Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

luận án đã sửa báo cáo tốt nghiệp đại học, chuyên nhành công nghệ sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.72 KB, 69 trang )

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi gia cầm là nghề truyền thống của nước ta và là nguồn thu nhập chính
đối với phần lớn các hộ gia đình ở nơng thơn cũng như các trang trại chăn ni
lớn. Phát triển ngành chăn ni nói chung và chăn ni gia cầm nói riêng trở
thành ngành sản xuất hàng hóa, từng bước đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu là một quan điểm phát triển ngành chăn nuôi đến
năm 2020 đã được Chính Phủ phê duyệt. Chăn ni gia cầm trở thành một nghề
không thể thiếu trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp Quốc gia.
Theo số liệu thống kê tại thời điểm 1/10/2009 của tổng cục thống kê thì tổng
số đàn gia cầm của Việt Nam có khoảng 280,18 triệu con. Cùng với sự phát triển
của các ngành nghề khác thì chăn ni cũng đang phát triển nhanh cả về số
lượng cũng như chất lượng. Bên cạnh đó thì chăn nuôi cũng phải đối mặt với
nhiều rủi ro như lãi suất thấp, giá cả bấp bênh, tổng chi phí đầu vào và chi phí
đầu ra có biên độ hẹp…, cùng với đó là dịch bệnh và nguy cơ xảy ra đại dịch là
rất cao trong đó có nguy cơ xảy ra dịch cúm A/H5N1 do người chăn nuôi không
tuân thủ chặt chẽ điều kiện chăn ni cũng như quy trình kiểm dịch.
Bệnh cúm gia cầm là bệnh truyền nhiễm cấp tính gây bệnh ở hầu hết gia cầm
như gà, vịt, chim… đặc biệt là ở người với tốc độ lây lan nhanh chóng. Nguyên
nhân gây bệnh là do virus cúm type A thuộc họ Orthomyxoviridae gây ra, virut
này tồn tại dưới dạng phân type dựa trên quan hệ kháng nguyên H
(Hemagglutinin) và N (Neuraminidae).Virus A thích nghi hầu như với mọi loại
vật chủ và hệ gen của chúng luôn biến đổi, định kỳ do vậy rất dễ lây nhiễm và
trở thành đại dịch. Trong số những chủng virus cúm A thì virus cúm A/H5N1 có
độc lực rất mạnh chúng gây nguy hiểm cho cả người và động vật. Dịch cúm
TRẦN THẾ ANH

1



Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

bùng phát nhanh, chúng gây ra hậu quả rất nghiêm trọng làm ảnh hưởng tới tính
mạng con người cũng như gây thiệt hại cho người chăn nuôi và xa hơn là gây
thiệt hại tới nền kinh tế quốc dân.
Bệnh cúm gia cầm thể độc lực cao HPAI (High Pathogenic Avian Influenza)
được tổ chức dịch tễ thế giới (OIE) xếp vào bảng A các bệnh truyền nhiễm cấp
tính và cực kỳ nguy hiểm. Cúm A/H5N1 được phát hiện ở nước ta vào khoảng
tháng 12/2003. Từ cuối năm 2003 trở lại đây bệnh cúm gia cầm đã, đang và dự
đoán trong nhiều năm nữa sẽ là mối nguy hiểm cho sự phát triển của nền chăn
nuôi nước ta và đặc biệt hơn là cho cả cộng đồng. Đã có hàng triệu gia cầm bị
tiêu hủy và hàng chục người tử vong cho dịch cúm. Do đó việc phịng chống
dịch cúm gia cầm là một trong những chương trình phịng chống dịch bệnh cấp
quốc gia. Các biện pháp phòng chống dịch bệnh được áp dụng ngay từ đầu như
tiêu hủy đàn gia cầm, cấm lưu thơng, tiêu thụ sản phẩm, kiểm sốt giết mổ đã
phần nào hạn chế được dịch bệnh. Tuy nhiên rất tốn kếm và hiệu quả thì chưa
được như mong muốn khi mà điều kiện nước ta còn rất nhiều hộ gia đình chăn
ni nhỏ lẻ, điều kiện vệ sinh, chăm sóc và phịng bệnh chưa tốt. Ngồi các biện
pháp về an tồn sinh học trong chăn ni đã kể trên thì việc sử dụng vacxin tiêm
phòng để tạo đáp ứng miễn dịch chủ động chống lại bệnh cúm là một biện pháp
tích cực trong việc phịng và chống bệnh.
Mặc dù vậy do đặc tính của dịch cúm A/H5N1 là lây lan rất nhanh và gây
chết cho động vật trong thời gian ngắn nên việc đưa vacxin kháng virus cúm vào
cơ thể động vật cần phải có thời gian để vacxin kết hợp với kháng nguyên của cơ

