Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

luận văn đại học hằng hải HÌNH TƯỢNG CHIM VÀ CÂY TRONG HỘI HỌA PHƯƠNG ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.15 MB, 87 trang )

Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
HÌNH TƯỢNG CHIM VÀ CÂY
TRONG HỘI HỌA PHƯƠNG ĐÔNG
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hội họa Phương Đông nói chung và hội họa Việt Nam nói riêng có nhiều nét
tương đồng theo dòng chảy của thời gian và sự giao thoa văn hóa. Điểm cơ bản đi
đến sự tương đồng đú chớnh là các quan điểm về nghệ thuật đã đạt đến một cái
chung về sự nhìn nhận và những ý nghĩa biểu tượng mang tính xã hội. Trong các tác
phẩm nghệ thuật đó, ở mỗi một quốc gia đó cú những hình thức thể hiện khác nhau
tạo nên những giá trị đặc trưng đậm nét truyền thống, thậm chí dân gian mang
những sắc thái riêng như tranh chữ (thư pháp), tranh điểu mộc, có những thể loại đã
đạt đến độ “quốc họa” như tranh thủy mặc của Trung Quốc (TQ), tranh sơn mài của
Việt Nam .
Điểm cơ bản trong các thể loại tranh của Phương Đông và Việt Nam , các
hình tượng nghệ thuật đã được khái quát hóa và cá thể hóa đến mức cao độ, đú
chớnh là sự giải phóng các hình tượng cụ thể, cảm tính ra khỏi cái ngẫu nhiên, nhất
thời để đạt đến tầm khỏt quỏt chứa đựng những chân lý lớn có sức đột phá các thời
hạn không gian và thời gian của các hiện tượng cá biệt đời thường như các hình
tượng chim hạc, chim phượng, cây tùng, cây trúc, cây mai…mà đến ngày nay nó
vẫn có nguyên giá trị cả về mặt nghệ thuật, tâm linh đến nhận thức.
Nghiên cứu hình tượng chim và cây trong tranh hội họa Phương Đông chính
là để tìm hiểu sắc thái riêng của mỗi thể loại về chủ đề, về ý nghĩa biểu trưng độc
đáo. Điểm nổi bật của thể loại tranh này là người ta thường mượn hình tả ý gán cho
một sự vật nào đó một ý nghĩa biểu tượng (ví dụ: trúc là quân tử, mai là giai nhân,
cây tùng và chim hạc ngụ ý trường thọ, v.v ) và thông qua ngôn ngữ (nhất là từ
ngữ đồng âm hay cận õm) nhỡn hình vẽ người ta sẽ liên tưởng đến một mong ước,
một ý nghĩa biểu trưng nhất định nào đó trong tâm thức chung của mọi người.
Về ý nghĩa, tranh thường có chủ ý :
1


Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
o Gởi gấm ý chí;
o Ước nguyện mọi tốt lành cho bản thân;
o Cầu chúc phúc cho người khác.
Với ý nghĩa tinh tế như vậy nên hình tượng chim và cây trong một số thể loại
tranh đó có những chuẩn mực riờng, cỏc thành tố quan hệ trong tranh luôn gợi
những liên tưởng và kích thích thị giác của người xem thông qua đề tài và hình
tượng nghệ thuật. Các quan hệ về màu sắc, sự tương phản giữa sáng - tối, sự chi
phối về bối cảnh, các nguyên tắc xây dựng hình tượng trong tranh để tạo thế cân
bằng, mang nột riờng ở từng thể loại là những mảng nghiên cứu mà những người
làm công tác mỹ thuật và sáng tạo nghệ thuật cần quan tâm.
Với mong muốn tìm hiểu, học tập và trau dồi khả năng nghiên cứu em đã
chọn đề tài trên nhằm tìm hiểu những giá trị nghệ thuật qua hình tượng chim và cây
trong của một số thể loại tranh hội họa Phương Đông và cũng để chia xẻ cùng người
xem những cảm nhận sâu sắc hơn về ý nghĩa tượng trưng của hình tượng chim và
cây trong từng tác phẩm.
2. TÌNH HÌNH NGHIấN CỨU ĐỀ TÀI
Có nhiều bài viết giới thiệu về một số thể loại tranh như tranh điểu mộc,
tranh quạt có hình tượng chim, cây và hoa song chỉ nêu ý nghĩa thưởng ngoạn cho
vẻ đẹp của mỗi thể loại (kiến thức hội họa 1,2,3 – Internet). Các bài chủ yếu mang
tính chất giới thiệu, tham khảo. Cách viết mang tính mô tả về ý nghĩa biểu trưng của
hình tượng chim và cây mà chưa đi sâu nghiên cứu, phõn tích về các yếu tố tạo hình
tạo lờn được giá trị thẩm mỹ, tính nhân văn của thể loại tranh này.
3. MỤC ĐÍCH NGHIấN CỨU
- Nghiên cứu đặc điểm hình tượng chim và cây trong tranh hội họa Phương Đông .
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa hình tượng chim và cây, và ý nghĩa biểu trưng của
hình tượng trong tranh hội họa Phương Đông.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIấN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu : Hình tượng chim và cây trong hội họa Phương Đông .

2
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
- Phân tích một số tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại có hình tượng chim và cây
trong mối quan hệ với các hình tượng nhân vật
- Phạm vi nghiên cứu : một số tác phẩm hội họa Phương Đông (chủ yếu tranh của
Trung Quốc, Việt Nam: Tranh hội họa, tranh dân gian, tranh quạt) sử dụng hình
tượng chim và cây là đối tượng thể hiện chính.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIấN CỨU
- Nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp vấn đề
- Sưu tầm
- Tổng kết kinh nghiệm
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Khẳng định được giá trị nghệ thuật của hình tượng chim và cây qua các yếu
tố tạo hình (bố cục, hình mảng, đường nét, màu sắc, chất liệu tạo hình) tạo lên
những nột riờng của nghệ thuật Phương Đông.
- Khẳng định vai trò của hội họa trong việc phản ánh hình tượng với mối
quan hệ cùng con người về mặt tư duy và nhận thức xã hội.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm 80 trang, bao gồm phần mở đầu 3 trang, kết luận 11 trang,
phần nội dung có 3 chương
Chương I- Hình tượng chim và cây trong quan niệm thẩm mỹ người Việt và
trong quan niệm Phương Đông (18 trang)
Chương II- Chim và cây trong ca dao, văn học, thơ ca (10 trang)
Chương III- Hình tượng chim và cây trong hội họa (22 trang)
Ngoài ra luận văn còn có tài liệu tham khảo 1 trang, phụ lục 16 trang
3
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I - HÌNH TƯỢNG CHIM VÀ CÂY TRONG QUAN NIỆM
THẨM MĨ NGƯỜI VIỆT VÀ TRONG QUAN NIỆM PHƯƠNG ĐễNG
Tác phẩm nghệ thuật là đơn vị tồn tại của nghệ thuật, trong đó hình tượng
nghệ thuật được coi như là “tế bào” của tác phẩm. Không có hình tượng nghệ thuật
thì không có cơ sở để tạo nên nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật.
Nghệ thuật chân chính không đòi hỏi các hình tượng nghệ thuật mô tả giống
như thật vẻ bề ngoài của đối tượng, mà cần phải phản ánh đỳng cỏi bản chất bên
trong của nó. Khi hình tượng đã đạt đến mức độ hoàn thiện nó sẽ nói lên được
những khát vọng chân chính của con người, thể hiện được sức mạnh chân lý của
cuộc sống. Đó là những hình tượng nghệ thuật đã đạt đến tính biểu tượng.
Bất cứ một sự vật, hiện tượng khách quan nào có trong đời sống hiện thực,
nếu được mô phỏng lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật đều trở thành
hình tượng nghệ thuật. Nhìn chung, hình tượng thường được hình thành trong mối
quan hệ giữa thế giới hiện thực khách quan với nhận thức chủ quan của con người.
Hình tượng không chỉ phản ánh hiện thực mà còn khái quát hóa, điển hình hóa toàn
bộ thế giới hiện thực, nhằm tìm ra được những yếu tố cốt lõi nhất của hiện thực
khách quan mang tính biểu hiện hết sức sinh động và độc đáo để làm nên tác phẩm
nghệ thuật.
Nghệ thuật là lĩnh vực văn hoá tinh thần, nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần
của con người mà qua đó người ta có thể xác định được các giá trị - chuẩn mực xã
hội. Thực tiễn trong đời sống xã hội, giá trị thẩm mỹ và giá trị văn hoá luôn thống
nhất với nhau về nội dung và tư tưởng, cái đẹp trước hết phải là cỏi đỳng và cái tốt
(chân - thiện - mỹ). Do vậy, đặc trưng của tác phẩm nghệ thuật là tính hình tượng
với ngôn ngữ sử dụng là sử dụng các hệ thống ký hiệu hàm nghĩa - biểu tượng.
Biểu tượng có hai mặt: “cái biểu đạt” và “cái được biểu đạt”. Hai mặt này
được kết hợp theo sự liên tưởng và theo một quan hệ ước lệ nào đó. Biểu tượng bao
giờ cũng có: + Tính chất biểu hiện sự vật bằng hình ảnh.
4
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông

+ Mang ý nghĩa biểu trưng gợi sự liên tưởng.
+ Tính ước lệ.
+ Biểu hiện giá trị nhân văn.
Do đó, hình tượng nghệ thuật luôn mang đến những cảm xúc nhất định nói
lên khát vọng, mong muốn vươn tới giá trị - chân lý của con người. Đó là những tác
phẩm luôn luôn sống mãi và trở thành bất tử với thời gian.
Hội họa Phương Đông nói chung và hội họa Việt Nam nói riêng, hình tượng
nghệ thuật luôn được các họa sĩ quan tâm nghiên cứu và khai thác ở nhiều đề tài,
nhiều thể loại chất liệu khác nhau. Sự thành công của các hình tượng nghệ thuật
Phương Đông đều có những điểm chung là hàm chứa trong nó một mong muốn,
khát vọng về một cuộc sống hòa bình, ấm no, sự thanh nhàn thoải mái cho con
người mặt khác nó còn mang một yếu tố tâm linh, ý nghĩa biểu trưng nhất định nào
đó như là một ước nguyện mà người xem ai cũng dễ dàng cảm nhận được.
Trong những hình tượng nghệ thuật mà hội họa Phương Đông nói chung và
hội họa Việt Nam nói riêng thì hình tượng chim và cây được đề cập mang nhiều ý
nghĩa biểu trưng hơn cả. Bởi vì, trong bối cảnh không gian nhà ở của người Phương
Đông, tiềm thức quan niệm về cuộc sống và yếu tố thiên nhiên luôn gắn liền với
nhau. Hình ảnh con chim gắn với ruộng đồng, cỏ cây hoa lá hòa quyện với cuộc
sống gần gũi của con người nờn đó trở thành một phần không thể thiếu về cội
nguồn, về quê hương, về cuộc sống hàng ngày, thậm chí những hình ảnh đú đó
được biểu tượng hóa thay cho thân thế, địa vị của con người, ví như con người
trong hiện thực cuộc sống. Do đó hình tượng chim và cây được nhiều thế hệ họa sĩ,
nghệ nhân quan tâm phản ánh mang giá trị sáng tạo nghệ thuật rất cao.
5
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Động lực để sáng tạo mĩ thuật là trang trí hoặc tô điểm cho môi trường xung
quanh. Chúng ta trang trí cho nhà cửa của mình bằng nhiều phong cách khác nhau
như trang trí những bức tranh, sắp xếp sự kết hợp của màu sắc .v.v song việc lựa
chọn và xây dựng những hình tượng nghệ thuật thành biểu tượng trong mỗi bức

tranh đã đòi hỏi người họa sĩ phải có cái nhìn và sự cảm nhận sâu sắc về hiện thực
cuộc sống để rồi đem đến cho người xem sự cảm nhận hoàn hảo của chính bản thõn
nú, ngay chính bằng thuật ngữ nghệ thuật của nó. Về phương diện nghệ thuật, động
lực này còn thể hiện phong cách nghệ thuật riêng của từng quốc gia, nhiều tác phẩm
mĩ thuật đã trở thành những sản phẩm văn hóa riêng mang đậm nét truyền thống,
thậm chí dân gian, với các ý nghĩa biểu tượng được gởi gấm trong đó như tranh với
các chủ đề như: hoa điểu, rồng, ngựa, vượn, cỏ, tựng hạc, sơn thuỷ, v.v
1.1. HÌNH TƯỢNG CHIM
Theo quan niệm Phương Đông về thuật phong thủy, chim chóc thể hiện sức
mạnh vô tận của trái đất. Vùng đất Phương Đông khí hậu ôn hòa, nóng ẩm, mưa
nhiều, chịu ảnh hưởng của nền văn minh lúa nước. Con người hiền hòa yêu tự do,
khát vọng hòa bình. Tôn giáo mang tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo nờn đó hình
thành lờn một bản sắc văn hóa, nghệ thuật riêng hết sức độc đáo và đa dạng. Hình
ảnh thiên nhiên gắn liền với đời sống của con người ngay từ khi còn nhỏ, nên hình
tượng nghệ thuật gắn với thiên nhiên là một điều dễ hiểu.
Con người từ xa xưa đã chọn chim chóc để thể hiện cảm hứng, tự do, khao
khát để được hợp nhất với thiên nhiên, với thế giới tâm linh, thần thánh. Mỗi loài
chim có ý nghĩa phong thuỷ riêng. Trong các quan niệm về phong thuỷ truyền
thống, chim được coi là biểu tượng cho sức mạnh của con người. Bên cạnh đó, chim
cũng được coi là biểu tượng của tình yờu, lòng chung thủy và sự giàu có. Dưới đây
là ý nghĩa phong thuỷ của một số loài:
1.1.1. Chim Phượng: Phượng được coi là linh vật biểu hiện cho tầng lớp trên.
6
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Phượng thường có mỏ vẹt, thân chim, cổ rắn, đuụi cụng, múng chim cứng
đứng trên hồ sen. Với ý nghĩa đầu đội công lý, mắt là mặt trời, mặt trăng, lưng cõng
bầu trời, lông là cây cỏ, cánh là giú, đuụi là tinh tú, chân là đất, vì thế phượng tượng
trưng cho cả vũ trụ. Khi Phượng ngậm lá đề hoặc ngậm cành hoa đứng trên đài sen,
nó biểu hiện là con chim của đất Phật. Tức là có khả năng giảng về đạo pháp, làm

