Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thời kỳ Hùng Vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.03 KB, 16 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. Tổng quát về thời kỳ Hùng Vương
Thời các vua Hùg dựng nước với quan niệm là một thời kì lịch sử
đầu tiên dưới 2000 năm trong khoảng thiên nien kỉ thứ 2 và thứ 1 trước
công nguyên, là cả một quá trình biến đổi sâu sắc về mặt xã hội, đó là lúc
xã hội nước ta từ chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã quá độ dần sang xã
hội có giai cấp sơ kì với một hình thái nhà nước sơ khai nào đó. Đồng
thời đó cũng là quá trình phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất. Quá trình
xây dựng nền văn hoá cổ đại Việt Nam và hình thành cộng đồng quốc gia
đầu tiên. Những chuyển biến và thành tựu đó thể hện một bước tiến hết
sức quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Đó là bước
tiến từ thời đại mông muội và dã mang sang thời đại văn minh, bước vươn
lên về mọi mạt của tổ tiên ta đặt cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của
quốc gia dân tộc sau này.
Cùng với sự phát triển vượt bậc về mặt kinh tế với một nền nông
nghiệp trông lúa nước. Đã kéo theo những thay đổi về trong đời sống văn
hoá của người Việt cổ thời kì Hùng Vương. Lĩnh vực văn hoá đảm bảo
đời sống nói chung cụ thể là cách ăn, mặc, ở, đi lại của người Việt cổ đã
phản ánh rõ nét lối sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, ở vùng
nhiệt dời gió mùa trong một môi trường nhiều đầm, hồ, sông, nước.
Nguồn lương thực chính của cộng đồng cư dân là thóc gạo, trong đó chủ
yếu là gạo nếp. Thức ăn bao gồm các loại rau củ, bầu, bí, cá, đậu… và các
sản phẩm của nghề đánh cá, chăn nuôi, săn bắn… Ngươi Việt có tục ăn
trầu nhuộm răng đen và xăm mình, thường ngày nam đóng khố, nữ cởi
trần mặc váy đi chân đất. Cả nam lẫn nữ đều ưa dùng đồ trang sức làm
bằng đá và đồng thau. Làng Việt thời kì này là những cong xã nông thôn.
Mọi công xã nông thôn là một tập hợp của một số gia đình hạt nhân gắn
kết với nhau theo cả quan hệ láng giếng lẫn dòng máu, sóng quây quần lại
trong một khu vực và thường có rào tre bảo vệ. Nhà của họ thường là nhà
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


sàn làm bằng gỗ, tre nứa là. Người Việt chủ yếu đi lại bằng thuyền, bè,
mảng trên sông suối.
Trong lĩnh vực văn hoá tinh thần. Cư dân thời Hùng Vương đã đạt
đến một trình độ thẩm mỹ, tư duy khá cao, kết hợp những hình thức tín
ngưỡng phức tạp, đan xen giữa tàn dư tín ngưỡng nguyên thuỷ với tín
ngưỡng về thời đại kim khí và nông nghiệp lúa nước.
Tín ngưỡng chủ yếu và phổ biến của người Việt cổ là sùng bái tự
nhiên như thờ thần Mặt trời, thần sông, thần núi… và tục phồn thực với
những nghi lễ cầu mong được màu, các giống loài sinh sôi nảy nở. Đồng
thời đã sản sinh ra tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sùng bái anh hùng thủ
lĩnh, tục lệ cưới xin ma chay.
Nghệ thuật thời k Hùng Vương là nghệ thuật thực dụng mà người
thợ thủ công là hững nghệ nhân dân gian. Nhiều đồ trang sức công cụ vũ
khí lúc này đều là những tác phẩm nghệ thuật, nghệ thuật tạo hình Đông
Sơn phản ánh cuộc sống hiện thực bằng phong cách diễn tả sinh động, bố
cục cân xứng hài hoà. nghệ thuật âm nhạc, máu, nhảy cũng khá phát triển
và giữ vị trí quan trọng trong sinh hoạt văn hoá của người Việt cổ.
Lễ hội nhất là hội mùa là đỉnh cảo của sinh hoạt văn hoá cộng đồng.
Hội làng thường được tổ chức và mùa thu trong đó ngoài nghi lễ nông
nghiệp cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa mang phong đáng, sinh sản
thịnh vượng. Người ta tổ chức các hoạt động vui chơi, văn nghẹ, thể thao
rất hồn nhiên phong phú.
Di vật tiêu biểu của nền văn hoá Đông Sơn, văn minh sông Hồng là
trống đồng. Trống đồng là một nhạc khí được sử dụng trong lễ hội, hội hè,
trống đồng là một tượng trưng cho quyền uy của Tù trưởng, dùng để chôn
theo người hay có thể là một loại hàng hoá có giá trị, dùng để mua bán
đổi trác, trống đồng với những hoạ tiết phong phú sinh đọng trên mặt
trống và tang trống còn có giá trị như một bộ sử bằng hình ảnh, phản ánh
cuộc sốg lao động, chiến đấu và những hình thức tín ngưỡng vui chơi của
cư dân Hùng Vương.