thể tạo nên kháng thể mới có tác dụng do vậy vẫn có thể gây thiệt hại cho người
chăn nuôi.Việc nghiên cứu và sản xuất ra kháng thể để khi đưa vào cơ thể động
vật có tác dụng nhanh kháng virus cúm A/H5N1 là đề tài cần nghiên cứu.

TRẦN THẾ ANH

2

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Chúng tơi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “ Nghiên cứu, sản xuất kháng thể
kháng virus cúm A/H5N1chủng NIBGR – 14 phục vụ trong phịng trị bệnh “.
Với mong muốn góp phần làm giảm thiệt hại cho người chăn nuôi và đặc biệt
hơn là sản xuất được kháng thể kháng virus cúm A/H5N1 phục vụ trong phịng
và trị bệnh.
Đề tài có những mục tiêu cụ thể sau:
- Nghiên cứu quy trình sản xuất kháng thể kháng virus cúm A/H5N1 qua
thỏ và lòng đỏ trứng gà.
- Sản xuất được kháng thể phục vụ trong phòng trị bệnh.
Đề tài được nghiên cứu tại Cơ sở Hóa sinh Dược Thú y, Trường đại học Nông
Nghiệp Hà Nội.

TRẦN THẾ ANH

3


Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

PHẦN I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Giới thiệu chung về bệnh cúm gia cầm.
1.1.1. Khái niệm về bệnh cúm gia cầm:
Bệnh cúm ở gia cầm (Avian Influenza) còn gọi là bệnh cúm gà hay cúm loài
chim. Là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi virus cúm type A thuộc họ
Orthomyxoviridae.
Virus cúm gia cầm gây bệnh cho gà, vịt, ngan, ngỗng, gà tây, chim cút, đà
điểu, các loài chim cảnh và chim hoang dã. Và nguy hiểm hơn bệnh có thể lây
sang người và một số lồi thú khác.
Trước đây bệnh này cịn được gọi là bệnh dịch tả gà (fowl plague) nhưng từ
hội nghị quốc tế lần thứ nhất về bệnh cúm gia cầm tại Beltsville - Mỹ năm 1981
đã thay thế tên này bằng tên bệnh cúm gia cầm độc lực cao (HPAI - Highty
Pathogenic Avian Inluenza) để chỉ các virus cúm type A có độc lực mạnh, gây
lây lan nhanh, tỷ lệ tử vong cao [2].
1.1.2. Lịch sử bệnh cúm gia cầm:
Năm 412 trước công nguyên, Hippocrates đã mô tả về bệnh cúm. Năm 1680
một vụ đại dịch cúm đã được mơ tả kỹ và từ đó đến nay đã xảy ra 31 vụ đại dịch.
Trong hơn 100 năm qua đã xảy ra 4 vụ đại dịch cúm vào các năm 1889, 1918,
1957, 1968.
Bệnh cúm gia cầm thể độc lực cao (HPAI) được phát hiện lần đầu tiên ở
Italia vào năm 1878 và được đặt tên là bệnh dịch hạch gà, bệnh gây tỷ lệ tử vong

rất cao ở đàn gia cầm.