nhiệm vụ giống như các nữ thần chim: nhảy múa, hát ca chào mừng Phật pháp.
Quan niệm của người Việt Nam cho rằng Phượng xuất hiện báo hiệu đất nước
được thái bình. Chim Phượng là loài chim đẹp nhất. Nó có thân hình quyến rũ, kết
tinh được vẻ đẹp, sự mềm mại, thanh lịch, vẻ duyên dáng của tất cả các loài chim.
Nó tượng trưng cho nữ tính, cho phái đẹp của tầng lớp quý phái.
1.1.2. Chim Hạc: Hạc đã làm bạn với người từ bao ngàn năm trước.
Hình ảnh chim Hạc đã đi vào văn chương, mỹ thuật, lịch sử, triết lý của nhiều
dân tộc. Hạc chịu đựng giỏi, thích ứng nhanh và cũng đẻ trứng nuôi con tốt. Hạc có
giọng rền vang. Tiếng Hạc trong trẻo nhờ ở thanh quản có hình tựa như cái còi.
Chim Hạc múa rất đẹp. Thoạt tiên chim trống nghiêng mình chào chim mái rồi
từ từ tiến gần, cổ vươn tới trước, cỏnh xũe nhẹ ra. Đoạn vẫn giữ nguyên thế đó,
chim trống bắt đầu nhảy múa trên không, luôn luôn nhảy cao hơn chim mái. Lúc
này chim trống hát những tiếng giống như tiếng kèn đồng rộn rã. Kế đó đến phiên
chim mái nhảy múa một cách vui tươi tưng bừng. Chim mỏi mỳa uyển chuyển hơn
chim trống, thường đập cánh làm tung tóe nước. Sau điệu múa, kể như là mừng tiệc
tân hôn, cuộc sống của vợ chồng chim bắt đầu thực sự.
Ở Việt Nam Hạc là con vật của đạo giáo. Hình ảnh Hạc chầu trên lưng Rùa
trong nhiều ngôi chùa, miếu, đền là biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa
hai thái cực âm - dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh túy và thanh cao.
Theo truyền thuyết Rùa và Hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con
vật sống dưới nước, biết bò, Hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay.
7
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, Hạc không thể sống dưới
nước nên Rựa đó giỳp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại,
khi trời hạn hán, Rựa đã được Hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên
lòng chung thủy và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa
những người bạn tốt.
1.1.3. Chim công: Tượng trưng cho sự bình an thịnh vượng.

Là loài chim có bộ lông tuyệt đẹp, Công được coi là biểu hiện của Phượng
hoàng hiện diện trên trái đất. Màu sắc của bộ lông cùng “nghìn con mắt” ở đuôi
được coi là yếu tố may mắn, thúc đẩy danh tiếng cũng như tăng cường bảo vệ người
thân.
Với bộ lông tuyệt đẹp, Công còn biểu tượng cho vẻ đẹp và sức hấp dẫn trong
tình yêu, giúp những người cô đơn sớm tìm ra bạn đời của mình. Chim phượng
(thường gọi gộp là Phượng Hoàng, thực ra Phượng là chim trống, Hoàng là chim
mái) là linh điểu, tương truyền chim Phượng xuất hiện là thánh nhân ra đời. Chim
Loan và chim Phượng thì tượng trưng duyên nợ vợ chồng. “Loan Phượng hoà
minh” (chim Loan và chim Phượng hoà chung tiếng hót) ngụ ý sự hoà thuận êm ấm
của vợ chồng.
1.1.4. Chim Điểu : Là một loại động vật có hình thức đẹp (đẹp mã), mềm mại.
Màu sắc ưa nhìn, người Việt và người Phương Đông có ý thức gắn nó với hình
tượng của người phụ nữ:
- Ở tầng lớp cao: Chim Điểu được ví gắn với những người phụ nữ có địa vị cao
sang, quan lại hoặc là những người có học thức, hiểu biết rộng.
- Ở tầng lớp thấp: Chim Điểu được ví như người phụ nữ cần cù, chịu khó, buôn
bán nuôi chồng con.
1.1.5. Chim Sếu:
8
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Chim Sếu chỉ đứng sau Phượng Hoàng về mức độ tiếng tăm trong phong
thuỷ. Sếu mang tinh thần luôn vươn cao, vươn xa để cất cỏnh lờn bầu trời. Do đó,
biểu tượng của Sếu được sử dụng trong phong thuỷ để đem lại nguồn năng lượng
sống cao thượng và hoà bình lâu dài.
1.1.6. Chim Cò: Cò là loại chim của nhà nông vỡ nú gắn với ruộng đồng.
Từ bao đời nay hình ảnh con Cò được nhắc đến nhiều trong thơ ca, văn học
và cả trong nghệ thuật. Cò có thân hình đẹp, màu lông trắng tinh khiết, sống có tình
nghĩa, gần gũi với con người. Trên cánh đồng, con Cò đi theo sau luống cầy bầu

bạn cùng nhà nông trong lúc cầy sâu cuốc bẫm. Trên bờ ruộng Cò bắt sâu bọ, cào
cào, châu chấu… giúp nhà nông một tay trong việc bảo vệ mùa màng. Cò trờn
mỡnh trõu, bắt ruồi bọ, ve vắt, người bạn đồng lao đồng tác với nhà nông. Con Cò
là hình ảnh của cần cù, siêng năng, chịu khó, chịu khổ, tự túc, tực cường, chỉ biết
trông cậy vào sức mình, chỉ biết tự lực cánh sinh để lo cho bản thân, cho con cái,
cho gia đình, cho dòng tộc, đất nước giống như những người nông dân Việt Nam:
1.1.7. Gà trống : Biểu tượng cho phong thuỷ
Gà trống có thân hình đẹp, dáng hùng dũng, khỏe mạnh, bước đi oai vệ, màu
lông rực rỡ thường thức dậy rất sớm, thông báo một ngày mới, xua tan đi bóng đêm
và mây mù. Bởi vậy, Gà trống cũng biểu tượng cho khả năng tránh tà ma. Đức tính
của gà trống cũng rất quớ:
+ Cái mào đỏ tựa mũ cánh chuồn của trạng nguyên là “Văn “.
+ Chân gà có cựa sắc nhọn như kiếm để đấu chọi là “ Võ “ .
+ Thấy địch thủ dũng cảm, không sợ và đấu chọi đến cùng là “ Dũng”.
+ Kiếm được mồi gọi nhau cùng ăn là “ Nhân “.
+ Hàng ngày , gà gáy báo canh không bao giờ sai là “ Tín”.
Con gà mái với thân hình tròn trịa, bước đi dịu dàng, ngú nghiờng một cách
trìu mến đi cùng bầy con tượng trưng cho gia đình đông đúc, đầm ấm.
Ngoài ra còn rất nhiều loài chim khác cũng mang những ý nghĩa, ngụ ý riêng
như chim sẻ (tiểu nhân), chim vẹt (nói dóc, nói nhiều, ba hoa) chim ác là báo điềm
không may mắn… mà các nước Phương Đông đều có chung quan niệm.
9
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
1.2 . HÌNH TƯỢNG CÂY (HOA)
Cây thuộc mộc hành, có giá trị tiêu biểu cho đức tính cứng cỏi, thẳng thắn,
kiên cường như nghĩa khí của con người. Mỗi loài cây đề có ý nghĩa riêng. Trong
cuộc sống cây cối gắn liền với đời sống của con người, phục vụ và nuụi sống con
người. Cây không chỉ cho bóng mát, chữa bệnh, dùng làm cây cảnh trang trí nhà
cửa. Thế dáng của các loại cây và những điều kiện để đơm hoa kết trái của chúng

