Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Thực trạng Quỹ hưu trí tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.04 KB, 30 trang )

0

MỤC LỤC Trang

Lời mở đầu
03
PHẦN I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ QUỸ HƯU TRÍ
05
1.1 Khái niệm quỹ hưu trí
05
1.2 Quá trình hình thành và phát triển
06
1.3 Mục đích thành lập
08
1.4 Cách thức tạo lập
09
1.5 Hình thức hoạt động quỹ hưu trí
09
1.6 Quỹ hưu trí đối với thị trường tài chính phi ngân hàng
11
PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUỸ HƯU TRÍ VN
14
2.1 Nội dung hoạt động quỹ hưu trí Việt Nam
14
2.2 Kết quả hoạt động quỹ hưu trí Việt Nam
15
Website:

2
2.3 Thách thức đối với quỹ hưu trí Việt Nam
16


2.4 Nguy cơ mất cân đối quỹ hưu trí ở Việt Nam
16
2.5 Nguồn quỹ hưu trí sắp cạn kiệt
19
2.6 Vấn đề liên quan đến quỹ hưu trí tự nguyện
22
PHẦN III: TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CÁC QUỸ HƯU TRÍ
26
3.1 Triển vọng phát triển quỹ hưu trí trên thế giới
26
3.2 Triển vọng phát triển quỹ hưu trí ở Việt Nam
27
3.3 Kiến nghị
29 LỜI MỞ ĐẦU

Các quỹ hưu trí là một phần quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội
của các quốc gia. Davis (1995a) trong một nghiên cứu của mình đã định
nghĩa: "Các Quỹ hưu trí là một dạng nhà đầu tư có tổ chức, tiến hành thu, tập
hợp và đầu tư các khoản đóng góp của người sử dụng lao động và người lao
động để phục vụ cho các lợi ích khi nghỉ hưu của người lao động".
Quá trình lão hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra rất nhanh và một tỷ
trọng lớn dân số sẽ không còn được hưởng trợ cấp xã hội trong tương lai. Với
các điều kiện hiện tại, dự báo quỹ lương hưu sẽ cạn kiệt vào năm 2029.

3
Khuyến nghị trên là một phần báo cáo do ILO (tổ chức lao động Quốc
tế) công bố tại hội thảo “Đánh giá tài chính Quỹ Hưu trí ở Việt Nam - Kết quả
dự báo và những khuyến nghị” do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(LĐTB&XH) cùng ILO vừa tổ chức tại Hà Nội.
Theo báo cáo của ILO, chỉ khoảng 20% lực lượng lao động tham gia

bảo hiểm xã hội ở Việt Nam (theo số liệu năm 2009, có 9,3 triệu người đóng
góp cho quỹ hưu trí và tử tuất trong tổng số 48,5 triệu người trong độ tuổi lao
động). Tỷ lệ này có thể tăng trong thời gian trước mắt khi Việt Nam đang
bước vào “thời kỳ dân số vàng” với số người trong độ tuổi lao động (từ 15
tuổi trở lên) chiếm tới 58,5% cơ cấu dân số (số liệu năm 2010). Tuy nhiên,
quá trình lão hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra rất nhanh và một tỷ trọng
lớn dân số sẽ không còn được hưởng trợ cấp xã hội trong tương lai.
“Quỹ lương hưu sẽ bắt đầu thâm hụt từ năm 2020 và sẽ hoàn toàn cạn
kiệt vào năm 2029. Đây sẽ là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt
Nam” - ông Carlos Galian, chuyên gia của ILO tại Việt Nam cho biết. Cũng
theo chuyên gia, chế độ hưu trí hiện tại được đánh giá còn nhiều bất cập, thể
hiện ở tuổi về hưu tương đối sớm, đặc biệt là đối với nữ giới, và một bộ phận
người lao động được phép về hưu trước tuổi quy định, trong bối cảnh tuổi thọ
trung bình được nâng cao và tỷ lệ sinh giảm rõ rệt.
Đứng trước thực trạng vấn đề trên nhóm 1 lựa chọn đề tài: “Thực trạng
hoạt động và triển vọng phát triển của các quỹ hưu trí ở Việt Nam hiện nay”.
Đây cũng là chủ đề đang rất nóng trên các trang báo thông tin truyền
thông và cũng là chủ để được thảo luận của nhân dân và các phiên họp thường
kỳ của quốc hội khi đưa ra chủ trương phát triển quỹ hưu trí tự nguyện ở nước
ta hiện nay.
Website:

4
Bố cục của đề tài này gồm 3 phần chính bao gồm:
Phần I: Lý thuyết chung về Quỹ hưu trí
Phần II: Thực trạng hoạt động Quỹ hưu trí ở Việt Nam
Phần III: Triển vọng phát triển Quỹ hưu trí Việt Nam
















PHẦN I

5
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ QUỸ HƯU TRÍ

1.1 Khái niệm quỹ hưu trí
Các quỹ hưu trí cho phép các cá nhân tích lũy các khoản tiết kiệm của
mình trong suốt thời gian làm việc nhằm đảm bảo cho những nhu cầu tiêu
dùng khi về hưu dưới dạng chi trả một khoản tiền trọn gói, hoặc những khoản
tiền cố định hàng tháng. Ngoài ra, các quỹ hưu trí còn tạo nguồn vốn cho
những người/tổ chức có nhu cầu như các doanh nghiệp, các hộ gia đình và
Chính phủ dưới dạng các khoản đầu tư hoặc tiêu dùng.
Trong bản Hướng dẫn về cấp phép cho các quỹ hưu trí của Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năm 2008, quỹ hưu trí được định nghĩa
là một tập hợp tài sản được đóng góp vào quỹ nhằm mục đích tài trợ cho
những lợi ích hưu trí của người hưởng lợi (beneficiaries). Các thành viên của
quỹ có quyền lợi hợp pháp đối với các tài sản của quỹ.
Các quỹ hưu trí có thể được tổ chức dưới dạng một quỹ tín thác (một