TRẦN THẾ ANH

4

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Đến năm 1901, virus bệnh nguyên được Centanny Samnozzi xác định là
một tác nhân virus qua lọc. Nhưng phải đến năm 1955 mới xác định được
virus đó chính là virus cúm type A (H7N1 và H7N7) gây chết nhiều gà, gà
tây và các loài khác.
Qua nhiều năm nghiên cứu các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng bệnh dịch
nghiêm trọng nhất xảy ra với gà là những chủng gây bệnh cao thuộc phân type
H5 và H7 như ở Scotland năm 1959 là H5N1, ở Mỹ năm 1983 - 1984 là H5N2.
Cuối thập kỷ 60, phân type H1N1 đã phát hiện ở lợn và có liên quan đến
những ổ dịch ở gà tây với biểu hiện đặc trưng là những triệu chứng ở đường hô
hấp và giảm năng suất [2].
Vào giữa thế kỷ 20, bệnh đã xuất hiện ở hầu hết các nước Châu Âu, Nga,
Bắc Phi, Trung Đông Châu Á, Nam và Bắc Mỹ. Virus cúm gia cầm subtype H5
đã được tìm thấy ở Canada vào năm 1966 và vùng Wisconsin thuộc nước Mỹ
năm 1968. Từ năm 1977, nhiều subtype thuộc virus cúm A như H5 và H7 đã
được phân lập và mô tả. Trong năm 1972, virus cúm gia cầm đã được phát hiện
từ vịt chạy đồng qua chương trình giám sát virus bệnh Newcastle và theo dõi
chim hải âu ở Australia. Đầu năm 1996, bệnh cúm gia cầm được thông báo ở

trên ngỗng. Năm 1997, dịch xảy ra ở Hồng Kông, được xác định là do virus
H5N1 gây ra và đã phải tiêu huỷ khoảng 1,5 triệu con gà [26].
1.2. Tình hình dịch cúm A/H5N1.
1.2.1. Tình hình dịch cúm gia cầm A/H5N1 trên thế giới:
Cúm A/H5N1 là một virus có độc lực cao, và gây bệnh trên người trong các
vụ dịch cúm gà những năm 1996 - 2008, đặc biệt ác liệt là do virus cúm A/H5N1
thể độc lực cao (HPAI, highly pathogenic avian influenza) gây ra kể từ năm
TRẦN THẾ ANH

5

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

2003 cho đến nay và phát sinh nhiều nhóm, phân nhóm (clade) có độc lực rất
cao. Chủng virus cúm A/H5N1 được phát hiện lần đầu tiên gây bệnh dịch trên gà
tại Scotland vào năm 1959. Từ đó cho đến nay, H5 và N1 đã có thay đổi lớn xét
về cấu trúc thành phần gen và kháng nguyên miễn dịch. Sau gần 40 năm không
phát hiện, cúm A/H5N1 xuất hiện tại Quảng Đông (1996), và Hồng Kông (1997)
với biến đổi sâu sắc, không những gây chết gia cầm mà cịn thích ứng và gây
chết người bệnh. Có thể coi dịng virus cúm A/H5N1 từ 1996 đến nay là cúm
A/H5N1 hiện đại mới xuất hiện. Đặc biệt, từ 2003 đến nay, virus H5N1 gây ra
dịch cúm trên gia cầm tại Hồng Kông, Trung Quốc và lây lan sang hàng chục
quốc gia trên thế giới ở châu Á, châu Âu và châu Phi. Cúm A/H5N1 giai đoạn
2003 đến nay, cơ bản về cấu trúc vẫn như trước đó, nhưng xét về độc lực (tính
gây bệnh), lồi vật chủ nhiễm bệnh, tính kháng ngun - miễn dịch và mức độ

truyền lây có nhiều nét đặc trưng hơn và khác với nhiều biến chủng H5N1 trước
đây.
Từ cuối 2005, cúm A/H5N1, chủ yếu là các chủng virus thuộc phân dòng
Thanh Hải (nguồn gốc vùng Bắc Trung Quốc) bắt đầu lan sang một số nước
vùng Trung Á, trong đó có Nga, rồi tràn ngập Đơng Âu và xâm nhập vào các
nước vùng Tiểu Á, bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ, các nước Bắc- Trung Phi, đặc biệt Ai
Cập và Nigeria là các nước chịu thiệt hại nhiều nhất. Nhằm ngăn chặn dịch bệnh
lây lan, trong hơn mười năm qua, trên thế giới đã có hàng trăm triệu gia cầm đã
bị tiêu hủy, gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi và kinh tế. Đặc biệt, số
người nhiễm và tử vong do virus cúm A/H5N1 mỗi năm một cao hơn, theo thống
kê số người bị nhiễm cúm gia cầm H5N1 báo cáo với Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), từ năm 2003 đến tháng 6/2008, đã có tới 385 trường hợp mắc cúm
A/H5N1, trong đó, 243 trường hợp đã tử vong chiếm tới 63,11%. Việt Nam và
Indonesia là các 2 quốc gia có số người nhiễm và tử vong cao nhất do virus cúm
TRẦN THẾ ANH