cũng được ví von như những cố gắng vươn lên khắc phục tự nhiên của con người.
Điều này đã tạo nên những cảm xúc mãnh liệt cho tâm hồn của người họa sĩ, chớnh
vì vậy nên nhiều loài cõy đó được lựa chọn, phản ánh trong nghệ thuật và mang lại
cho con người thêm nhiều cảm xúc, ý nghĩa. Tầm quan trọng và tính tinh túy, ưu
việt của từng loại cây, dựa vào thế dáng và đức tính chịu đựng mà cây cũng có
những ý nghĩa đáng để chiêm nghiệm, luận bàn.
 Một số loài cây
1.2.1. Cây Tùng- Bỏch- Thụng
Chữ Tùng có nghĩa là cây Thông. Ta gọi là Tựng, Bỏch, Thụng hoặc phân
biệt mấy loại đó bằng Tùng La hán, Tùng Mã Vĩ (thông đuôi ngựa)
Cây Tùng mọc trên núi đá cao, khô cằn, thiếu nguồn dinh dưỡng. Tùng hay
mọc ở những mỏm núi chênh vênh, chịu nhiều sương gió, bão tuyết mà không chết
không đổ, Tùng vẫn xanh, vẫn vươn thẳng lên trời, là loại thực vật lá kim, quanh
năm xanh tốt, không rụng lá, tiết kiệm (nước), rễ bỏm sõu vào trong vỏch nỳi. Đó là
phẩm chất quý mà con người mong ước. Trước mọi phong ba, bảo táp, Tùng vẫn
đứng trơ gan cùng tuế nguyệt nờn Tựng có ý nghĩa như Bậc Trượng phu hoặc Đại
trượng phu.
1.2.2. Cây trúc – Cây tre:
10
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Cây Tre: Trong phong thủy, cây Tre là một trong những biểu tượng mạnh
mẽ của sự trường thọ. Nó là biểu tượng của tính kiên cường vượt qua mọi nghịch
cảnh và khả năng chống chọi với sóng gió của cuộc đời. Không những thế, Tre còn
là biểu tượng của tài lộc. Cây Tre, bản thân nó là một loài cây phi thường về sự
mềm dẻo và vô cùng chắc chắn. Nếu có khoảng đất đủ để trồng một cây tre lớn,
chúng ta chắc chắn sẽ cảm nhận được tiếng rì rào, gió thổi qua các tán lá tre. Điều
này nằm trong một phần tác dụng của cây tre: Đem lại cảm giác yên bình trong
cuộc sống.
Theo các quan niệm phong thuỷ truyền thống, Tre được dùng sẽ mang lại

sức khoẻ, hạnh phúc, tình yêu và sự thịnh vượng. Tranh cây tre treo trong nhà ngoài
ý nghĩa trang trí, sự hiện hữu của cây tre sẽ tạo năng lượng rất tốt cho gia chủ, về sự
bảo vệ và may mắn, vượt qua khó khăn và ngày càng phát đạt.

 Một số loài cây
1.2.3. Hoa mai : Vào mùa xuân hoa mai nở rộ đón chào nàng xuõn mới.
Hoa mai còn có một tờn khỏc nữa là Càn mai. Trong phong tục của người
Việt, hoa mai tượng trưng cho mùa xuân nhưng, hoa mai không chỉ có ý nghĩa đón
mừng xuân mà còn biểu hiện cho tình yêu trung thành.
Hoa mai là biểu hiệu của sự trung thành trong tình yêu vì hoa nở rất đúng
hẹn, mỗi năm hoa đều nở đúng vào dịp xuân về không bao giờ sai hoặc trễ. Vì vậy,
hoa mai được giao một nhiệm vụ thật quan trọng trong thiên nhiên, đó là nhắc mùa
xuân đến đúng hẹn. Mai tượng trưng cho sự thanh khiết. Nó chịu qua gió tuyết mùa
đông nên thể hiện một sức khỏe, một sức sống mãnh liệt. Có thể coi là biểu tượng
của Quân tử.
1.2.4. Hoa đào cũng nở trong mùa xuân.
Hoa đào đại biểu cho tình bạn thân thiết. thắm đượm nghĩa tình (màu hồng
thắm), hoa đào cũng mang ý nghĩa đúng hẹn, thủy chung, quần hùng tụ nghĩa, khí
phách của người cốt cách.
11
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
1.2.5. Hoa cúc trác việt siêu phàm, nét đẹp anh tú, ẩn dật tình đời. Cúc tức là mùa
thu.
“Cứ mỗi độ thu sang, hoa cúc lại nở vàng”. Cúc biểu tượng của sự trường
thọ. Thường dùng để chúc thọ, chúc người già. Vì thế có loài cúc mang tờn Cỳc
Vạn thọ. Cúc cũng có chí khí quân tử của nó. Ai chơi hoa cúc đều biết hoa cúc tàn
nhưng không rụng, nó chỉ gục rũ trờn thõn của nó. Hoa cúc gợi cho ta một hình ảnh
chết đứng, chứ không chết nằm.
1.2.6. Hoa sen cũng mang cốt cách của bậc quân tử.

Đẹp và ngát hương, gần bùn mà chẳng tanh bựn. Dự cuộc đời ô trọc,
nhân tình ấm lạnh, bậc quân tử vẫn giữ được tiết tháo của mình, thơm tho và
tinh khiết như đóa sen. Hoa nở vươn khỏi mặt nước, lộ bày đài hoa, nhụy,
hạt và một hương thơm tinh khiết, nên được mọi người ưa chuộng. Trong
truyền thống của các nước châu Á. Hoa sen được dùng làm biểu tượng thiêng
liêng, để đại diện cho những người có nhân cách thanh cao, nghị lực vững
vàng, không bị ảnh hưởng của hoàn cảnh xấu mà vẫn biết cố gắng vươn lên
để sống một cách xứng đáng, trong tinh thần, bền tâm, nhẫn nại. Khi những
cánh hoa của nó mở ra, cũng có ý nghĩa nói lên sức sống mở rộng của tâm
hồn. [2, tr 2-5]
Theo truyền thuyết Phật học, hoa sen là hình ảnh, hài hòa, đặc trưng
của một chu trình sống. Sinh ra từ bóng tối, bùn nhơ mà bừng nở ra những
tinh nguyên của sự hoàn thiện. Đó là sự chuyển hóa tượng trưng cho:
+ Không ô nhiễm : Sống trong bùn lầy dơ bẩn, hoa sen vẫn tự lực cánh sinh
để vươn mỡnh lờn khỏi mặt nước cho hoa, dâng hương thơm tặng đời, nhẫn
nại, rèn luyện cho dù sống trong bất kỳ môi trường khó khăn nào, cũng cố
gắng khắc phục vượt qua để đạt được sự thành tựu cho chính mình
+ Phật tánh: là sự cần cù, nghiêm túc, rèn luyện sẽ đạt đến độ tinh khiết,
hoàn hảo.
+ Thanh lọc, lắng cặn: tẩy các chất độc, chỗ sen mọc, thì nước ở đó nước
lắng trong.
12
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
+ Kiên nhẫn, đợi chờ: tích cực làm việc để đạt được kết quả như mong muốn
1.2.7. Hoa Lan:
Vẻ đẹp của hoa lan được coi là biểu tượng tượng trưng cho sự sinh sôi nảy
nở, tiền tài, sự hoàn hảo trong trắng và của cải, sắc đẹp. Từ ngàn xưa hoa lan đã
từng bước khẳng định mỡnh trờn những bậc thang phong thủy, là “vật may mắn”
hàm ý như ý cát tường, tụ tài phỏt phỳc.