quỹ độc lập có tư cách pháp nhân) hoặc một quỹ không có tư cách pháp nhân
do một Công ty quản lý quỹ (QLQ) hoặc một tổ chức tài chính thay mặt cho
các thành viên của quỹ quản lý. Các quỹ hưu trí thường được đóng góp bởi
người sử dụng lao động (các công ty, tập đoàn, hoặc công đoàn) và người lao
động. Tài sản của quỹ có thể được quản lý nội bộ hoặc được thuê quản lý. Các
khoản chi trả cho thành viên của quỹ hưu trí phụ thuộc vào tình hình thị
trường tài chính hoặc tỷ lệ sinh lời tùy thuộc vào mô hình của quỹ là đóng góp
xác định (DC) hay có mức hưởng xác định (DB).
Website:

6
Các quỹ hưu trí đã phát triển rất mạnh mẽ trong những năm gần đây ở
nhiều nước, cả về quy mô so với GDP và so với hệ thống ngân hàng. Do các
khoản đóng góp vào quỹ thường không được phép rút ra sớm, nên quỹ hưu trí
luôn có nguồn tài sản dài hạn để đầu tư và nắm giữ các tài sản tài chính, kể cả
những tài sản có độ rủi ro cao và tỷ lệ lợi nhuận cao. Thông thường, tài sản
của các quỹ hưu trí được dùng để đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu chính phủ
(TPCP), bất động sản (BĐS), tài sản nước ngoài, các công cụ trên thị trường
tiền tệ và các khoản tiền gửi.
1.2 Quá trình hình thành và phát triển
Thời kỳ trước năm 1945
Việt Nam chưa có pháp luật về BHXH, do đất nước bị giặc ngoại xâm
đô hộ, đời sống nhân dân khổ cực, khi gặp rủi ro, hoạn nạn sự hỗ trợ giúp đỡ
chủ yếu dựa vào truyền thống tương thân, tương ái cưu mang của gia đình,
dòng họ, bản làng, “lá lành đùm lá rách” (có thể coi là một hình thức BHXH
sơ khai). Thời kỳ từ năm 1945 – 1954
Tháng 08/1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Tháng
12/1946, Hiến pháp đầu tiên đã xác định quyền được trợ cấp của người tàn tật
và người già. Ngày 12/03/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29/SL
quy định chế độ trợ cấp cho công nhân. Ngày 20/05/1950, Người tiếp tục ký

02 Sắc lệnh số 76, 77 quy định về chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
hưu trí cho cán bộ, công nhân viên chức. Do trong hoàn cảnh kháng chiến nên
việc thực hiện chế độ BHXH còn hạn chế, tuy nhiên đó là cơ sở cho sự phát
triển của BHXH sau này.
Giai đoạn miền Bắc được giải phóng, xây dựng CNXH, pháp luật
BHXH được hình thành và phát triển nhanh. Ngày 27/12/1961, Điều lệ
BHXH tạm thời được ban hành. Đây là văn bản gốc về BHXH đối với cán bộ,

7
công nhân viên chức Nhà nước, gồm có 06 chế độ và quy định Quỹ BHXH
nằm trong ngân sách nhà nước, do các cơ quan, đơn vị đóng góp. Đến năm
1964, Điều lệ đãi ngộ đối với quân nhân được ban hành. Trong khi đó tại
miền Nam, BHXH cũng được thực hiện đối với người làm công, ăn lương và
binh lính làm việc cho chính thể chính quyền cũ.
Thời kỳ từ 1975 – đến trước 1995
BHXH được thực hiện thống nhất trong cả nước. Các chế độ, chính
sách BHXH trong thời kỳ này được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc điểm của BHXH giai đoạn này, là gắn
với nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp; đối tượng chủ yếu là cán bộ,
công nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang; nguồn chi trả các chế
độ từ ngân sách nhà nước thường chậm, thiếu chủ động, tổ chức bộ máy thực
hiện phân tán. Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
các chế độ BHXH, cũng như mô hình quản lý BHXH, không còn phù hợp nên
cần thiết phải sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, chính sách BHXH trong thời kỳ
này đã góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và
đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam.
Thời kỳ từ năm 1995 – 2006
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chính sách BHXH đổi mới,
phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Bộ Luật Lao động được ban hành, có hiệu lực thực hiện từ

01/01/1995, dành 01 chương về BHXH, quy định về đối tượng được mở rộng;
hình thành Quỹ
BHXH độc lập với ngân sách nhà nước, do sự đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước; thành lập cơ quan chuyên
Website:

8
trách để quản lý Quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH. Ngày
16/02/1995, chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt
Nam, trên cơ sở thống nhất chức năng, nhiệm vụ về BHXH của Bộ LĐ-
TB&XH và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Về chính sách BHXH,
Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP kèm theo Điều lệ BHXH áp dụng
cho cán bộ, công nhân viên chức và người lao động làm việc trong các thành
phần kinh tế. Ngày 15/07/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/CP kèm
theo Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan,
binh sĩ quân đội nhân
dân và công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu.
Thời kỳ từ năm 2007 đến nay
Ngày 29/06/2006, Quốc hội thông qua Luật BHXH, có hiệu lực thi
hành từ 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc; từ ngày 01/01/2008 đối với
BHXH tự nguyện; từ 01/01/2009 đối với BHTN. Các quy định của Luật
BHXH về chế độ hưu trí được kế thừa từ các quy định trước đây; có phát
triển, mở rộng về đối tượng, loại hình BHXH tự nguyện… Các chế độ BHXH
được quy định cụ thể có lợi hơn cho người lao động như quy định chặt chẽ về
quản lý, sử dụng, đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH, trách nhiệm của các bên
tham gia BHXH, quản lý, giám sát việc quản lý và Quỹ BHXH công khai,
minh bạch, góp phần bảo đảm An sinh xã hội.
1.3 Mục đích thành lập
Giúp cho người lao động khi về hưu có được những khoản thu nhập ổn
định thông qua cung cấp các chương trình lương hưu (pension plans). Các

chương trình lương hưu này quy định những khoản đóng góp định kỳ của
những người tham gia vào chương trình trong thời gian những người này còn