6

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

A/H5N1 trên thế giới. Trong số 16 nước có người chết do cúm gia cầm,
Indonesia và Việt Nam được WHO xác định là quốc gia “điểm nóng” có thể cúm
A/H5N1 có được các điều kiện thuận lợi để tiến hóa thích nghi lây nhiễm và trở
thành virus của người [24].
1.2.2 Tình hình dịch cúm A/H5N1 tại Việt Nam:

Dịch cúm gia cầm A/H5N1 bùng phát tại Việt Nam vào cuối tháng
12/2003 ở các tỉnh phía Bắc, sau đó đã nhanh chóng lan tới hầu hết các tỉnh,
thành trong cả nước chỉ trong một thời gian ngắn. Đây là lần đầu tiên dịch cúm
gia cầm A/H5N1 xảy ra tại Việt Nam, có tới hàng chục triệu gia cầm bị tiêu hủy,
gây thiệt hại nặng nền tới nền kinh tế quốc dân. Tính đến nay (tháng 10/2008),
dịch cúm gia cầm liên tục tái bùng phát hàng năm tại nhiều địa phương trong cả
nước, có thể phân chia thành các đợt dịch lớn như sau:
- Đợt dịch thứ nhất từ tháng 12/2003 và 30/3/2004: dịch cúm xảy ra ở các
tỉnh Hà Tây, Long An và Tiền Giang. Dịch bệnh lây lan rất nhanh, chỉ trong
vòng hai tháng đã xuất hiện ở 57/64 tỉnh thành trong cả nước. Tổng số gà và
thủy cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy hơn 43,9 triệu con, chiếm 17% tổng đàn gia
cầm. Trong đó, gà chiếm 30,4 triệu con, thủy cầm 13,5 triệu con. Ngồi ra, có ít
nhất 14,8 triệu chim cút và các loài khác bị chết hoặc tiêu hủy. Đặc biệt, có 3
người được xác định nhiễm virus cúm A/H5N1 và cả 3 đã tử vong trong đợt dịch
này. [11]
- Đợt dịch thứ 2 từ tháng 4 đến tháng 11/2004: dịch bệnh tái phát tại 17
tỉnh, thời gian cao điểm nhất là trong tháng 7, sau đó giảm dần đến tháng
11/2004 chỉ còn một điểm phát dịch. Tổng số gia cầm tiêu hủy được thống kê
trong vụ dịch này là 84.078 con. Trong đó, có gần 56.000 gà; 8.132 vịt; và

TRẦN THẾ ANH

7

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI


19.950 con chim cút. Và đã có tới 27 người mắc bệnh virus cúm A/H5N1, trong
đó có 9 ca tử vong. [11].
- Đợt 3 từ tháng 12/2004 cho đến tháng 12/2005: dịch cúm gà xảy ra trên
36 tỉnh/thành trong cả nước. Số gia cầm bị tiêu hủy được Cục Thú y thống kê là
1,846 triệu con (gồm 470.000 gà, 825.000 thủy cầm và 551.000 chim cút). Vào
những tháng cuối năm 2005, dịch cúm gà xảy ra trong tháng 10/2005 lan nhanh
trong gần 40 tỉnh/thành và giảm dần trong tháng 12/2005. [21].
- Năm 2006, do áp dụng chương trình tiêm chủng rộng rãi cho đàn gia
cầm trong cả nước, cùng với các biện pháp phịng chống dịch quyết liệt, dịch
cúm A/H5N1 khơng xảy ra ở Việt Nam. Mặc dù vậy, đến 06/12/2006 dịch cúm
gia cầm A/H5N1 đã tái bùng phát ở Cà Mau, sau đó lan sang các tỉnh Bạc Liêu,
Hậu Giang, Vĩnh Long và Cần Thơ. [11].
- Năm 2007, dịch bệnh tái phát tại Hải Dương vào ngày 17/2/2007 và
được khống chế sau một tháng. Tuy nhiên, đến ngày 01/5/2007 dịch bệnh tiếp
tục tái phát tại Nghệ An, sau đó lan sang nhiều tỉnh/thành trong cả nước. Theo
báo cáo của Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) đến ngày
10/6/2007 dịch đã xảy ra trên 16 tỉnh/thành và chỉ được khống chế hoàn toàn vào
tháng 8/2007.
- Những tháng đầu năm 2012, theo báo cáo của Cục Thú y dịch cúm gia
cầm đã xuất hiện ở một số tỉnh/thành như: Kom Tum, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Hà
Nội, Quảng Nam và đến nay cơ bản đã khống chế được dịch. [11].
- Theo thống kê của Cục Thú y, từ ngày 26/12/2003 đến ngày 31/3/2010
nước ta đã có 59 người chết/117 trường hợp nhiễm bệnh.
1.2.3. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được về bệnh cúm gia cầm ở Việt Nam.
TRẦN THẾ ANH