Trong văn hóa Trung Hoa và Việt Nam, hoa lan còn là loài hoa tượng trưng
cho sự thanh cao, tinh khiết. Đối với gia đình, nó hàm nghĩa sự toàn mỹ, đông con
nhiều cháu. Loài hoa này cũng mang lại năng lượng giúp cân bằng những sự đổ vỡ,
là biểu tượng trong việc giúp tìm kiếm sự hoàn hảo trong bất kỳ lĩnh vực nào cho
cuộc sống của con người. Chớnh vỡ mang nhiểu ý nghĩa như vậy nên hoa lan cũng
là một trong những loại hoa xuất hiện trong bộ tranh tứ quý.
1.2.8. Cây và hoa thường được ghép với nhau trong tranh nhằm biểu hiện cho
mong ước bốn mùa đầy đủ của con người
Như: “Mai , lan, cỳc, trỳc”; “ Tựng , trỳc, cỳc, mai” hoặc thường ghép theo
cặp ví như sự gắn kết keo sơn bạn bè “ Tùng Hạc diờn niờn”; “Tùng – Mai”, hay ví
von cho tình thắm đượm tình chung thủy vợ chồng như “Loan - Phượng”…
Mỗi mựa cú một loài cây, loài hoa đặc trưng. Mùa xuân: hoa mai, hoa lan,
hoa đào. Mùa hạ: hoa sen, hoa hồng, hoa lựu. Mùa thu: hoa cúc, hoa phù dung. Mùa
đông: cây trúc, cây thông (tùng). Mỗi loài hoa, loài cây lại tương ứng với một loài
chim. Vẽ hoa ấy phải đi với chim ấy mới là đúng quy tắc, đúng luật. Như vẽ hoa
mai phải vẽ với chim khổng tước (mai/điểu), hoa hồng với chim cụng (hồng/cụng),
hoa cúc với gà (kờ/cỳc), cây thông với chim hạc (tựng/hạc)
13
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Với những cư dân thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa châu á như Việt
Nam và một phần của Trung Hoa lục địa, Tranh tứ quý được hình thành trong vai
trò là biểu tượng của bốn mùa. Về sau, khi đã được nâng lên thành một biểu tượng
của nghệ thuật, tranh tứ quý thâm nhập vào nhiều nền văn hoỏ khỏc nằm cận kề các
khu vực văn hoá thuộc vùng khí hậu nói trên. Cho tới nay, tranh tứ quý là một trong
những biểu tượng nghệ thuật được sử dụng nhiều trong văn hoá truyền thống ở các
quốc gia thuộc khu vực Đông Bắc á như Nhật Bản, Triều Tiên cùng với Trung Hoa
và Việt Nam.
Trong quan niệm của người Phương Đông, bộ tứ là biểu hiện của sự đầy đủ,
vững chắc, vĩnh cửu, hạnh phúc như tứ phương, tứ trụ, tứ đức Thậm chí ở Việt

Nam, bộ tứ còn được hình tượng hoá thành cụm biểu tượng tứ bất tử (gồm bốn vị
thần: Sơn Tinh, Chử Đồng Tử, Mẫu Liễu Hạnh và Thỏnh Giúng), hoặc tứ trấn (bao
gồm xứ Đông, xứ Nam, xứ Đoài và xứ Bắc). Trong một trò chơi dân gian khá thịnh
hành trước đây (bài Tam cúc), bốn con bài cùng loại cũng được gọi là tứ quý hay tứ
tử trình làng, và tứ quý được xem như một biểu hiện của sự may mắn. Như vậy,
xuất phát từ những biểu tượng của bốn mùa nhưng tứ quý trong quan niệm dân gian
không còn là một biểu tượng riêng của thời tiết hay khí hậu nữa mà đã biến thành
biểu tượng của nhiều điều tốt lành khác. Đặc biệt, khi đã trở thành một biểu tượng
của sự may mắn, tứ quý trở thành một niềm ước vọng của mọi người dân bất kể
sang hèn.
Có thể thấy rằng, biểu tượng tứ quý để trang trí trong nhà không có nghĩa là
chỉ để làm đẹp mà còn là để cầu mong sự may mắn. Đây là một nét rất đặc thù trong
văn hoá Việt Nam nói riêng và văn hoá Phương Đông nói chung. Ở phương Tây,
khi cầu nguyện, người ta thường hướng tới một vị thần linh cụ thể với những điều
ước cụ thể. còn ở Phương Đông, đặc biệt là ở Việt Nam, người dân có xu hướng tự
tìm cho mình những yếu tố may mắn bằng nhiều sự biểu hiện khác nhau như hướng
nhà (phong thuỷ), hướng đi, màu sắc, treo tranh trấn trạch với lối tư duy trừu
tượng như vậy, việc lấy biểu tượng tứ quý để tạo ra sự may mắn không có gì là lạ.
Người treo tranh tứ quý không chỉ là để trang trí mà còn mang ý nghĩa cầu may
mắn, phú quý, sung túc và mang cả những yếu tố phong thủy trong đó.
14
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Tiểu kết : Nhìn chung tất các loài chim và cây, dựa vào đặc điểm, hình dáng,
màu sắc và đức tính sống ở từng loài mà quan niệm về thẩm mỹ của người Phương
Đông nói chung và Việt Nam nói riêng đều gắn chúng với quan niệm về nhân sinh
quan, về lối sống để răn dạy mọi người. Không chỉ ca ngợi vẻ cho đẹp mỗi loài mà
trong tạo hình còn cường điệu, thêu dệt, nâng cao phẩm giá cho mỗi loài ở các đức
tính chõn-thiện-mỹ.
1.3 CÁCH ĐIỆU TẠO HÌNH THỨC CHO VẺ ĐẸP CỦA CHIM, CÂY VÀ

HOA TRONG TRANG TRÍ
Hiện thực khách quan chính là tiền đề cho việc xây dựng các hình tượng
nghệ thuật. Họa sĩ bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, cùng với trí tưởng tượng và
cảm hứng sáng tạo của mình đã cho ra đời các hình tượng nghệ thuật phong phú có
giá trị.
Từ những yếu tố trên, hình tượng chim và cây trong hội họa Phương Đông
nói chung và Việt Nam nói riêng đều có chung những nét tương đồng về yếu tố
trang trí nhằm làm tăng giá trị cho vẻ đẹp của chim, cây và hoa với mục đích nhấn
mạnh các quan niệm và ý nghĩa của chúng để người xem dễ dàng cảm nhận. Hình
thức cách điệu thể hiện trong các yếu tố sau:
1.3.1. Về mặt tạo hình : Hình tượng chim, cây và hoa tuy mang những nét nguyên
thủy của đối tượng, song hình dáng đã được cách điệu một cách tao nhã,
thanh thoát, nhẹ nhàng, sắc xảo:
- Hình tượng chim công, chim phượng, hoa lan, hoa cúc với ý nghĩa mảnh mai,
đài được cách điệu hết sức tinh tế với các thế dáng lạ, đẹp, cầu kỳ.
- Hình tượng cây tùng trang nghiêm, cõy trỳc, cây mai cổ kính, già cỗi, quớ hiếm
tượng trưng cho lòng kiên cường, ngay thẳng không dễ gục đổ lại được cách
điệu ở những thế dáng rất quớ hiếm, ngoài đời ít gặp.
15
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Có thể nói rằng các họa gia đã rất công phu trong việc cách điệu tạo các thế
dáng cho chim, cây và hoa thành những chuẩn mực mang giá trị biểu trưng cao cho
tầng lớp con người cao quớ, cú địa vị phẩm chất tư thông đáng kính, có hiểu biết và
thành đạt trong xã hội (như cây tùng, cây trúc, chim phượng , chim loan), hoặc
tượng trưng cho những con người có đức, cú tõm, tần tảo, chịu khó hết lòng vì gia
đình lo toan sớm tối (như hình tượng chim Cò). Đôi khi các hình tượng còn được
cách điệu thành những biểu tượng, mang mong ước, khát vọng của con người (như
“Tựng-Hạc diên niờn”; tranh “Trúc”; tranh “Tứ quớ”; tranh” Xuân phong yến hỉ”)
1.3.2. Về bố cục: Hầu hết trong các tác phẩm hội họa của Phương Đông, hình

