trong cả trong tạo dáng và tạo hoa văn.
Ngoài ra, nếu như giai đoạn Phùng Nguyờn thường có văn thừng mịn, trên gốm
mịn có thành mỏng, thì giai đoạn này chủ yếu là loại văn thừng thụ. Cũn văn in ô vuông
tồn tại rải rác ở các giai đoạn trước thì đến nay xuất hiện ngày càng nhiều, chiếm vị trí
chủ đạo. Loại hoa văn đắp nổi xuất hiện ở thõn, đáy và đế, thường được kết hợp với văn
khắc vạch để làm tôn hình dáng của hiện vật. Loại hoa văn phổ biến và độc đáo của giai
đoạn này là hoa văn nan chiếu và hoa văn khắc vạch. Những đường nét phối trí hài hoà
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
với những vòng tròn nhỏ, tạo thành một dải quay vòng, phủ kín miệng gốm, làm thành
đặc trưng chủ yếu của hoa văn gốm Gò Mun.
- Hoa văn gốm Đông Sơn: hầu như không có hoa văn nào tiêu biểu nào đáng kể,

ngoài hoa văn “nhăn tàn ong”. Tuy nhiên, ta lại thấy người Đông Sơn chọn những hoa
văn đẹp, cách trang trí hay của gốm để trang trí cho đồ đồng, nhất là trống đồng Đông
Sơn và thạp đồng.
Như vậy với sự khác biệt giữa những hoa văn ở các giai đoạn văn hoá, giai đoạn
kịch sử để thấy được tính đa dạng, thành tựu mà con người thời kì này đạt được trong
nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật trang trớ…
Hoa văn truyền thống và đổi mới
Các loại hoá văn truyền thống (văn thừng, văn chải, văn in đập)trong quá trình tồn
tại của mình, qua từng giai đoạn phát triển, cũng có những biến đổi nhất định cho phù
hợp với từng giai đoạn cụ thể. Đó là hoa văn thời kì nảy trở nên mịn hơn và ít nhất có hai
lần biến đổi đáng kể để tạo ra “văn thừng biến thể” và “ văn nhăn tàn ong”.
Các hoa văn đặc trưng cho từng giai đoạn văn hoá muốn được thích dụng ở các
giai đoạn sau cũng phải có sự cách tân đáng kể. Ví dụ: để tồn tại, hoa văn khắc vạch phải
biến đổi từ đường nét đơn uốn cong uyển chuyển ở gốm Phùng Nguyờn thành khắc vạch
khuông nhạc mới tốn tại được ở văn hoá Đồng Đậu. Nhưng ở văn hoỏ Gũ Mun: hoa văn
khắc vạch khuông nhạc lại phải biến đổi thành khắc vạch góy gúc. Hay nhiều hoa văn
đẹp của gốm ở giai đoạn Đông Sơn muốn tiếp tục tồn tại lại phải chuyển sang trang trí
trên đồ đồng.
Như vậy có thể thấy rằng qua sự biểu diễn hoa văn gốm, chúng ta có thể soi tỡm
sự năng động, sáng tạo của người xưa trong sản xuất gốm cũng như trong việc lưu giữ
truyền thống và đổi mới phát triển.
2.4 Về kỹ thuật chế tạo.
Thời kì này từ khi bàn xoay xuất hiện thì chế tao gốm bằng bàn xoay giữ vai trò
quyết định. Mặc dù kỹ thuật nặn gốm bằng tay vẫn song song tồn tại với kỹ thuật tạo
gốm bằng bàn xoay ở hầu khắp mọi nơi cũng như từng giai đoạn văn hoá phát triển.
Bàn xoay ra đời đánh dấu sự chuyển biến có tính “cách mạng” trong sản xuất
gốm. Nhờ có bàn xoay, nghề gốm biến đổi căn bản và phát triển vượt bậc. Với chiếc bàn
xoay, rất nhiều gốm khác nhau ra đời, như các loại nồi niêu, bỡnh vũ, bát đĩa, cốc chén,
chậu, thố, thạp…Loại gốm nào cũng có số lượng lớn, có nhiều quy mô kích thước khác
nhau, có đủ loại hình: dạng từ đơn giản đến phức tạp, từ thô sơ đến hoàn mỹ…

Qua nghiên cứu, các nhà khảo cổ học cho rằng: bàn xoay thời kỳ này có thể có các
kiểu loại sau:
- Bàn kê quay không có trục
- Bàn kê quay có trục
- Bàn xoay tay
- Bàn xoay chân
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
Cũng qua nghiên cứu cho thấy , bàn xoay gốm cổ thường được làm bằng gỗ có
cấu tạo, tốc độ quay cũng như cách tạo gốm gần giống như những bàn xoay hiện nay.