8

Lớp: KSCNSH 0802-K15



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

1.2.3.1. Sự lưu hành virus cúm gia cầm ở Việt Nam[5].
Virus cúm gia cầm H5N1 gây bệnh cho gia cầm ở Việt Nam có nguồn gốc
từ Trung Quốc thuộc gennotyp Z.
Virus cúm H5N1 có tính kháng ngun rất đa dạng từ khi xuất hiện tại Việt
Nam và đã xuất hiện một số chủng có tính kháng ngun hồn tồn khác và được
phân vào nhóm kháng nguyên HA Clade 2 hoặc Genotyp G.
Virus H5N1 có thể tồn tại lâu hơn trong mơi trường so với các loại virus
cúm khác. Điều quan trọng là trong điều kiện mơi trường bình thường (nước
sơng suối, ở nhiệt độ 20 - 300C) virus chỉ bị mất hoạt lực sau 90 giờ, trong mơi
trường có chất hữu cơ virus có thể tồn tại lâu hơn. Đối với virus trong cơ thể gia
cầm bệnh được chôn dưới đất chúng chỉ giữ được tính gây nhiễm khơng q 5
ngày.
Để làm nâng cao tính nhạy cảm của phương pháp chẩn đốn nên chẩn đốn
virus cúm bằng phương pháp RT-PCR, trong đó xác định virus type A trước
(thông qua xác định gen M) sau đó mới xét nghiệm các đặc tính subtype khác.
Đã phát hiện cầy hương tại rừng Cúc Phương bị chết do virus H5N1. Điều
này cho thấy cần phải có các biện pháp an toàn sinh học cho các vườn quốc gia
và nhất là các sở thú.
Đã chế tạo thành công kháng nguyên HA H5N1 dùng trong giám sát huyết
thanh cúm gia cầm. Mặt khác cũng đã chế tạo thành công kháng huyết thanh
kháng H5N1 dùng trong nghiên cứu và chẩn đoán bệnh.
Đã khảo sát chất sát trùng Alpha Terpineol từ tinh dầu tràm có khả năng sát
khuẩn và làm giảm sự nhân lên của virus H5N1 trên môi trường tế bào.


TRẦN THẾ ANH

9

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

1.2.3.2. Kết quả nghiên cứu phát triển vacxin phòng bệnh cúm gia cầm tại Việt
Nam:
Đã nghiên cứu thành cơng:
- Quy trình sản xuất vacxin cúm A/H5N1.
- Quy trình bảo quản và sử dụng vacxin cúm A/H5N1.
- Quy trình tiếp truyền giống gốc và sản xuất giống cấp một.
1.3. Dịch tễ học cúm gia cầm.
1.3.1. Phân loại:
Virus nói riêng cũng như virus cúm nói chung thường được phân loại chủ
yếu theo tính kháng nguyên. Khi dùng phản ứng kết tủa trên thạch hoặc kết hợp
bổ thể người ta thấy có 3 nhóm virus khác nhau và đặt tên cho 3 nhóm là virus
A, B, và C. Dùng phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu người ta thấy virus type
A lại có nhiều loại khác nhau. Trên cơ sở kết quả của phản ứng ức chế ngưng kết
hồng cầu, khi phát hiện ra rằng kháng thể kháng ngưng kết hồng cầu là kháng thể
được tạo ra để chống lại protein HA nhưng không ức chế tồn bộ các virus type
A. Từ đó virus type A được chia ra các type phụ (subtype) trên cơ sở có phản
ứng HI đặc hiệu. Cho đến năm 2004 tổng số subtype chia theo khả năng ngưng
kết hồng cầu là 16. Cũng như vậy với protein NA, người ta phát hiện ra 9 loại
NA có tính kháng ngun khác nhau và được đặt tên là từ N1 cho đến N9. Virus