9
đang làm việc để khi về hưu họ sẽ được nhận tiền trợ cấp hưu trí (hay lương
hưu) được trả một lần khi về hưu hoặc trả định kỳ đều đặn cho tới khi chết.
Các chương trình lương hưu không chỉ được đóng góp bởi những người
lao động mà cả các chủ thuê lao động và thậm chí là chính phủ.
Các khoản tiền quỹ trợ cấp hưu trí thu được dùng để đầu tư nhằm đạt
được mức sinh lời nhất định trong khi vẫn đảm bảo an toàn cho khoản vốn.
Do số tiền mà các quỹ phải chi trả hàng năm có thể dự đoán với độ chính xác
cao nên quỹ thường đầu tư số tiền nhàn rỗi của mình vào các công cụ đầu tư
dài hạn như: cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay mua trả góp bất động sản…
Ngoài ra, các quỹ này còn đầu tư vào các tài sản tài chính có độ rủi ro thấp
như: tiền gửi ngân hàng, các loại kỳ phiếu do ngân hàng phát hành.
=> Do vậy hoạt động của các quỹ hưu trí không chỉ đảm bảo khoản thu
nhập thường xuyên ổn định cho những người hưu mà còn góp phần lưu
chuyển vốn nhàn rỗi đến những nơi có nhu cầu về vốn.
1.4 Cách thức tạo lập <PHẦN ĐÃ SỬA>
Các chương trình lương hưu được chia làm hai cách thức tạo lập sau:
Loại căn cứ vào mức độ đóng góp (A defined – contribution plan): là
chương trình lương hưu trong đó số tiền nhận được của những người tham gia
phụ thuộc vào số tiền đã đóng góp và khoản tiền lời từ việc đầu tư các khoản
đóng góp đó.
Loại căn cứ vào mức độ trợ cấp (A defined – benefit plan): là chương
trình lương hưu trong đó số tiền người tham gia được hưởng khi về hưu được
xác định không căn cứ vào mức độ đóng góp, mà vào thời gian làm việc và
mức lương của người đó. Loại chương trình này có hạn chế là có thể xảy ra
Website:


10
trường hợp số tiền mà người tham gia đóng góp không đủ để trả cho số tiền
mà họ sẽ nhận được sau khi về hưu.
Ngoài ra các chương trình lương hưu còn quy định thời gian tối thiểu
phải tham gia đóng góp hoặc số năm tối thiểu phải làm việc tại một công ty để
được nhận lương hưu từ quỹ trợ cấp hưu trí của công ty đó.
Sự phát triển của các quỹ trợ cấp hưu trí nhận được sự hổ trợ tích cực từ
phía chính phủ thông qua các chính sách ưu đãi về thuế. Ví dụ: Các khoản
đóng góp vào chương trình lương hưu của cả người lao động và chủ thuê lao
động đều được miễn trừ thuế thu nhập. Ở nhiều nước như Đức, Nhật, Mỹ
Chính phủ còn cam kết tài trợ để số tiền lương tối thiểu lên tới một mức nhất
định. 1.5 Hình thức hoạt động Quỹ hưu trí <PHẦN ĐÃ SỬA> Các quỹ trợ
cấp lương hưu hoạt động dưới 2 hình thứ:
Thứ nhất: Là các chương trình trợ cấp hưu trí tư nhân:
Các chương trình này do các công ty thành lập nhằm mục đích hỗ trợ
cho những người lao động trong công ty, sẽ do một ban quản lý quỹ chịu trách
nhiệm điều hành bao gồm: các hoạt động thu tiền đóng góp, chi trả lương hưu
và thực hiện việc đầu tư bằng nguồn vốn quỹ. Các chương trình này cũng có
thể được ủy thác cho các ngân hàng hoặc công ty bảo hiểm nhân thọ quản lý.
Hoạt động của các chương trình này luôn gặp rủi ro không đủ tiền để
trả lương do khoản đóng góp không đủ để tài trợ cho việc chi trả (với trường
hợp lương hưu được xác định không căn cứ vào mức độ đóng góp) hoặc do
yếu kém trong việc đầu tư gây thất thoát tiền quỹ. Chính vì vậy, Luật các
nước thường quy định việc báo cáo định kỳ theo những tiêu chuẩn nhất định
về hoạt động của các quỹ, đưa ra những quy định về số năm tối thiểu phải
tham gia chương trình, những giới hạn về phạm vi được đầu tư của quỹ, cũng
như giao trách nhiệm giám sát cho một cơ quan chức năng (ví dụ Bộ Lao
động). Thậm chí ở nhiều nước còn thành lập các tổ chức trực thuộc Chính phủ