Ngoài tạo hình, kỹ thuật tạo hoa văn cũng góp phần rất quan trọng tạo nên tính
phong phú và đa dạng cua các loại gốm cổ. Các loại văn thừng, văn in đập được tạo ra
chủ yếu bằng cách đập hoặc làm bằng các loại bàn đạp hoặc trục lăn khác nhau (bàn đập
trơn, bàn đập có khắc rãnh, bàn đập cuốn dây trơn, bàn đập hoặc trục lăn cuốn thừng và
chỉa bằng lược nhiều răng). Các kỹ thuật này càng về giai đoạn cuối càng được cải tiến
và hoàn thiện (từ bàn đập đến cách đập, từ lược chải đến cách trải) nên hoa văn mịn
hơn, cũng có khi tạo được một số hoa văn trông lạ mắt, như Văn thừng biến thể và “văn
nhăn tàn ong”.
Đặc biệt các kỹ thuật khắc vạch, in chỏm, in lăn, in vỏ sò, trổ thủng, đắp nổi, vẽ
màu, miết láng đươck khéo léo sử dụng, hoặc riêng biệt hoặc kết hợp với nhau, đã tạo ra
được nhiều loại hoa văn, nhiều mụ típ trang trí đẹp và phức tạp mang dấu ấn riêng của
từng vùng văn hoá, từng khu vực hay giai đoạn phát triển.
3. Tiểu kết
Qua nghiên cứu bước đầu về nguồn gốc phát sinh, những đặc trưng cơ bản của đồ
gốm ở thời Hùng Vương dựng nước,mà cụ thể qua từng giai đoạn phát triển trong thời kỳ
này, ta thấy được đồ gốm không ngừng được biến đổi, phát triển nhiều mặt: về chất liệu,
loại hình, hoa văn, kỹ thuật chế tạo gốm cũng như chức năng sử dụng. Đồ gốm cổ thực
sự có vai trò quan trọng trong việc vạch định các văn hoá khảo cổ, các loại hình văn hoỏ,
cỏc giai đoạn phát triển văn hoá, cung như những đong góp nhiều mặt của nghề gốm
trong việc tạo dựng bản sắc dân tộc Việt ngay từ buổi đầu dựng nước - thời Các Vua

Hùng dựng nước.
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
Chương III
DI CHỈ ĐỒ GỐM VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ DƯỚI THỜI
HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC
1. Các di chỉ đồ gốm thời Hùng Vương dựng nước
Những di chỉ gốm ở thời kì này, sau mấy chục năm tìm kiếm và thu thập có thể
thấy được đây là kho tàng vô cùng to lớn của dân tộc. Về loại hình gốm có thể có hàng
chục, hàng trăm loại khác nhau…Nhưng về số lượng, con số có thể lên tới hàng nghìn.
Trong đó phải kể đến những kiểu loại như: từ đồ đựng (nồi niêu, bỡnh vũ, cốc chén, bát
đĩ, chậu, thạp, thố, chõ…) cho đến các công cụ sản xuất (chì lưới, dọi xe chỉ, nồi nấu rót
kim loại, khuôn đúc công cụ và vũ khí); rồi đến các loại đồ trang sức (vòng tay, khuyên
tai); các loại tượng nghệ thuật; các loại đồ minh khí và các loại gốm chưa rõ công dụng
(chân chạc, con dấu, gốm hình hộp, gốm sừng bò)…
Để xác định rõ sự phân bố của các di chỉ có liờn quan đến gốm các giai đoạn văn
hoá thời Hùng Vương, các nhà khảo cổ học đã khảo sát và sưu tầm những tài liệu cần
thiết sau đây:
- Giai đoạn Phùng Nguyên: đến nay những di chỉ thuộc văn hoỏ Phùng Nguyờn
phát hiện được ngày một nhiều. Theo tài liệu hiện có, những di chỉ thuộc văn hoỏ Phùng
Nguyên chủ yếu phân bố ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nội, Hà Bắc(cũ). Trong số
những di chỉ phát hiện được, ngoài nội dung cơ bản giống nhau ra, giữa chúng hình thành
hai nhúm riờng, đú có thể coi là hai loại hình của văn hoỏ Phùng Nguyờn.