cúm type A là kết quả sự tổ hợp giữa 2 loại protein này. Chính vì vậy chúng ta
có virus cúm đặt tên là HxNy. Việc phân loại virus như trên do ủy ban định danh
quốc tế tiến hành [6].
Có 2 kiểu phân loại virus cúm dịng Châu Á (theo quy định của WHO) đó
là:
TRẦN THẾ ANH

10

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Phân loại theo kiểu gen: Virus cúm dịng Châu Á phải có 2 đoạn RNA chịu
trách nhiệm tổng hợp protein HA và NA có nguồn gốc từ virus cúm H5N1 phân
lập từ ngỗng ở Quảng Đông (Trung Quốc) vào năm 1996. Tùy theo nguồn gốc
của 6 đoạn gen còn lại mà người ta đặt tên cho kiểu gen của virus đó. Tại Việt
Nam cho đến nay chúng ta đã phát hiện có 3 kiểu gen, đó là Z, G, và V.
Phân loại theo nhóm kháng nguyên: Do sự biến đổi di truyền liên tục nên
protein HA của virus cúm H5N1 dòng Châu Á có tính kháng ngun thay đổi.
Bằng phản ứng HI xác định hiệu giá kháng thể của các loại virus cúm H5N1
dịng Châu Á thì các virus cúm có hiệu giá kháng thể chênh lệch nhau không quá
1log được phân vào cùng một nhóm kháng nguyên. Khi hiệu giá HI lệch 2log trở
lên thì virus sẽ thuộc nhóm kháng ngun khác. Hiện nay đã có đến 9 nhóm
kháng nguyên khác nhau [6].
1.3.2. Tên gọi của virus cúm A/H5N1.
Tên của virus cúm được đặt theo quy ước quốc tế bắt đầu bằng type virus,

và subtype (nghĩa là theo tên gọi của protein HA và NA). Như vậy chúng ta viết:
virus type A H5N1. Tên của từng chủng virus được viết bắt đầu từ tên type, tên
lồi động vật mà từ đó virus được phân lập, tên địa phương nơi phân lập được
(tên nước, tên tỉnh, hoặc tên bang), sau đó ký hiệu riêng của phịng thí nghiệm
nơi phân lập được, năm phân lập và để trong ngoặc tên chung của virus. Ví dụ:
A/DK/VNM/450/06[H5N1]. Riêng với virus cúm phân lập từ người thì khơng
cần để tên động vật nữa, ví dụ A/Việt Nam/1303/03[H5N1] [6].
1.3.3. Cấu trúc của virus cúm A/H5N1.
1.3.3.1. Cấu trúc chung [6]:
Vius cúm gà có tên khoa học là Avian Influenza virus, thuộc họ
Orthomyxoviridae, là họ virus đa hình thái, có vỏ ngồi, genome là RNA đơn.
TRẦN THẾ ANH

11

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Hạt virus có dạng hình khối trịn hình trứng hoặc dạng khối kéo dài, đường
kính khoảng 80 - 120nm, nhiều khi virus có dạng hình sợi dài đến vài µm. Phân
tử lượng của hạt virus khoảng 4,6 - 6,4 Dalton.
Vỏ ngoài của virus là một màng lipid. Trên màng này có hai loại protein là
Hemagglutinin (HA) và Neuraminidase (NA). Bên trong virus có hai thành phần
gồm axit nhân loại RNA và protein. RNA của virus cúm là sợi đơn gồm 7 hoặc 8
đoạn riêng biệt, các sợi RNA này được bao bọc bởi các protein chủ yếu là NP
(Nucleoprotein) và protein M (Mactrix) tạo ra Nucleocapsid.