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Văn minh sông Hồng với biểu tượng là trống đồng Đông Sơn là sản
phẩm lao động sáng tạo của nhân dân ta từ buổi bình minh của lịch sử kết
tinh trong đó là bản lĩnh lối sống của người Việt cổ đã tạo nên trong thời
đại dựng nước và giữ nước của dân tộc.
II. Trống đồng đông sơn.
Các nghiên cứu khảo cổ học đã cho thấy có rất nhiều loại trống
đồng Đông Sơn. Tuy nhiên trống đồng Ngọc Lũ có thể xem là đỉnh cao
nhất của trống đồng Đông Sơn.
Khoảng năm 1893-1894, Nguyễn Văn ý và Nguyễn Văn úc, cùng
một số người ở xã Ngọc Lũ - Bình Lục - Hà Nam đi đắp đê Tần Thuỷ ở xã
Như Trác - Nam Xang (nay là Lý Nhân) thuộc hữu ngạn sông Hồng, cách
Ngọc Lũ hơn 30 km về phía Đông Bắc. Khi đào ở độ sâu 2m, các ông phát
hiện một trống đồng và một nắp thạp úp trong lòng trống. Những hiện vật
này được đem về cúng ở đình làng Ngọc Lũ.
Ngày 16/11/1902 hai hiện vật này được trưng bày tại nhà đấu xảo
Hà Nội. Sau đó được trường Viễn Đông Bắc Cổ Hà Nội mua lại. Hiện nay
được lưu tại bảo tảng Việt Nam. Trống được bảo quản tương đối nguyên
vẹn. Bên ngoài được phủ một lớp Patin màu xanh xám.
Trống có hình dáng khá cân đối, mặt hơi tràn ra phía ngoài tang một
ít, tạo thành đường gờ nổi ở giưqã mặt và tang trống. Đường kính mặt
trống là 79cm; cao 63cm. Thân trống chia làm 3 phân: tay phình ra, nối
liền với mặt trống, lưng hình trụ thẳng đứng; chân hơi dọc thành hình nón
cụt.
Hoa văn có 2 loại: hoa văn hình học và hoa văn hình người, hình
động vật.
a. Mặt trống:
Chính giữa mặt là hình ngôi sao nổi 14 cánh, xen giữa các cánh là
những hình lông công. Từ trong ra ngoài có 16 hình hoa văn. Vành 1, 5,

11, 16 là những chấm dài. Vành 2, 4, 7, 9 ,12,14 là những vòng tròn chấm
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giữa có iếp tuyến. Vành 12, 16 là những văn răng cưa xen giữa các răng
cưa còn có hai hàng chấm nhỏ. Vành 6, 8, 10 là hình người, động vạt diễu
quanh các ngôi sao theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Vành 6 chia
thành 2 phần đối xứng và gần giống nhau. Mỗi phần lại có thể chia làm 5
nhóm:
-Nhóm 1:
Từ trái sang phải là một hàng 6 hoặc 7 người múa trang sức lông
chim, đầu đội mũ cao trên đầu có mắt như hình lông chim. Một người ở
dãy 7 người đội mũ mặc váy dài, có hai mặt toả ra hai phía, có dáng như
vừa đi vừa múa. Có người tay cầm rìu, có người thổi kèn, có người cầm
giáo, mũi giáo quay trở xuống, cán giáo cũng trang trí bằng lông chim.
Còn lại 3, 4 người thì xoè tay ra giống như đang múa.
-Nhóm 2:
Đây là những ngôi nhà có mái tròn. Hai bên là hai trụ đứng có chắn
phên. Đứng giữa cửa có một người ăn mặc sơ sài, tóc búi, tay cầm một vật
không rõ hình dạng. Hai bên là nhữn dãy vòng tròn chấm giữa.
-Nhóm 3.
Là một người quay mặt về phía mái nhà tròn, bỏ tóc xoã, mặc váy,
tay cầm một vật không rõ tên. Trên mình có một vòng tròn chấm giữa.
Trên đầu có một con chim đang bay giống hình chim ở vành 9. Tiếp dó là
một cặp 2 người quay mặt vào nhau, một người tóc xoã, mặc váy, trên
mình có một vòn tròn chấm giữa, người kia thì đóng khó, búi tóc. Đây là
một đôi trai gái đang cầm chày giưa vào một chiếc cốt. Đầu chày có trang
trí hình lông chim.
-Nhóm 4:
Là một cái nhà sàn hình thang. Nóc nhà cong lên như hình thuyền.
Hai đầu vểnh lên giống như hình chim mỏ to. Hai bên nhà có cột chống