* Nhóm I (loại hình Gũ Bụng): gồm các địa điểm Ô Rô, Thọ Sơn, Phùng Nguyờn,
Gũ Bụng, Chùa Hoàng Long (An Đạo), An Thỏi, Xúm Rền, Gò Thanh Dền, Gò Sỏi (Đụn
Nhân), Nghĩa Lập…Đặc điểm chủ yếu nhóm này: đồ gốm màu đỏ nhiều, màu xám ít;
mặt ngoài thường có một lớp đất mịn, nhẵn bóng. Hoa văn trang trí trên gốm rất phong
phú, nhất là loại hoa văn in vạch, có nhiều đồ án khác nhau như hình chữ S có loại dài, có
loại vuông vắn, có loại nối ngang lưng nhau, có loại nối đuôi nhau…Văn hỡnh mõy cú
niều kiểu dáng phong phú. Ngoài ra cú cỏc loại đồ án khác như chữ X, chữ A, hình lá

cây, hình động vật, hai đường cong song song uốn khúc đều đặn liờn tục (văn hình giun).
Nhìn chung đường nét rất đều đặn, bố cục chặt chẽ, hoa văn in răng lược nói chung nhỏ,
dày, tạo thành những đường cong góy khúc liờn tiếp rất đẹp. Những di chỉ thuộc nhóm
này chủ yếu phân bố trờn cỏc ngọn đồi cao. Các ngọn đồi này thường nằm gần sông hoặc
sát chân đồi là các đầm nước.Mặt đồi bằng phẳng, càng gần đỉnh đồi tầng văn hoá càng
mỏng, càng xuống chân đồi càng dày hơn. [5;71].
* Nhóm II (loại hình Chùa Gio), gồm các địa điểm: Chùa Gio, Khu Đường, lớp dưới
Đồng Đậu, Lũng Hoà, Văn Điển, Đỡnh Xỏ, Nỳi Xõy…Đặc điểm chủ yếu của nhóm này:
gốm có màu xám chiếm nhiều hơn màu vàng hoặc màu vàng xám. Ít thấy có lớp đất mịn phủ
ngoài, mặt gốm không nhẵn bóng. Hoa văn trang trí trên gốm đơn điệu, ít đồ án hoa văn đẹp
như ở nhóm I. Và hoa văn hỡnh mõy ớt về số lượng và kiểu dáng, không đẹp như ở nhóm I.
Ngoài ra chỉ có loại đường song song uốn khúc đều đặn liên tục, hình tam giác xếp ngược
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
chiều nhau do các đường vạch song song tạo nên, Văn in răng lược thô và thưa. Ở nhóm này
thấy vắng mặt văn chữ X, chữ S, hình lá cây, nhưng lại xuất hiện một số đồ án mới như hình
tam giác cuộn, hoa văn in chấm tròn. Những di chỉ thuộc nhóm này thường phân bố trờn cỏc
cánh đồng, gần cỏc sụng lớn hoặc các đầm nước; trên mặt di chỉ có phủ một lớp phù sa dày
20 -30cm. Các di chỉ này chủ yếu phân bố ở vùng đồng bằng [5;71].
Ngoài ra cũn có: Di chỉ Gò Bến Mãi ở thụn Mụng Phụ - xã Đường Lâm – Ba Vỡ–
Hà Tây nằm trên quả đồi nhỏ, có diện tích khoảng 600m
2
. Gò cao hơn mặt ruộng không
quá 1m, ở sát hữu ngạn sụng Tớch, đó được san bằng để trồng lúa một vụ. Từ Hà Nội
theo quốc lộ 11A đến thị xã Sơn Tây, đi ngược độ 1km500 về phía Tây Bắc thì tới di chỉ.