11

(ví dụ ở Mỹ là Pension Benefit Guarantee Corporation hoặc gọi là “Penny
Benny”) hoạt động như một công ty bảo hiểm cho cấp quỹ trợ cấp hưu trí.
Các tổ chức này thu phí bảo hiểm từ các chương trình trợ cấp hưu trí tối thiểu
cho một người lao động (ví dụ ở Mỹ là 30000USD mỗi năm) trong trường
hợp các quỹ trợ cấp nói trên phá sản hoặc không thể thực hiện di chuyển đủ
tiền vì những lí do khác.
Thứ hai: Các chương trình trợ cấp hưu trí công cộng:
Hầu hết tất cả những người lao động và chủ thuê lao động bị bắt buộc
phải tham gia chương trình này. Phần đóng góp được xác định trên cơ sở mức
lương của người lao động. Người lao động và chủ thuê lao động sẽ chia nhau
đóng góp.
Bảo hiểm xã hội không chỉ chi trả lương hưu mà còn chi phí khám chữa
bệnh và trợ cấp mất sức lao động.
Cũng như các chương trình trợ cấp hưu trí tư, các chương trình trợ cấp
công đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt tiền để chi trả cho những khoản
chi trả Bảo hiểm xã hội, không hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ đóng góp
trước đây của người hưởng lợi cũng như do tỉ lệ người già tăng nhanh trong
xã hội. Thực tế này đòi hỏi nhiều nước phải cải cách các chương trình Bảo
hiểm xã hội theo hướng đầu tư hóa và đa dạng hóa hình thức đầu tư vào lĩnh
vực rủi ro hơn nhưng mức sinh lời cao hơn như cổ phiếu và trái phiếu của
công ty.
1.6 Quỹ hưu trí đối với thị trường tài chính phi ngân hàng
Có thể thấy, theo định nghĩa, quỹ hưu trí có đầy đủ các đặc điểm của
nhà đầu tư có tổ chức, bao gồm: (1) Tập hợp rủi ro và cung cấp các giải pháp
phòng ngừa rủi ro tốt hơn cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ; (2) Lợi thế về đa dạng
Website:

12
hóa đầu tư bằng cách nắm giữ nhiều loại tài sản khác nhau (cả cố phiếu, trái
phiếu và các tài sản khác), cả trong nước và nước ngoài; (3) Thanh khoản tốt

hơn, đồng thời giúp tăng cưởng thanh khoản cho thị trưởng; (4) Khả năng thu
nhận và xử lý thông tin tốt hơn so với các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ trên thị
trưởng; (5) Lợi thế quy mô nhở lượng vốn lớn, giao dịch lớn, do đó, chi phí
cho mỗi nhà đầu tư thấp hơn.
Với tư cách là nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ hưu trí đang đóng vai trò
ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của thị trường tài chính. Các quỹ
hưu trí góp phần thúc đẩy tính hiệu quả của thị trường bằng cách tác động vào
cấu trúc của thị trường chứng khoán (TTCK) do quỹ luôn có nhu cầu về thanh
khoản và những giao dịch quy mô lớn. Ngược lại, quỹ hưu trí cũng tạo thanh
khoản cho thị trường thông qua các hoạt động giao dịch thường xuyên với
khối lượng lớn và bản chất phòng ngừa rủi ro của quỹ. Do đó, quỹ hưu trí
giúp tăng cường tính hiệu quả của thị trường, giảm chi phí vốn và giảm phụ
thuộc vào hệ thống ngân hàng trong việc tạo thanh khoản cho thị trường tài
chính. Với việc tích lũy tài sản dài hạn, các quỹ hưu trí có xu hướng đầu tư
vào các tài sản kém thanh khoản và dài hạn để có lợi nhuận cao hơn, do đó,
góp phần tăng nguồn cung vốn dài hạn cho thị trưởng (Davis, 1995).
Do đặc tính tập hợp vốn từ nhiều cá nhân trong thời gian dài, tài sản của
các quỹ hưu trí trên phạm vi toàn cầu đã gia tăng đáng kể trong những năm
gần đây. Theo thống kê của quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tổng tài sản của các
nhà đầu tư tổ chức năm 2003 so với năm 1990 đã tăng gần gấp 3 lần, trong đó,
tài sản của các quỹ hưu trí toàn cầu tăng hơn 4 lần, và có giá trị lớn nhất so
với các nhà đầu tư tổ chức khác (công ty bảo hiểm, công ty đầu tư và quỹ
phòng ngừa rủi ro). Nếu so với GDP của các nước thuộc khối OECD, tổng tài
sản của các quỹ hưu trí chiếm hơn 50% GDP năm 2003 và gần 50% năm
2004, chỉ đứng sau các công ty đầu tư. Đối với các nước phát triển, quỹ hưu

13
trí là nhà đầu tư tổ chức năm giữ lượng tài sản rất lớn. Tại Mỹ, Pháp, các quỹ
hưu trí là nhà đầu tư tổ chức có lượng tài sản lớn thứ nhì, chỉ đứng sau các
công ty đầu tư (quỹ đầu tư). Công cụ tài chính mà các quỹ hưu trí nắm giữ

chủ yếu là TPCP (33% giá trị danh mục năm 1997 và 27% năm 2003), và cổ
phiếu của các doanh nghiệp trong nước (44% giá trị danh mục năm 1997 và
37% năm 2003). Ngoài ra, quỹ hưu trí còn nắm giữ cổ phiếu của các doanh
nghiệp nước ngoài, trái phiếu nước ngoài, BĐS và tiền mặt, tuy nhiên, tỷ lệ
không cao. Tính đến năm 2011, trong số các nước công nghiệp phát triển, Hà
Lan và Thụy Sỹ là hai nước có tổng giá trị tài sản của các quỹ hưu trí chiếm
133% và 115% GDP, so với
Anh (101% GDP) và Mỹ (107% GDP).