đỡ. Nóc nhà có 2 hình chim đâu. Một con giống như công, một con giống
gà trống. Mái nhà trang trí bằng 2 đường tua rải xuống như kiẻu nhà tranh
xén bằng. Hồi nhà bên trái trang trí bằng những đường ốc soắn hình tam
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giác. ở giữa và ở dưới nhà có những vạch ngang giống như những bậc
thang để chèo lên nhà, giống như kiểu nhà sàn của đồng bào Tây Nguyên,
trong nhà có hai người quay mặt vào nhau bỏ tóc xoã sau lưng tay cầm
một vật không rõ hình dạng. Những người này ăn mặc rất sơ sài gần như
loã thể dưới nền nhà phía bên trái có một vật hình chiêc cối. Phía bên phải
có một vật giống chiếc trống đồng nằm ngang. ở bên phần đối xứng nóc
nhà chỉ có một con công đậu. Trong nhà chỉ có hai người quay mặt vào
nhau, tóc xoã sau lưng tay cầm một vật không rõ hình dạng, ở hai phía hồi
nhà đều có trang trí hình xoắn ốc dưới nền nhà phía trái cạnh một cột
chấm có một hình trống đồng nằm ngang. Bên phải có một người xoã tóc
sau lưng hình như đang đánh một chiếc trống đồng nhỏ đây là loại nhà sàn
nó còn lưu vết tích của những ngôi đình của đồng bào Việt cổ ở đồng
bằng Bắc bộ.
-Nhóm 5:
Ngay sát nhà trên là một cái nhà sàn có cột chống, hiện nay ở một
số vùng đồng bào dân tộc ít ngưởi ở Việt Nam bên cạnh nhà sàn còn có
một chiếc sàn nằm phơi ra ngoài trời trên sàn có 4 người, mộ người búi
tóc đứng quay mặt về phía nhà sàn, ba người ngồi tóc xoã quay lưng lại
phía nhà sàn. Tất cả đều ăm mặc sơ sài, tay cầm gậy dài chấm sản. Dưới
sàn và ngay dưới chỗ đầu gậy có hình 4 vật giống hình trống đồng đặt lên
một cái ghế ôm lấy phần thân trống. Phía dưới đế có một rãnh nhỏ chia đế
thành hai mảnh bằng nhau khắp mặt và đế trống đều có những chấm nhỏ.
ở phần đối xứng thì cả 4 người đều quay lưng lại phía nhà, tóc bỏ
xoã sau lưng, ăn mặc đơn giản.
Vành 8 gồm có 2 nhóm hiêu, mỗi nhóm 10 con cách nhau là hai

nhóm chim chim bay, một nhom 6 con và một nhóm 8 con. Hình hiêu xen
kẽ cứ một con đực lại đến một con cái mặt hiêu đều là những vòng tròn
chấm giữa đều có sừng mình dài, cổ và mình đều có những chấm nhỏ như
loại hươu sao. Hình chim là loại chim mỏ to đầu to đuôi ngắn, mắt chim
đều là những vòng tròn có chấm giữa.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vành 10 có 36 chim gồm hai loại xen kẽ nhau, 2 con bay và 2 con
đâu, mỗi loại có 18 con, chim bay là loại có mỏ dài, có mào, đuôi và chân
dài, thân gầy guộc họ cò, sếu hoặc vạc. Chim đậu có nhiều loại to nhỏ
khác nhau. Nhìn chung là loại chim nước. Chim mỏ ngắn vểnh lên, chim
mỏ dài chúc xuống. Phần đông là chim ngậm mồi. Có con cổ dài như vịt
trời, chim đậu đều có đuôi ngắn mắt đen đều là những vòng tròn chấm
giữa. Một số chim bay còn có một hoặc hai vòng tròn chấm giữa trang trí
ở lưng và cổ.
Ngoài những vành hoa văn kể trên, ở rìa mặt trống còn có một số
vết lóm có lẽ là do các con kê.
b. Thân trống.
Phần trên của tang nơi tiếp giáp với mặt là 6 băng hoa văn hình học.
Từ trên xuống dưới các băng 1, 6 có những chấm nhỏ xen kẽ bằng 3, 4 là
những vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối với nhau bằng những tiếp tuyến
song song. Băng 7, 8 là 6 hình thuyền đi theo hướng từ phải sang trái xen
giữa là những hình chim đứng, chim có từ 2 đến 3 con. Có chỗ 2 con chim
quay mặt vào nhau hoặc chim nhỏ đứng trên lưng chim lơn. Nhìn chung
chim này cũng thuộc họ cò, sếu chân cao, có mào mỏ dài, đuôi ngắn hoặc
dài. Cũng có những con chim mỏ ngắn ngậm mồi giống như ở vành 10
mặt trống. Có con mỏ dài và cong phía giữa phình rộng ra, có một con mỏ
hình chúc xuống như chiếc vòi hình thoi. Đó là sự tách điệu hình cò ngậm
cá.
6 chiếc thuyền gần giống nhau đều có dạng hình vòng cung đầu và

đuôi thuyền uốn cong lên trang trí hình đầu chim. Đầu và đuôi thuyền đều
có hình bánh lái. Mũi thuyền dạng hình vòng tròn đồng tâm có chấm giữa
làm mắt lại có một vật gần giống hình chiếc mỏ neo. Chỉ có một chiếc
thuyền không có hình bánh lái mũi, vì có hình chim thay thế. Đầu thuyền
trang trí nhiều hình rối rắm kỳ lạ. Đó có thể là hình một con chim bay vào
miệng một con chim há mỏ được tượng trưng bằng mũi thuyền. Hình này
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×