tượng chim và cây thường được sắp xếp theo hai hướng:
- Hướng đơn lẻ : chỉ duy nhất có hình tượng chim hoặc cây cùng với yếu tố thiên
nhiên: Lối bố cục này thường đề cao vẻ đẹp và các đứng tớnh quớ giỏ của hình
tượng (như “Tùng tựa núi”; “Đào tựa non”; “trúc- mai”; “trúc đào cung xuân”
hoặc “Hạc bầy”, “Cò đàn” ) cách vẽ này thường nhấn mạnh đến thế dáng và sự
uyển chuyển của hình tượng chim và cây. Xem những tranh này ta thường
khâm phục các họa gia về khả năng sáng tạo ra những hình tượng đẹp, cầu kỳ,
hiếm có và những phong cách bố cục độc đáo, lạ mắt, hấp dẫn người xem qua ý
tưởng của các nghệ nhân xưa.
- Hướng kết hợp: Lối sắp xếp có đặc điểm chung là thường gỏn, ghộp cỏc đức
tính quớ của hình tượng chim - cây để đề cao những giá trị nhân văn, nghệ thuật
mang tầm tư tưởng lớn như “Tùng –Hạc diờn niờn”; “Song loan hỉ thước”; “Mai
- Điểu” cách phối hợp này thường đi sâu diễn tả sự mối liên hệ quấn quýt, tri kỷ
của các đối tượng nhằm làm tăng thêm giá trị nhân văn của ý nghĩa biểu trưng
đồng thời cũng qua đó làm toỏt lờn vẻ đẹp thanh cao, quớ giỏ của các hình
tượng chim và cây.
- Cũng đôi khi trong cách phối hợp này còn mang lối phê phán phản diện mà qua
đó bao hàm ý nghĩa răn dạy con người trong cách sống, cách cư xử như “Trúc-
sẻ” mang hàm ý người quân tử và kẻ tiểu nhân.
16
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
- Mặt khác hình tượng chim và cây cũng thường được kết hợp với hình tượng con
người và qua đó mang ý nghĩa chúc tụng.
- Hình thức bố cục của tranh chủ yếu ở dạng không cân đối:
Bố cục không cân đối là hình thức bố cục thể hiện nguồn cảm hứng phóng
khoáng dạt dào của nghệ sĩ. Nó không có luật lệ, mà luật lệ chỉ là tìm cảm hứng thú
của họa sĩ, họ chỉ quan tâm đến sự cân xứng. Với hình thức bố cục này, người nghệ
sĩ sẽ để cho tùy theo tâm hồn hướng dẫn bởi vì những đường tạo ra trong lúc cảm
hứng sẽ dùng làm căn bản cho sự xây dựng đề tài mà mình muốn và gợi ý ra những

trạng thái nó đưa đến bố cục chót.
Do đó, hình tượng chim, cây và hoa trong tranh Phương Đông thường được
vẽ theo lối thảo, vẽ một hình tượng chính sau đó điểm thờm cỏc hình tượng minh
họa khác. Chẳng hạn vẽ tựng (chớnh) rồi điểm thêm chim hạc, mặt nguyệt [tranh
Tùng hạc diờn niờn – H4, tr 66], vẽ gà trống(chớnh) hoặc đàn gà (gà trống, gà mái,
gà con) điểm thêm hoa cúc [Tranh kờ cỳc- H22, tr 73]; vẽ trỳc (chớnh) điểm thêm
cành mai hoặc chim sẻ [tranh trúc – sẻ H8, tr 67]; vẽ khóm mẫu đơn (chính) điểm
đôi bướm [tranh Trùng điệp – H2, tr 65].
Đôi khi cũng có thể vẽ ngược lại như: bầy hạc (chính) điểm cành tùng [tranh
tùng hạc diờn niờn [H9, tr 68], cội mai già (chính) điểm chim hỉ thước [tranh Đồng
hỉ - H3, tr65]. Tuy nhiên cách điểm ở đây không mang yếu tố phụ mà nó vẫn hiệu
hữu cùng hình tượng chính và mang ý nghĩa giá trị biểu trưng tương đồng.
1.3.3. Màu sắc:
- Màu sắc hình tượng chim, cây và hoa rất phong phú và đa dạng. Xu hướng
chung màu sắc đơn giản, đằm thắm, diễn tả theo xu hướng hiện thực nên hình
tượng rất sống động và có hồn. Có thể dễ dàng nhận ra một hình tượng cây tùng
với màu sắc rêu phong ngàn năm cổ kính, những cành lá xum xuê, những mảng
vỏ sần sùi già cỗi sánh ngàn năm tuổi hay những cây mai, cành đào thế rồng
chầu với những chùm hoa đỏ tươi khoe sắc trong gió xuân, những chồi búp xanh
tươi mơn mởn như đang vươn lên tràn trề sức sống tựa, cho một năm mới an
khang, thịnh vượng và nhiều may mắn.
17
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
- Màu sắc hình tượng chim, cây và hoa trong tranh mang yếu tố tương phản làm
cho ý nghĩa của các hình tượng càng trở lên rõ ràng và khúc triết hơn. Như trong
tranh Tùng –Hạc diờn niờn, nếu hình tượng cây Tùng già cỗi, rêu xanh thì
ngược lại hình tượng chim hạc trắng lại nhẹ nhàng, bay bổng, chao liệng dập
dờn, một sự cứng cáp, khỏe mạnh đối lập thế trầm hùng, mạnh mẽ của thế dáng
thân cành cây tùng cùng nét mềm mại, nhẹ nhàng di chuyển của màu trắng chim

hạc làm cho giá trị của bức tranh thêm rõ ràng, có hồn và sâu lắng.
- Trong tranh tứ quớ một thể loại tranh mà người Phương Đông thường hay treo
vào những dịp tết mang hàm ý mong ước của bốn mùa no đủ, chúng ta nhận
thấy màu sắc của tranh lại rất đơn giản, hầu như nét vẽ là chủ yếu, màu sắc
mang tính dân gian hoặc vẽ theo lối điểm màu nhưng về ý nghĩa và giá trị vẫn
không thay đổi.
Bên cạnh hình tượng chim và cây. Một số loại hoa cũng được các họa sĩ đó
công phu tìm hiểu và tạo dáng cách điệu một cách cầu kỳ làm cho hình tượng của
các loại hoa thêm đậm đà, khoáng đạt mang tính cao quớ tượng trưng cho tầng lớp
quí phái.
Về cơ bản, hình tượng các loài hoa đều dựạ trên những đức tính của người
phụ nữ để cách điệu nhằm tôn vinh những giá trị nữ tính trong hình tượng nghệ
thuật. Một số loài hoa được cho là thanh cao biểu trưng cho tầng lớp quí phái như:
hoa lan, hoa sen, hoa cúc, hoa hồng, hoa tường vi, hoa hải đường là những loại
hoa quớ, hiếm, chăm sóc kỹ càng mới có thể đơm chồi, nở nhụy. Cánh mỏng manh,
dễ gẫy, dáng mảnh mai, mềm mại như nét thanh tú của người phụ nữ, hương thơm
nhẹ nhàng, mùi vị quyến rũ mang vẻ đài các của các bậc quớ phu nhân. Chính vì
vậy, hình tượng các loại hoa trong các thể loại tranh này thường được vẽ rất tỉ mỉ,
cầu kỳ, sắc màu tươi sáng, hình tượng nhẹ nhàng, thanh thoát, bút pháp gợi tả mang
nét ẩn hiện không mạnh mẽ như lối “cụng bút “ tạo độ đậm, chắc, rõ ràng, mạnh mẽ
như vẽ các loại cõy (Tựng cằn cỗi đậm đà; đốt tre - đốt trúc sắc đậm, cội mai - gốc
đào khúc khuỷu). Nột cụng bỳt thường diễn tả cho những ý tưởng mạnh, thường thể
hiện các hình tượng chính tạo độ đậm và bối cảnh cho các hình tượng chim và hoa
đồng hiện trên mặt tranh.
18
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
1.3.4. Về thủ pháp :
Điểm nhấn cơ bản trong các tranh đó là khả năng sáng tạo của các họa gia rất
phong phú. Nét sáng tạo không chỉ thể hiện ở trong cách thể hiện các thế dáng chim,