Hiện vật thu được là gốm có chất đất rất thô, bẻ mảnh gốm bên trong có nhiều hạt cát to,
độ nung thấp, gốm bở, hoa văn gồm loại săng lược chải và văn khắc vạch. Mảnh gốm có
số lượng khá nhiều. [5;88]
Thêm nhúm di chỉ nữa được phát hiện là: di chỉ ở quanh thị trấn Nhổn, giữa hai xã
Kim Chung và Kim Hoàng, huyện Hoài Đức – Hà Tây, phân bố trên 5 quả gò lớn: Chiền

Vậy, Chùa Gio (thụn Yên Vệ), Vườn Chuối, Đền Rắn, Đấu Đong (xã Kim Hoàng). Và
nhóm di chỉ được phát hiện thuộc xã Đức Thượng, sân vận động xã Kim Đông (xã Kim
Chung) và một số phụ cận huyện Hoài Đức. Hai nhóm di chỉ này có diện tích tương đối
rộng, khoảng 15000m
2
. Các hiện vật thu được là các loại gốm có hoa văn chải răng lược
và văn khắc vạch, độ nung cao, chất liệu mịn. Và cú thờm loại gốm trang trí văn ô vuông,
văn quả trám, có màu nâu nhạt. Ngoài ra trong nhóm di chỉ này có khá nhiều loại mộ
gạch cổ, bên trong có những đồ gốm giống những chiếc “vũ lùn” trang trí văn ô vuông và
lọ sành tráng men. Tuy nhiên hiện vật đã bị vỡ nhiều mảnh. [5;89].
- Giai đoạn Đồng Đậu: trên cơ sở phân tích mà thấy rằng các di chỉ gốm Đồng
Đậu có sự khác nhau giữa các tầng văn hoá. Đó là:
* Lớp dưới (độ sâu từ 2m trở xuống): chủ yếu là các loại gốm thô, rất mỏng, màu
vàng xám, ngoài có 1 lớp áo phủ mỏng. Miệng loe tròn, loe xiên, miệng hơi bóp và loại
miệng có thành rất thô dày. Hoa văn chủ yếu là văn thừng hoặc chải mịn, văn vòng tròn,
văn chấm dải hoặc văn khắc vạch giữa các đường cong, nét thẳng và chấm ấn, tạo thành
những đồ án phức tạp khác nhau. Về chất liệu, hình dáng gần gũi với đồ gốm ở những di
chỉ Lũng Hoà, Nghĩa Lập, Nỳi Xây thuộc giai đoạn Phùng Nguyờn. Tuy nhiên thấy vắng
mặt những đồ án hoa văn phức tạp, rất đẹp, như: hình chữ S, chữ X và cỏc nhóm vạch,
dải chấm [5;49&50].
* Lớp giữa (độ sâu khoảng 1 -2m): gốm ở lớp này dày và cứng hơn gốm ở lớp
dưới. Có màu xám, chủ yếu là miệng loe. Phong cách trang trí hoa văn trên lớp gốm này
rất độc đáo, bên cạnh văn thừng và chải thô, thấy phổ biến văn khuông nhạc. Đồ án
thường thấy là loại sóng nước, chữ S nối nhau, thừng bện; chữ X, xoáy ốc kép, ô vuông,
tam giỏc…Loại gốm này gần gũi với gốm ở lớp dưới di chỉ Đồng Dền, Cam Thượng (Hà
Tây), Đông Lâm và Từ Sơn (Hà Bắc cũ) [5;50].
* Lớp trên (độ sâu từ 1m trở lên). Gốm ở lớp này cò màu xám, rất dày, có độ nung
cao nên cứng như sành. Phổ biến là miệng góy cú trang trí bên trong thành miệng. Chân
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học

đế nhiều loại thấp hình vành khăn. Chủ yếu là văn thừng thô, chải thô trang trí trên than;
ngoài ra phổ biến văn khắc vạch hình dọc, những đường ngang dọc cắt nhau thành hình
vuụng, ô trám hay 1 dãy chữ V nối nhau giữa. Tuy nhiên đường nét không uyển chuyển
như ở hai lớp trên. [5;50].