1.3.3.2. Cấu trúc gennom [24].
Hệ gen của virus cúm chứa duy nhất Axit ribonucleic (RNA) một sợi, có
cấu trúc là sợi âm, ký hiệu là SS (-) RNA (Negative single stranded RNA). Sợi
âm RNA có độ dài 10.000 - 15.000 nucleotit, không được nối với nhau tạo thành
một sợi RNA hoàn chỉnh mà phân chia thành 7 - 8 phân đoạn có cấu trúc riêng
biệt, mà mỗi một phân đoạn là một gen chịu trách nhiệm cho mỗi một loại
protein của virus.

Hình 1. Các dạng hình thái khác nhau dưới kính hiển vi điện tử (A), mơ
hình cấu tạo hạt virus (B), cấu trúc của phức hợp ribonucleoprotein RNP (C)
của virus cúm A.
TRẦN THẾ ANH

12

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

1.3.4. Sự biến đổi gen di truyền của virus cúm A/H5N1.
Virus cúm liên tục biến đổi về gen di truyền tạo ra virus mới. Cơ chế của sự biến
đổi đó là:
Thay đổi do đột biến điểm: Việc phân chia virus H5N1 dòng Châu Á theo
nhóm kháng ngun như nói ở trên chính là kết quả của đột biến điểm của đoạn
gen HA. Khi virus nhân lên trong tế bào ký chủ sẽ có sự sai lệch trong sao chép
dẫn đến thay đổi một hoặc nhiều nucleotid, dẫn đến thay đổi cấu trúc của mã di
truyền và protein HA. Sự thay đổi này làm tính kháng ngun thay đổi theo.

Việc thay đổi khơng chỉ xảy ra ở gen HA mà còn ở các gen khác. Do vậy hàng
năm nhóm chuyên gia về cúm của WHO thường phải xem xét và chọn ra loại
virus mới để sản xuất vaccine thay thế cho chủng virus năm trước [6].
Thay đổi do tổ hợp: Khi 2 virus cúm type A cùng nhiễm vào trong một tế
bào, chúng đều tổng hợp ra hàng ngàn phân tử protein và đoạn RNA của chính
mình. Để hình thành một hạt virus cần tổ hợp 8 đoạn RNA và các loại protein.
Lúc này khơng phải đoạn RNA của virus nào thì theo nhau làm thành một hạt
virus giống với virus thế hệ trước, mà chúng tự sắp xếp miễn sao có đủ 8 đoạn
RNA bất kể của virus nào. Kết quả là virus khi hình thành có thể có tất cả 8 đoạn
RNA đều là của một trong hai loại virus bố mẹ hoặc có một số đoạn RNA của
virus này và số còn lại của virus kia. Do sự biến đổi liên tục nên virus cúm luôn
luôn được coi là mới.
1.3.5. Sự nhân lên của virus cúm A/H5N1 trong tế bào vật chủ.
Quá trình nhân lên của virus cúm chia ra nhiều giai đoạn, gồm có giai đoạn
bám dính, xâm nhập, tổng hợp protein và RNA (pha sớm và pha muộn), lắp ráp
và giải phóng virus (hình 2). Sự bám dính của virus cúm vào tế bào ký chủ bắt
đầu bằng sự bám dính khơng đặc hiệu do các loại đường có trên protein HA
quyết định. Tại đây vai trị của mối liên kết α 2 - 3 hay α 2 - 6 quyết định mức độ
TRẦN THẾ ANH

13

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

bám dính. Sau đó các men proteaza có trong ký chủ sẽ cắt đôi protein HA tại

điểm cắt và giúp cho protein này bám vào thụ thể của tế bào ký chủ. Sau khi có
mối liên kết HA - thụ thể thì men neuraminidase (NA) của virus sẽ cắt các axit
sialic của tế bào (taminflu có tác dụng ức chế NA tức là ức chế quá trình này).
Khi virus bám vào thụ thể, tạo ra thơng tin cho q trình ẩm bào bắt đầu. Mảng
tế bào tại nơi có virus bám vào sẽ lõm vào trong tạo thành một túi nhỏ, miệng túi
khép lại và virus được nằm trong một quả cầu nhỏ gọi là endosome. Màng của
endosome như vậy chính là màng tế bào được lộn ngược vào trong. Người ta gọi
quá trình này là quá trình ẩm bào. Trong nguyên sinh chất màng endosome này
sẽ sát nhập với màng của lysosome. Mơi trường bên trong lysosome sẽ toan hóa
giúp cho màng lipid của virus sát nhập với màng của lysosome. Mặt khác,
protein M2 của virus sẽ bơm H + vào bên trong virus làm cho phần bên trong
của virus sẽ toan hóa. Nếu ta coi virus như một cái túi thì miệng túi sẽ gắn
với màng lysosome, sau đó chiếc túi này được mở ra và lộn ngược ra giải
phóng nucleocapsid của virus vào trong nguyên sinh chất.