cây và hoa mà còn thể hiện trong nét “công” của bút pháp một cách rất tài tình. Nét
mạnh, nét phớt nhẹ tạo hình nên hình dáng đối tượng, nét chu vi không còn mà thay
vào đó là sự ẩn hiện của không gian mờ ảo làm cho hình tượng thêm ẩn hiện trong
tranh.
Nét vẽ đôi khi mang tính trang trí chau chuốt, nhấn nét tỷ mỉ làm cho hình tượng
chim, cây và thêm mềm mại, khỏe khắn hay khúc triết như ý nghĩa của mỗi loài.
1.4. ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ CỦA HÌNH TƯỢNG CHIM, HOA VÀ CÂY
TRONG TRANH
1.4.1. Đặc điểm:
1.4.1.1. Hình tượng chim và cây trong hội họa Phương đông phản ánh quan
niệm về xã hội và những chuẩn mực chung của cuộc sống.
Hình tượng chim và cây trong hội họa Phương Đông nói chung và Việt Nam
nói riêng đều có đặc điểm chung giống nhau về quan niệm thẩm mỹ. Văn hóa PĐ
chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, Phật giáo đã hình thành nên một quan niệm
sống về sinh-lóo-tử, về vòng đời và kiếp luân hồi của con người. Những yếu tố về
âm dương ngũ hành, về phong thủy đã ăn sâu vào tiềm thức người dân. Chính vì lẽ
đó nờn cỏc hình tượng nghệ thuật trong hội họa đã phản ánh những tư tưởng nhân
sinh quan đó chẳng hạn hoa sen mang tánh của Phật pháp, chim công, chim phượng
mang nghĩa bề trên (chỉ những người của hoàng tộc, hoàng cung).
1.4.1.2. Hình tượng chim và cây mang quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh.
19
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Vì mang quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh nờn cỏc họa gia Phương Đông từ
trước đến nay luôn lấy hiện thực làm cơ sở cho việc tái hiện một cách chân thực
hình ảnh, màu sắc của sự vật hiện tượng mà ta thường bắt gặp hàng ngày và không
chỉ phản ánh các họa gia còn lột tả được thần thái bên trong của đối tượng [H1;2, tr
65]. Các hình tượng sử dụng trong các tác phẩm đều mang tính nguyên bản (cây
tùng, cây trúc, cây mai, hoa đào, hoa cúc, hoa sen ) và được lựa chọn, nghiên cứu
mụt cỏch hết sức tỉ mỉ, công phu. Các thế cõy, dỏng chim đã được nghiền ngẫm một

cách rất cẩn thận và được thể hiện theo lối vẽ “hoạt” hết sức truyền cảm.
Hầu hết xem các tác phẩm hội họa vẽ về chim và cây, chúng ta nhận thấy
hình tượng được thể hiện dưới những nét vẽ phóng túng, tài hoa mà các đại danh
họa đã dày công tu luyện [H6,7,8. tr 67]. Sự truyền cảm của các hình tượng đã đóng
góp không nhỏ cho định hướng đúng đắn về quan niệm thẩm mỹ của người Phương
Đông, về tớnh chõn – thiện – mỹ và do đó nó khuyến khích con người tu dưỡng, rèn
luyện. Lối vẽ mượn hình tả ý nờn nú mang ý nghĩa vừa sâu sắc, vừa tinh tế, thâm
thúy.
1.4.1.3. Hình tượng chim và cây trong hội họa PhươngĐông mang ý nghĩa gửi
gắm một ý chí, một ước nguyện và lời chúc tốt lành cho mọi người.
Quả thực xem tranh vẽ về chim và cây chúng ta luôn “đọc” được ý nghĩa của
tranh qua từng hình tượng như: tùng, hạc ngụ ý trường thọ sống lâu muôn tuổi (tùng
hạc diờn niờn) và khí phách hiên ngang của bậc đại trượng phu; cúc trường thọ; trúc
quân tử, ngay thẳng; mai, lan là giai nhân dịu dàng, chung thủy Với lối ví von như
vậy nên tranh cũng mang ý nghĩa chúc tụng. Ngày tết, tân gia nhà mới họ thường
mua tranh tặng nhau, ý nghĩa trong tranh cũng là hàm ý mong muốn cho gia chủ
được như những điều mà bức tranh gửi gắm.
20
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Bên cạnh hình tượng chim, cây và hoa cũng thường được ghép với nhau để
tăng thêm giá trị thẩm mỹ, độ chặt chẽ của bức tranh và phong phú thêm về hình
tượng. Mặt khác nó tăng thêm phần ý nghĩa như tranh tứ quớ, ta cũng thấy những
lời chúc tốt lành, cầu an bốn mùa no đủ cho gia chủ. Thực tế trong tranh tứ quớ ta
thường gọi tựng –trỳc-cỳc-mai song mỗi tranh lại rất nhiều hình tượng mà ít khi vẽ
đơn lẻ từng loại, lối tạo hình như vậy làm cho bức tranh thêm nhiều ý nghĩa khác
như: tranh tùng vẽ thêm hoa cúc, chim hạc; tranh trúc vẽ thêm cành đào, cặp chim
sẻ; tranh cúc vẽ thêm cành mai, đôi bướm hoặc đôi chim; tranh vẽ mai vẽ thêm hoa
cúc và cặp chim hỉ thước v.v
1.4.2. Giá trị:

Hội họa không phải là sự sao chụp một cách đơn giản những hình ảnh có
trong tự nhiên, cuộc sống. Kết quả sáng tạo ra các hình tượng nghệ thuật của người
họa sĩ phụ thuộc nhiều vào khuynh hướng, tư tưởng được thể hiện về mặt chủ đề
của tác phẩm và mức độ mà người họa sĩ muốn nói với người thưởng thức trong
việc sáng tạo ra ra các hình tượng nghệ thuật có sức tập trung, biểu cảm, có nội
dung diễn tả sâu sắc và mang tính điển hình đến đâu.
Qua hình tượng chim và cây trong các tác phẩm hội họa Phương Đông và
Việt Nam. Chúng ta nhận thấy hình tượng chim và cây mang nhiều giá trị, trong đó
nổi bật nhất là những giá trị về các mặt sau:
1.4.2.1. Giá trị nghệ thuật:
Hình tượng chim và cây không chỉ là sự tích tụ các giá trị thẩm mỹ từ góc độ
trực quan, thụ cảm, hơn thế, nó còn là một giá trị sáng tạo, tích cực - giá trị thẩm mỹ
mới. Trên bình diện này, giá trị nghệ thuật là đồng nghĩa với sáng tạo ra hình tượng
chim và cây là những hình tượng mới mẻ, sống động mang đậm dấu ấn của người
họa sĩ. Các hình tượng này vừa bao quát một dung lượng lớn các phương diện thẩm
mỹ của đời sống đó là các quan niệm của Nho gia, Phật gia về nhân sinh quan, về
tính chân - thiện - mỹ.
21
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Mặt khác, thông qua hình tượng chim và cõy cỏc họa sĩ còn gợi mở, phát
hiện, dự báo những khát vọng, khả năng và những ý nghĩa mới trong quan hệ thẩm
mỹ của con người với hiện thực cỏ cây, hoa lá, chim muông của thế giới tự nhiên
đú chớnh là những niềm mong ước, khát vọng, khâm phục tự nhiên. Chính vì vậy
các tác phẩm nghệ thuật vẽ về chim và cõy đó tạo ra chất lượng giá trị nghệ thuật
bởi các hình tượng đã đạt đến mức độ hoàn hảo về các yếu tố tạo hình. xu hướng
trong nghệ thuật chủ yếu của các họa sĩ khi thể hiện dòng tranh này thường chủ
trương nghệ thuật phải gắn liền với đời sống xã hội, phải phục vụ con người.
1.4.2.2. Giá trị thẩm mỹ:
Loại hình nghệ thuật nào cũng vậy. Điểm cơ bản làm lên giá trị của một tác