PHẦN II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUỸ HƯU TRÍ Ở VIỆT NAM

2.1 Nội dung hoạt động quỹ hưu trí ở Việt Nam
Về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
Website:

14
Người lao động là công dân Việt Nam, làm việc theo chế độ HĐLĐ từ
đủ 03 tháng trở lên; cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước; lực lượng vũ
trang; các cơ quan, đơn vị thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao
động.
Về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện
Công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động (nam từ 15 - 60 tuổi, nữ từ
15 - 55 tuổi), không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Mức đóng vào Quỹ hưu trí, tử tuất

Đối với BHXH bắt buộc, người lao động đóng 7% (từ năm 2014 là
8%); người sử dụng lao động đóng 13% (từ năm 2014 là 14%), mức tiền
lương đóng BHXH cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
Đối với BHXH tự nguyện, người tham gia đóng 20% mức thu nhập lựa
chọn (từ năm 2014 là 22%), mức thu nhập lựa chọn thấp nhất bằng mức lương
tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
Điều kiện, mức hưởng chế độ hưu trí
Đóng BHXH đủ 20 năm trở lên; nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi; một số
trường hợp được nghỉ hưu sớm hơn theo quy định của Luật BHXH hoặc quy
định của Chính phủ. Lực lượng vũ trang có quy định riêng.
Mức hưởng lương hưu
Mức lương hưu hàng tháng bằng tỷ lệ % hưởng lương hưu nhân với
mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH. Cách tính tỉ lệ % như sau: 15
năm đầu đóng BHXH tính bằng 45%; từ năm thứ 16 trở đi, mỗi năm đóng
BHXH thì tính thêm 2% đối với nam, 3% đối với nữ, tối đa bằng 75%.
Trường hợp nghỉ hưu trước tuổi thì mỗi năm bị trừ 1%. Mức bình quân tiền
lương, tiền công tháng đóng BHXH quy định cho 03 nhóm đối tượng.

15
Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh
hoạt và tăng trưởng kinh tế, được bù bằng mức lương tối thiểu chung. Trường
hợp mức lương hưu thấp hơn mức lương tối thiểu chung mà có đủ 20 năm
đóng BHXH bắt buộc, được hưởng trợ cấp 01 lần đối với thời gian đóng
BHXH từ năm thứ 31 trở đi đối với nam, từ năm thứ 26 trở đi đối với nữ.
Lương hưu không phải nộp thuế. Người hưởng lương hưu được hưởng
BHYT. Không đủ điều kiện nghỉ hưu thì được hưởng chế độ trợ cấp BHXH
một lần theo quy định, mức trợ cấp BHXH một lần được tính theo số năm đã
đóng BHXH, mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền
công hoặc thu nhập tháng đóng BHXH. Người đang hưởng lương hưu nếu bị
chết thân nhân được hưởng chế độ tử tuất theo quy định của Luật BHXH.

Tổ chức thực hiện chính sách BHXH theo Luật BHXH
BHXH Việt Nam được thành lập từ năm 1995, tổ chức theo ngành dọc
gồm 03 cấp, mỗi cấp đều có tư cách pháp nhân và trụ sở riêng, gồm: cấp
Trung ương; cấp tỉnh, cấp xã. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng, Công an và Ban Cơ
yếu Chính phủ có cơ quan BHXH trực thuộc. Nhiệm vụ của BHXH Việt Nam
là thu, chi, thực hiện các chế độ BHXH, quản lý, sử dụng, bảo toàn và tăng
trưởng Quỹ BHXH, theo quy định của pháp luật về BHXH.
2.2 Kết quả hoạt động Quỹ hưu trí ở Việt Nam
Năm 2012, có 10.437.000 người tham gia BHXH bắt buộc, tăng 40,6%,
tương ứng tăng hơn 03 triệu người so với năm 2007 (là năm đầu thực hiện
Luật BHXH); gần 140.000 người tham gia BHXH tự nguyện; thu BHXH bắt
buộc đạt hơn 89.612 tỷ đồng; chi trả cho 101.200 người hưởng lương hưu,
601.020 người hưởng BHXH một lần. Hiện, hằng tháng BHXH Việt Nam
quản lý, tổ chức chi trả kịp thời cho hơn 2,3 triệu người hưởng lương hưu
Website:

16
thuộc 02 nhóm đối tượng do ngân sách nhà nước và Quỹ BHXH đảm bảo.
Hình thức chi trả lương hưu là bằng tiền mặt hoặc thông qua tài khoản thẻ
ATM. Ngoài ra, đã tổ chức thí điểm chi trả lương hưu bằng tiền mặt thông
qua hệ thống Bưu điện cấp xã đã triển khai trên phạm vi toàn quốc bắt đầu từ
năm 2013.
Tuy nhiên, có thể thấy diện bao phủ BHXH còn thấp hơn so với yêu
cầu; tình trạng trốn đóng, nợ đọng tiền BHXH còn xảy ra khá phổ biến và
chưa được xử lý triệt để; Quỹ Hưu trí, tử tuất tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối
trong dài hạn; tình trạng lạm dụng quỹ còn phức tạp, chưa được kiểm soát một
cách hiệu quả; ứng dụng CNTT vào quản lý BHXH còn chậm, chất lượng
dịch vụ còn hạn chế; công tác thanh, kiểm tra, phối hợp trong quản lý, giải
quyết, xử lý vi phạm về
BHXH chưa đáp ứng nhu cầu.

2.3 Thách thức đối với quỹ hưu trí Việt Nam
Theo Nghị quyết số 21-NQ/TW, Bộ Chính trị đặt ra mục tiêu phấn đấu đến
năm 2020 có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH (tương ứng khoảng
28,4 - 29 triệu lao động). Tính đến ngày 31/12/2012, số người tham gia
BHXH là trên 10,5 triệu người; tốc độ phát triển đối tượng tham gia BHXH
bình quân các năm vừa qua vào khoảng 5-7%; để đạt được mục tiêu trên là
một thách thức lớn đối với Ngành BHXH và hệ thống chính trị.
2.4 Nguy cơ mất cân đối quỹ hưu trí Việt Nam
Theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam, từ năm 2007 – 2012, mỗi
năm có trên 100.000 người nghỉ hưởng lương hưu hàng tháng; tuổi nghỉ hưu
bình quân là 53,2 tuổi (nam 55,1 tuổi, nữ 51,6 tuổi); số người nghỉ hưu đúng
tuổi chiếm tỷ lệ thấp (40,5%), do suy giảm khả năng lao động 61% trở lên
chiếm tỷ lệ trên 52%; thời gian tham gia BHXH bình quân là 30,8 năm (nam