Như vậy diễn biến của gốm thuộc di chỉ Đồng Đậu được hình thành với các phong
cách khác nhau, phát triển theo những đặc trưng riêng biệt:
+ Về kỹ thuật chế tạo và độ nung: gốm ở lớp dưới mỏng và mềm hơn, càng lên
trên gốm dày và cứng dần.
+ Về loại hình có sự biến đổi nhất định: miệng có xu hướng loe dần. Lớp dưới
không có loại miệng gãy, lớp giữa hầu như không có, đến lớp trên trở thành phổ biến.
+ Về hoa văn có nhiều nét khác nhau về phong cách, vị trí trang trí: từ lớp dưới lên
lớp trên đồ án hoa văn dần dần đơn giản hoá và mang tính chất hình học (lớp giữa có loại
hoa văn “khuông nhạc” đặc sắc, nhưng lớp dưới và lớp trên không thấy).
- Giai đoạn Gò Mun: Đây là một điểm khảo cổ nằm trọn trên một quả gò, cao hơn
mặt ruộng hiện nay từ 1 -5m, rộng khoảng 15000m
2
, có tầng văn hoá dày , mỏng không
đều (0,3 -1,5m). Các điểm khảo cổ học chủ yếu được khai quật thuộc giai đoạn này là:
Bãi dưới, Đồng Đậu (Vĩnh Phú cũ); Đông Dền, Cam Thượng (Hà Tây); Đình Tràng lớp
trên (Hà Nội); Đụng-lõm, Nội-gầm lớp dưới (Hà Bắc cũ). Đặc điểm gốm giai đoạn này
có độ nung cao, độ dày rất đều, thường khoảng 900
o
C, có mảnh được nung gần thành
sành. Gốm có màu xám xanh, xám mốc. Áo gốm dày, ngoài tác dụng trang trí cũn cú
nhiệm vụ che lấp những hạt sỏi to được pha vào trong xương gốm. Miệng gốm có trang
trí hoa văn bên trong giống như giai đoạn Đồng Đậu và miệng thường được bẻ loe ra,
nằm ngang, rộng bản nờn gúc tạo thành giữa cổ và than thường là góc nhọn. Cỏc hỡnh
loại thường gặp là nồi, bình cổ cao, vò, chậu, âu, bát đĩa, cốc. Chân đế có xu hướng thấp
dần, xuất hiện loại đáy bằng, hình dáng ổn định, thanh thoát. Chúng được sản xuất hang
loạt, có sự kết hợp giữa khuôn mẫu và bàn xoay. Còn hiện vật làm bằng tay cú cỏc loại

như bi, dọi xe chỉ, chì lưới, “chõn giũ” (có đế dày, đặt đứng vững, mặt đáy hay có hoa
văn trang trí đẹp, gồm những hoa văn đắp nổi, chấm lỗ, vạch khắc). Nhìn chung hoa văn
độc đáo và mang tính phổ biến của giai đoạn này là hoa văn nan chiếu, hoa văn khắc
vạch. Tuy nhiên hiện vật nguyên gốm tìm được ở giai đoạn này rất ít, hầu hết chỉ là
những mảnh vỡ được lắp ghép lại. [4; 180 - 183].
- Giai đoạn Đông Sơn: Các hiện vật được tìm thấy rộng rãi ở Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ. Đặc điểm: “kỹ thuật nung tiến bộ, khống chế được nhiệt độ nên người ta chỉ
nung ở mức độ vừa phải để tiết kiệm nguyên liệu” [4;210]. Hoa văn được đơn giản hoá,
chủ yếu là văn thừng và văn chải. Về hình dáng cú thờm loại nồi đáy lồi, đáy bằng, vai có
gờ cao; một số vũ, bỏt có chân đế thấp hình vành khăn, bắt đầu xuất hiện đồ đựng có nắp
đậy. [5;32]. Gốm mịn có tráng men nhưng men xấu khó bảo quản, gốm rất cứng có khi
gần thành sành. Thường gọi là gốm trơn, nhưng cũng có thứ có hoa văn in.