phẩm nghệ thuật đú chớnh là giá trị thẩm mỹ. Trong hội họa Phương Đông, hình
tượng chim và cõy đó mang đến cho người xem một sự rung cảm, thích thú, sự cảm
phục bởi những giá trị văn hóa đã được biểu tượng hóa một cách hoàn chỉnh, ấn
tượng bằng chính những hình tượng cụ thể: Người xem ai cũng cảm nhận được
dáng tựng hiên ngang, kiêu hãnh sánh ngang cùng tuế nguyệt, dáng tre quân tử,
vươn thẳng, cỳc trỏc việt siêu phàm hay hình tượng chim hạc tri kỷ mảnh mai,
phượng hoàng thanh tao, quí phái, kiêu hãnh, cò lả lướt dập dìu Nếu như trong ca
dao, văn học, thơ ca, các hình tượng này chỉ là những câu ví von, so sánh cửa miệng
của người đời thì nay đã được cụ thể hóa bằng những hình tượng trực quan hết sức
sinh động, hấp dẫn qua nét vẽ tài hoa của các họa sĩ.
Không chỉ cho người xem bằng những cảm xúc hết sức tài hoa, sáng tạo mà các
họa sĩ còn thông qua hình tượng chim và cây để định hướng cho người xem những
quan điểm thẩm mỹ đúng đắn theo quan niệm chân – thiện – mỹ của triết gia Nho
giáo, tư tưởng Phật giáo mà người Phương Đông thường tâm niệm.
1.4.2.3. Giá trị tinh thần:
22
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Về mặt phong thủy, hình tượng chim và cây mang đến cho con người PĐ
những giá trị tinh thần hết sức quớ giỏ, nú không chỉ là một sự trấn an, hỉ lạc để con
người quên đi những khó khăn của cuộc sống mà còn mang đến một giá trị về mặt
nhận thức tâm linh, coi hình tượng chim và cây và những đức tính ưu việt của
chúng như những khát vọng con người cần vươn tới: về vẻ đẹp, về cốt cách, đức
tính của người quân tử, về tớnh chõn - thiện - mỹ. Bên cạnh đú nú cũng là điều ước,
niềm vui, sự lạc quan, những hình ảnh mang lời chúc tụng con người luôn gặp
nhiều may mắn.
Về mặt xã hội, thông qua hình tượng chim và cây còn phản ánh các quan
điểm về các mối quan hệ của xã hội như: mối quan hệ giữa con người với con người
về nhân sinh quan, cách sống, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên như là
một qui luật tất yếu của sự sống.

23
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
CHƯƠNG II – CHIM VÀ CÂY TRONG CA DAO, VĂN HỌC, THƠ CA
Ca dao, văn học, thơ ca là sự tổng kết, vun đắp những kinh nghiệm sống của
con người về các qui luật sống, về các biểu hiện của tự nhiên. Bản thân con người
dựa vào qui luật của tự nhiên để tồn tại, cải tạo và phát triển mình. Nói cách khác,
thiên nhiên chính là người thầy vĩ đại nhất dạy dỗ cho con người. Thực tế cuộc sống
của cỏ cây hoa lá, chim muông loài vật đều có liên quan đến con người. Hình tượng
thẩm mỹ do con người sáng tạo ra, nờn nó có giá trị như là một chuẩn mực nhất
định bởi vì các hình tượng này đã được lựa chọn bằng vốn sống, vốn kinh nghiệm
mà bản thân con người đã trải nghiệm.
Nghệ thuật tạo hình có khả năng diễn tả đặc điểm của các hình tượng bằng
những biểu tượng rõ ràng, cụ thể bằng những hình ảnh trực quan phong phú, đa
dạng. Người xem có thể cảm nhận trực tiếp bằng mắt về hình dáng, màu sắc, kích
thước của đối tượng, thậm chí có thể hình dung ra được cả các xu hướng chuyển
động của vự vật (tư thế chim bay, cá lượn, bóng dáng của cây rung rinh trước gió,
đôi khi là cả các hiện tượng của tự nhiên như trời mưa to, mưa nhỏ, sấm chớp liên
hồi, âm thanh, gió giật ). Có được cảm nhận như vậy là dựa vào những trải nghiệm
mà người xem đã được trải qua trước đó (trải nghiệm trực tiếp hoặc gián tiếp qua
thơ ca, văn học, qua phim ảnh), dựa vào trí tưởng tượng cộng với kinh nghiệm sống
nờn quỏ tỡnh thưởng ngoạn dễ dàng tạo cho người xem những cảm quan thị giác
sống động, thán phục.
Khác với mỹ thuật, ca dao, văn học, thơ ca có khả năng phản ánh đời sống
của con người thông qua phản ánh hình tượng của tự nhiên và đời sống xã hội. Các
hình tượng phản ánh trong thơ ca đều mang những giá trị thẩm mỹ nhất định song
nó dưới dạng ngôn ngữ viết, ngôn ngữ nói, ngôn ngữ thầm Ở dưới dạng ngôn ngữ
này, con người dễ dàng cảm nhận được những vẻ đẹp, giá trị nghệ thuật của các đối
tượng dưới các hàm ý văn chương bay bổng, nhẹ nhàng, dưới gúc nhỡn so sánh
hình tượng con người với thiên nhiên cuộc sống nờn nú rất dễ hiểu, dễ gần và đi sâu

được vào tình cảm con người.
24
Hình tượng chim và cây trong hội họa
Phương Đông
Hình tượng chim và cây trong ca dao, văn học, thơ ca Việt Nam có rất nhiều,
tùy vào đặc điểm từng vùng, từng miền mà cú cỏch gọi tên khác nhau, cách ví von
khác nhau song tựu trung đều mang những hàm ý chung giống nhau.
2.1. HÌNH TƯỢNG CHIM TRONG VĂN HỌC
2.1.1. Hình tượng con Cò:
 Cò là biểu tượng của ao đầm Lang Việt.
Nói tới đồng ruộng nước, nói tới lũy tre xanh, nói tới con trõu trờn luống
cầy, không thể nào không thể nói tới một hình bóng quen thuộc một hình bóng vật
tổ thiêng liêng của tộc Việt, đó là con Cò.
Trong các loài chim, Cò là loài chim đi vào đời sống của người Việt Nam
sâu đậm nhất. Sâu đậm đến độ mở miệng ra ví von, mở miệng ra hát là nhắc đến
Cò. Sâu đậm đến độ trong ca dao Việt Nam có rất nhiều bài nói về con Cò, trong
dân ca cú riờng một điệu hát mang tên là điệu hát Cò lả.
“Cái Cò bay bổng bay cao,
Bay từ Cửu phủ bay vào Đồng Đăng”.
[10, tr.21]
Trước hết Cò là biểu tượng của ao đầm Lang Việt. Con Cò là hình ảnh của
ruộng đồng. Một trong những hình ảnh đẹp nhất là hình ảnh con Còtrắng như bông
bay liệng la đà trên ruộng lúa mờng mụng, bát ngát, trải rộng ra mãi tận chân trời:
“Con Cò bay lả bay la,
Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng
Khắp người trắng nõn như bông,
Gió xuân lất phất chùm lông trên đầu”.
[10, tr.23]
Cò là loài chim sống ở bờ nước, gần cận nhất, gắn bó nhất và thân thiết nhất
với nhà nông trồng lúa nước. Con Cò với dáng đẹp thanh cao, thoát tục. Cò lạng

bay vút lên không trung rồi thả mình trong gió, mỏ dài, cổ dài, thân thon nhỏ, chân
dài, tất cả duỗi thẳng theo một đường thẳng, liệng la đà trờn giú.
25

×