17
32,4 năm, nữ 29,5 năm); tỷ lệ hưởng lương hưu bình quân là 70% (nam
68,5%, nữ 71,4%).
Website:

18
Website:

Từ năm 1995 - 2012, hàng năm số thu vào Quỹ Hưu trí, tử tuất đều lớn
hơn số chi. Tuy nhiên, trong tương lai, số người nghỉ hưu hưởng từ Quỹ
BHXH càng nhiều. Dự báo đến năm 2023, Quỹ Hưu trí, tử tuất sẽ có số thu
bằng số chi. Từ năm 2024 trở đi, ngoài số thu trong năm, phải trích sử dụng
thêm tiền cân đối dương của các năm trước mới đảm bảo đủ chi. Đến năm
2037, số thu BHXH trong năm và số tồn tích bắt đầu không đảm bảo khả năng
chi trả. Các năm sau đó, số chi sẽ lớn hơn nhiều so với số thu trong năm. Do
đó, Quỹ Hưu trí, tử tuất tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối trong dài hạn.

Nguyên nhân chủ yếu do:
Quy định về tuổi nghỉ hưu hiện hành còn thấp. Theo số liệu thống kê
năm 2012, tuổi thọ bình quân của người nghỉ hưu là 73,04 tuổi (nam 73,95
tuổi, nữ 71,2 tuổi) và thời gian trả lương hưu bình quân là gần 20 năm (nam
19 năm, nữ 20 năm);
Quy định trần tuổi được nghỉ hưu sớm quá thấp (nam 50 tuổi, nữ 45
tuổi, nếu có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc thì
không phụ thuộc tuổi đời), nên thời gian trả lương hưu cho đối tượng này dài,
trong khi thời gian đóng góp ít. Cụ thể là đóng khoảng 20 năm, thì hưởng tới
30 - 40 năm;
Mức đóng góp theo quy định hiện hành chưa tương xứng với mức
hưởng, đặc biệt là phần đóng góp từ phía người lao động;
Cách tính lương hưu còn chưa phù hợp, việc trừ tỷ lệ % hưởng đối với
người nghỉ hưu sớm, cũng như việc bù bằng mức lương tối thiểu chung đối
với các trường hợp có mức lương hưu thấp còn chưa hợp lý;
Website:

19
Website:

Quy định về hưởng BHXH một lần quá rộng không đảm bảo mục đích
An sinh xã hội;
Đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH, trong đó có Quỹ Hưu trí, tử tuất, tuy
đảm bảo chặt chẽ, an toàn nhưng hiệu quả đầu tư chưa cao.
2.5 Nguồn quỹ hưu trí ở Việt Nam sắp cạn kiệt
*. Nguyên nhân:
Báo động của ILO Tổ Chức Lao Động Quốc Tế, rằng nguồn quĩ hưu trí
của Việt Nam sẽ bị thâm hụt và cạn kiệt trong thời gian tới, là một nhận định
xác đáng.
Giám đốc Bảo Hiểm Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh, ông Cao Văn

Sang, cho rằng cảnh báo này có cơ sở vì theo dự kiến đến năm 2023, số thu
Bảo Hiểm Xã Hội dành cho hưu trí sẽ ngang bằng số chi, và những năm sau
đó muốn trả lương hưu thì phải sử dụng số dư từ nguồn thu Bảo Hiểm Xã Hội
của những năm trước. Hậu quả là, ông Cao Văn Sang nói tiếp, một thập niên
nữa tức vào năm 2034 thì nguồn quĩ hưu trí bị cạn kiệt và không còn tiền để
thanh toán.
Tiến sĩ Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế trong nước, nói rằng điều này
hoàn toàn chính xác vào khi Việt Nam đang tìm hướng cải tiến:
Với tình trạng hiện nay thì chắc chắn nguồn quĩ bảo hiểm sẽ thâm hụt
và không đủ khả năng để trang trải. Cho nên hiện đang có phương án, cũng
như các tổ chức quốc tế đề nghị, phải chăng là nên nâng tuổi lao động lên và
tăng tuổi nghỉ hưu cho nó dài ra. Đây là vấn đề đang hiện hữu và sẽ xảy ra
trong tương lai nếu không có biện pháp xử lý ngay từ bây giờ.
Website:

20
Website:

Những nguyên nhân chính khiến nguồn quĩ Bảo Hiểm Xã Hội gặp nguy
cơ cạn kiệt, tiến sĩ Ngô Trí Long giải thích, thứ nhất là do độ tuổi nghỉ hưu
thấp:
Thứ nhất hiện nay với lực lượng lao động rất lớn mà tuổi về hưu như
thế này, mà chi khoản Bảo Hiểm Xã Hội lại lớn như thế, nếu cứ tiếp tục kéo
dài thì chắc chắn nó sẽ là âm và nó sẽ thâm hụt.
Vấn đề thứ hai, ông nói, năng suất tức hiệu quả hoạt động đối với các
khu vực nhà nước cũng như đối với người nghỉ hưu xem ra rất thấp:
Đấy là hai nguyên nhân chính và nếu hiện trạng này tiếp tục kéo dài thì
chắc chắn đến 2023-2025 coi như quĩ bị vỡ và hầu như không có khả năng để
chi trả.
Trong bối cảnh hiện nay, lực lượng lao động trong lãnh vực nhà nước

thừa rất lớn, thừa rất nhiều. Người ta đã đánh giá trong 10 người thì 3 người
làm được việc, 3 người chỉ là cầm chừng, còn lại 4 thì coi như làm không có
hiệu quả.
Hiện chính phủ đang có dự án tiến tới việc tinh giảm biên chế, áp dụng
từ 2014 đến 2020. Thế nhưng theo tiến sĩ Ngô Trí Long thì:
Sẽ thực thi có nghĩa là đầu vào không có mà chỉ có đầu ra thôi. Tại vì
thực tế hiện nay là lương lao động quá dư thừa mà cái tổ chức lực lượng lao
động làm ăn không có hiệu quả cho nên nó dẫn đến hiện tượng như vậy. Đây
là bài toán xử lý rất khó. Ngay bây giờ nói tinh giảm biên chế thì tinh giảm
như thế nào, tinh giảm ai thì cũng là vấn đề cần bàn, mà phương án đưa ra liệu
có khả năng thực thi hay không .
Website:

21
Website:

Vấn đề này tôi nghĩ Việt Nam đã nhiều năm trước đưa ra rồi nhưng làm
không có hiểu quả, làm không được, phải nói thẳng như vậy.
Trong lúc 65 là tuổi nghỉ hưu ở các quốc gia phát triển, tại Việt Nam
độ tuổi nghỉ hưu là 60 đối với nam và 55 đối với nữ. Tính theo thực tế, tuổi
hưu bình quân của Việt Nam là 53. Với tình trạng tuổi hưu thấp như vậy thì
suy ra thời gian đóng không bao nhiêu mà thời gian hưởng lương hưu thỉ lại
nhiều. *. Cách khắc phục:
Dưới mắt tiến sĩ Trịnh Hòa Bình, viện trưởng kiêm giám đốc Trung
Tâm Dư Luận Xã Hội thuộc Viện Xã Hội Học, quĩ Bảo Hiểm Xã Hội sẽ cạn
trong thời gian tới là một cảnh báo quan trọng và đáng lưu ý.
Rõ ràng vấn đề ở đây, ông phân tích, là một nền tảng sản xuất chưa cao
trong lúc phải vác cái gánh nặng chi trả, đặc biệt trong lãnh vực chính sách xã
hội, hệ thống tiền lương cho đội ngũ công chức viên chức là bộ máy khổng lồ
mà hiệu năng hoạt động có hạn và không có yếu tố kích thích người sản xuất:

Thành thủ của cải vật chất xã hội không nhiều, nguồn dự trữ quốc gia
không lớn, độ tuổi lao động quay trở về cuộc sống không phải làm người nhà
nước nữa là 60 cho nam và 55 cho nữ, là đội quân sẽ hưởng bảo hiểm xã hội
thì mỗi ngày một phình ra, cho thấy báo động quĩ bảo hiểm thiếu hụt là nhãn
tiền.
Tình trạng thiếu hụt quĩ hưu trí không phải là vấn đề chỉ xảy ra cho
Việt Nam mà cả những quốc gia phát triển. Đó là lý do luật được sửa đổi
nhằm điều
chỉnh tuổi hưu hoặc giảm lương hưu. Vẫn lời tiến sĩ Trịnh Hòa Bình:
Website:

22
Website:

Đó không phải là vấn đề của một nước, ở Việt Nam thì tôi không dùng
chữ trầm trọng mà nói là đáng kể hơn bởi vì đội ngũ làm công ăn lương quá
đông mà cái tham gia để làm ra của cải vật chất nó rất có hạn. Đương nhiên
khi cái vòng quay của lao động nhảy việc nó lớn quá, nó càng đông thì nó
càng đe dọa cái bảo trợ của Bảo Hiểm Xã Hội trong tương lai. Ví dụ cho rằng
cỡ 25 năm thì được hưởng thì lực lượng lao động người ta chỉ làm 25 năm rồi
người ta quay trở về, khác với một số quốc gia phát triển thậm chí bây giờ làm
đến 34 năm hoặc 40 năm chẳng hạn, thì nó đóng góp được vào cho nguồn quĩ
nhiều hơn.
Theo viện trưởng Viện Xã Hội Học Trịnh Hòa Bình, để có thể bảo đảm
cho sự an toàn của Bảo Hiểm Xã Hội thì phải tính toán lại từ đầu theo nguyên
tắc thị trường dù như Bảo Hiểm Xã Hội không được nhìn nhận như Bảo Hiểm
Thương Mại:
Nhưng rõ ràng muốn cho nó tồn tại được trong điều kiện bức tranh sản
xuất và hiệu quả kinh tế xã hội của đội ngũ lao động chưa đủ sức đảm bảo cái
tương lai cái hậu kỳ của quĩ đó, thì buộc lòng phải quay trở về với sự tính

đúng tình đủ thôi.
Tương tự như ý kiến mà chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long đưa ra ở trên,
chuyên gia xã hội Trịnh Hòa Bình đề cập đến chiêu thức giảm mức lương hưu
xuống.
Chiêu thức thứ hai quan trọng hơn, ông trình bày tiếp, là rà soát lại đội
ngũ lao động sản xuất trực tiếp hay gián tiếp:
Website:

23
Website:

Làm công ăn lương là làm ra làm chơi ra chơi cho đích đáng, chứ
không phải dàn hàng ngang mà tiến bình quân chủ nghĩa. Tức là một xu
hướng bình quân chủ nghĩa mà mọi người đều bám đều dựa vào nguồn quĩ
chung và lao động sản xuất không hiệu quả.
Những biện pháp khác, tiến sĩ Trịnh Hòa Bình nhấn mạnh, là độ tuổi về
hưu phải được tính toán lại, làm sao huy động được tối đa lực lượng lao động
nằm trong độ tuổi lao động tham gia vào sản xuất, làm ra của cải vật chất
ngày càng nhiều hơn để đóng góp hữu hiệu vào quĩ phúc lợi xã hội.
2.6 Vấn đề liên quan đến Quỹ hưu trí tự nguyện
Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 115/2013/TT-BTC hướng dẫn
bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện, có hiệu lực thi hành từ 15/10/2013.
Có rất nhiều luồng thông tin về thông tư này của Bộ như:
“Quỹ hưu trí tự nguyên là ích nước, lợi người lao động” hay
“Bắt buộc chưa xong, mong gì tự nguyện”
Nói chung: Các quy định về Quỹ hưu trí tự nguyện còn nhiều mập mờ
(!)
Góp ý cho dự thảo Thông tư hướng dẫn thiết lập quỹ hưu trí tự nguyện
và triển khai bảo hiểm hưu trí mà Bộ Tài chính vừa công bố lấy ý kiến, nhiều
ý kiến nhìn nhận, khá nhiều nội dung còn khó hiểu, mập mờ. Doanh nghiệp

bảo hiểm phải “vẽ” lợi nhuận trong 5 năm
Website:

24
Website:

Dự thảo quy định, hồ sơ xin phép triển khai sản phẩm bảo hiểm hưu trí
trình Bộ Tài chính phê duyệt, DN bảo hiểm phải dự kiến kết quả kinh doanh
sản phẩm bảo hiểm hưu trí trong vòng năm 5 năm tới, trong đó có các nội
dung về doanh thu, chi phí, lợi nhuận… Quy định này, theo nhiều ý kiến là…
không tưởng. Việc buộc DN “vẽ” ra kịch bản lợi nhuận trong vòng 5 năm,
chẳng những không phục vụ gì cho quản lý nhà nước, mà còn tạo cơ hội cho
DN bảo hiểm “lòe” khách hàng.
Theo dự thảo Thông tư, cơ cấu danh mục đầu tư của nguồn vốn nhàn
rỗi từ dự phòng nghiệp vụ của quỹ hưu trí tự nguyện và phần vốn đầu tư của
quỹ chủ sở hữu vào quỹ hưu trí tự nguyện gồm: mua trái phiếu chính phủ
không hạn chế, nhưng không thấp hơn 40% tổng giá trị tài sản đầu tư của quỹ;
đầu tư vào trái phiếu DN, trái phiếu chính quyền địa phương có bảo lãnh
không vượt quá 20% giá trị tài sản đầu tư của quỹ… Tổng giám đốc một công
ty quản lý quỹ đặt câu hỏi, sau một thời gian, do giá thị trường thay đổi, thì tỷ
trọng các loại tài sản thay đổi so với thời điểm mua, khi đó có cần phải điều
chỉnh mua, bán để thỏa mãn các tỷ lệ đầu tư vào các tài sản hay không? Trên
thực tế, một số quỹ đầu tư quy định hạn chế đầu tư chỉ áp dụng tại thời điểm
mua.
Đối với quy định, quỹ hưu trí tự nguyện được mua trái phiếu chính phủ
không hạn chế, nhưng không thấp hơn 40% tổng giá trị tài sản đầu tư của quỹ,
vị tổng giám đốc trên cho rằng, ở giai đoạn đầu, tỷ lệ này sẽ thấp, vì công ty
quản lý quỹ, công ty bảo hiểm phải mất thời gian tìm trái phiếu chính phủ phù
hợp với tiêu chí đầu tư. Bởi vậy, để đảm bảo tính khả thi, dự thảo nên điều
chỉnh theo hướng quy định rõ sau thời gian bao lâu thì mới phải đáp ứng tỷ lệ

Website:

25
Website:

trên. Nếu có thể thì quy định mức tối đa thay vì mức tối thiểu để tránh gây
khó dễ cho công ty bảo hiểm, cũng như công ty quản lý quỹ.
Các quy định gây khó cho công ty quản lý quỹ
Có khá nhiều quy định chưa rõ, thậm chí được cho là bất hợp lý trong
dự thảo Thông tư, khiến công ty quản lý quỹ dễ gặp khó khi được thuê quản
lý quỹ bảo hiểm hưu trí tự nguyện.
Cụ thể, dự thảo quy định, để quản lý danh mục đầu tư các tài sản của
quỹ hưu trí tự nguyện, công ty quản lý quỹ phải có tối thiểu ba 3 cán bộ có
kinh nghiệm quản lý quỹ đầu tư dài hạn, trong số đó phải có tối thiểu 1 cán bộ
có năm 5 năm kinh nghiệm quản lý quỹ đầu tư dài hạn. Ở đây, phải hiểu kinh
nghiệm quản lý quỹ đầu tư dài hạn thế nào cho đúng? Quy định không rõ ràng
này có thể tạo ra ngáng trở cho công ty quản lý quỹ khi tham gia quản lý danh
mục của quỹ hưu trí tự nguyện.
Mặt khác, dự thảo quy định, DN bảo hiểm phải uỷ thác cho công ty
quản lý quỹ đầu tư tài sản của quỹ hưu trí tự nguyện, hoặc thuê công ty quản
lý quỹ để quản lý danh mục đầu tư các tài sản của quỹ theo đúng hạn mức,
mục tiêu, chiến lược đầu tư của quỹ. Trên thực tế, mỗi công ty quản lý quỹ có
thế mạnh riêng. Liệu có thể cho phép DN bảo hiểm ký hợp đồng thuê quản lý
đầu tư với nhiều công ty quản lý quỹ khác nhau cho từng loại tài sản đầu tư
vào trái phiếu chính phủ, trái phiếu DN, cổ phiếu? Dự thảo chưa thể hiện rõ
DN bảo hiểm có thể làm việc này hay không.
Một quy định khó hiểu khác tại Điều 3 của dự thảo Thông tư là tài
khoản bảo hiểm hưu trí được tích luỹ với tỷ suất đầu tư do DN bảo hiểm công
bố vào cuối mỗi năm tài chính, nhưng không thấp hơn tỷ suất đầu tư tối thiểu
Website:

×