Qua các cuộc khai quật còn thấy được các loại gốm minh khí nhưng thô, bở, xấu
được sản xuất hàng loạt. Ngoài ra cũn cú gốm kiến trúc như gạch ngói.
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
2. Vai trò của đồ gốm trong đời sống kinh tế xã hội thời Hùng Vương dựng nước.
2.1 Đối với kinh tế
Có thể thấy rằng: Nghề gốm đóng vai trò rất quan trọng, làm thay đổi cơ bản về
chất, nâng cao hiệu quả và thóc đẩy mạnh mẽ sự phát triển nền kinh tế xã hội. Đồng thời
tạo nên bước chuyển biến quan trọng trong quan hệ sản xuất - xã hội và dần đưa đến sự
phân công lao động trong xã hội.
Thực tế cho thấy: Chủ nhân thời Hùng Vương dựng nước là cư dân nông
nghiệp.Trong lớp dưới của di chỉ Đồng Đậu đã tìm thấy gạo cháy. Những nơi cư trú
rộng hàng chục mét vuông với tầng văn hoá chứa đầy mảnh gốm cho chúng ta biết về
những làng xóm cổ định cư lâu dài. Những nồi vại lớn, có những chiếc đường kính 70
-80cm, để đựng lương thực thu hoạch được từ nông nghiệp. Người Phùng Nguyên là
người biết chăn nuôi: ở Xóm Rền – Phù Ninh – Vĩnh Phú (cũ), người ta tìm thấy tượng
gà bằng đất nung trong tầng văn hoá này. [5;62]
Ở di chỉ Đồng Vông (Cổ Loa – Hà Nội) người ta tìm thấy nhiều chì lưới, thể hiện

nghề đánh cá phát triển [5;63].
Trong cuộc khai quật ở An Đạo do cán bộ khảo cổ học của viện bảo tàng lịch sử
và Viện sử học tiến hành đầu năm 1967, đã tìm thấy cỏi chừ xụi thời Hùng Vương [6;71].
Như vậy, cùng với sự phát triển của các đồ đựng, các dụng cụ bằng gốm đã góp phần
nâng cao, cải thiện đời sống cư dân dưới thời Hùng Vương. Đây chính là những cơ sở,
tiền đề quan trọng góp phần hình thành, phát triển ngành gốm nói riêng cũng như các
ngành kinh tế khác ở các thời đại sau.
2.2 Đối với đời sống xã hội
Dưới thời Hùng Vương, nghề gốm phát triển đã tạo điều kiện làm cho đời sống xã
hội con người tăng lên: Chủ nhân văn hoỏ Phùng Nguyên đã biết đan rất đẹp, các dấu
nan còn in lại trên đồ gốm đã xác nhận điều đó. Các dấu dây in trên gốm cũng chứng tỏ
họ đã xe được các loại thừng to và chỉ nhỏ , phát hiện được nhiều dọi xe chỉ trong thời kì
này [5;63]. Chứng tỏ đời sống vật chất của cư dân người Việt cổ đã nâng cao rõ rệt.
“Ở Gũ Bụng (Tam Nông – Vĩnh Phúc) xuất hiện nhiều đồ gốm có chất liệu mịn không
pha cát, thành gốm mỏng, da gốm đen bóng, có trang trí hoa văn khắc vạch rất đẹp, trờn
cỏc nột vạch trang trí lại được phủ thêm một lớp bột trắng làm cho các hình trang trí
càng nổi lên trên nền đen và làm cho đồ gốm vừa duyên dáng vừa trang trọng. Loại gốm
này tìm thấy rải rác với tỉ lệ ít trong một vài địa điểm của văn hoỏ Phùng Nguyờn”
[5;63]. Điều này đã chứng tá đời sống vật chất không những được nâng lên mà đời sống
tinh thần cũng rất phong phó.
3. Tiểu kết
Như vậy, con người thời Hùng Vương đó có đóng góp rất lớn những sản phẩm đồ
gốm có giá trị không chỉ cho đời sống của chính mình, cho đất nước mà còn cho cả thế hệ
sau này. Cùng với sự phát triển của kinh tế cũng như việc cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần thì cư dân thời Hùng Vương nói riêng và cư dân thời đại dựng nước nói chung
đã góp phần làm thay đổi bước đầu quan hệ cộng đồng nguyên thuỷ.
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
C - KẾT LUẬN CHUNG
1. Kết luận.

Có thể thấy rằng trên cơ sở những di vật đồ gốm cũng như sự phát triển của đồ
gốm thời Hùng Vương dựng nước, lịch sử thời kì này đã thống nhất các giai đoạn phát
triển văn hoá để tiến tới trình độ cao hơn. Lịch sử Hùng Vương thực sự là kết quả của
một quá trình phát triển lâu dài hàng nghìn năm lịch sử dân tộc ta, đánh dấu nét đỉnh cao
của tổ tiên ta về thời đại buổi đầu dựng nước của dân tộc.
2. Hướng nghiên cứu tiếp
Lịch sử thời Hùng Vương dựng nước là vấn đề lịch sử to lớn và quan trọng cần
chúng ta nghiên cứu để từ đó có hướng bảo tồn những thành tựu mà thời kì này đã mang
lại. Đề tài nghiên cứu này có thể với phạm vi còn rộng nên người viết không tránh khỏi
nhiều hạn chế, chỉ xin nêu ra những hướng có thể nghiên cứu tiếp theo sau đây:
- Sự phát triển kinh tế nông nghiệp lúa nước thời Hùng Vương dựng nước.
- Đồ sắt- bước tiến quan trọng trong thời đại dựng nước
- Nghề gốm trong văn hoá Đông Sơn
- Kinh tế đồ đồng trong văn hoỏ Đụng Sơn
Với những hướng nghiên cứu trên, người viết đặt nhiều hi vọng về sự nghiên cứu
mới từ các thế hệ sau để góp phần làm phong phú thêm kho tri thức buổi đầu dựng nước
cũng như lịch sử chung dân tộc.
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên) - Đại cương lịch sử Việt Nam (tập I) – NXB Giáo
dục – Hà Nội 2003.
2. Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí (Tập I) – NXB Sử học – HN 1960-
1961.
3. Ngô Sĩ Liên - Đại Việt sử kí toàn thư – NXB KHXH – HN 1967-1968.
4. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Diệp Đình Hoa – Cơ sở khảo cổ học – NXB ĐH –
Trung học chuyên nghiệp – HN 1975.
5. UB KHXH Việt Nam (Viện khảo cổ học) - Kỉ yếu của hội nghị nghiên cứu thời kỡ
Hựng Vương (tập II)- “Hùng Vương dựng nước” – NXBKH – HN 1972.
6. Nguyễn Linh - Về sự tồn tại của nước Văn Lang - Tạp chí nghiên cứu lịch sử - HN,

số 112 T7/ 1968.
7. Một số vấn đề về văn hoỏ Phùng Nguyờn - Tạp chí nghiên cứu lịch sử - HN, số 112
T7/1968.
8. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) – Cơ sở văn hoá Việt Nam – NXB Giáo dục – HN 1997.
9. Văn Tâm (Chủ biên) - Thời đại Hùng Vương – NXB KHXH - HN 1973.
10. Nguyễn Đăng Duy – Văn hoá Việt Nam buổi đầu dựng nước – NXB HN 2002.
11. C. MAC – Lý luận giá trị thặng dư – NXB CTQG - Mạc tư khoa 1956.
12. Đặng Phong – Kinh tế thời nguyên thuỷ ở Việt Nam – NXB KHXH – HN 1970.
13. Nguyến Khắc Thuần - Thế thứ các triều đại vua Việt Nam – NXB Giáo dục 1997.
14. Việt Nam học - Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ I (15 -17/7/1998) - tập II – NXB
Thế giới 2000.
15. Phạm Văn Đấu, Võ Thanh Hà - Những nền văn hoá khảo cổ tiêu biểu ở Việt Nam –
NXB VHTT 2006.
16. Các tạp chí Kiến thức ngày nay (số 256 – phát hành ngày 1/9/1997) và Thế giới
mới (số 89 năm 1994).
17. Các Website:
http:// www.google.com.vn (mục khảo cổ học và lịch sử Hùng Vương).
/> ……………
Bài tiểu luận Trần Thị Hương Trà - K54A Việt
Nam học
MỤC LỤC
Trang

×