Hình 2: Cơ chế xâm nhiễm và nhân lên của virus cúm A trong tế bào chủ.
1.3.6. Đặc tính ni cấy virus cúm A/H5N1.

TRẦN THẾ ANH

14

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Phần lớn các chủng virus có thể phát triển ổn định ở trứng gà có phơi hoặc

ở các loại tế bào mầm. Đây chính là đặc điểm quan trọng để nhân giống virus trong
phịng thí nghiệm để nghiên cứu, bảo tồn cũng như để sản xuất vacxin. Đối với các
chủng virus cúm cũng có những đặc tính như vậy. Tuy nhiên, virus cúm type A chỉ
phát triển ở trong môi trường tế bào khơng có huyết thanh chứa trypsin. Một số hệ
thống tế bào kể cả dòng tế bào MDCK cần được ni cấy ở trong mơi trường khơng
có huyết thanh có chứa trypsin để tách các protein HA của virus giúp cho việc hình
thành các khuẩn lạc. Một số loại mơi trường tế bào như tế bào gan HepG2 của
người, tế bào thận phôi lợn (ESK) và tế bào thận gà (CK) cũng đã được chứng minh
là có nhiều hứa hẹn và nhạy cảm hơn đối với virus cúm gia cầm [19].
1.3.7. Độc lực và sức kháng của virus.
1.3.7.1. Độc lực của virus:
Để đánh giá độc lực của virus cúm người ta sử dụng phương pháp gây bệnh
cho gà 3 - 6 tuần tuổi bằng cách tiêm tĩnh mạch 0,2ml nước trứng đã được gây
nhiễm virus với tỉ lệ pha loãng 1/10, sau đó đánh giá mức độ bệnh của gà để cho
điểm (chỉ số IVPI), điểm tối đa là 3 và đó là virus có độc lực cao nhất. Theo quy
định của ủy ban Châu Âu [30] thì những virus có chỉ số IVPI từ 1,2 trở lên là
thuộc nhóm virus có độc lực cao. Căn cứ vào chỉ số IVPI các nhà khoa học đã
thống nhất chia virus cúm làm 3 loại:
- Loại virus có độc lực cao: Nếu sau 10 ngày tiêm tĩnh mạch cho gà mà làm
chết 75 - 100% gà thực nghiệm, virus gây cúm gà phải làm chết 20% số gà mẫn
cảm thực nghiệm và phát triển tốt trên môi trường tế bào xơ phôi gà và tế bào
thận trong điều kiện môi trường nuôi cấy khơng có trypsin.

TRẦN THẾ ANH

15

Lớp: KSCNSH 0802-K15



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

- Loại virus có độc lực trung bình: Là những chủng virus gây dịch cúm gà
với triệu chứng lâm sàng rõ rệt nhưng gây chết không quá 15% số gà bị nhiễm
bệnh tự nhiên và không quá 20 % số gà mẫn cảm thực nghiệm.
- Loại virus có độc lực thấp: Là những virus phát triển tốt trong cơ thể gà,
có thể gây ra dịch cúm nhưng khơng có triệu chứng lâm sàng rõ rệt và khơng tạo
ra bệnh tích đại thể, không làm chết gà.
Tuy nhiên trong thực tế virus cúm ở lồi chim được phân chia theo tính gây
bệnh với hai mức độ độc lực:
- Loại có độc lực thấp (LPAI): Là loại virus khi phát triển trong cơ thể bị
nhiễm, có thể gây bệnh cúm nhẹ, khơng có triệu chứng lâm sàng điển hình và
khơng làm chết vật chủ. Đây là loại virus lây truyền rộng rãi và tạo nên các ổ
bệnh trong tự nhiên của virus cúm A. Loại này có thể trao đổi gen với các chủng
virus có độc lực cao đồng nhiễm trên cùng một tế bào, và trở thành loại virus
HPAI nguy hiểm.
- Loại có độc lực cao (HPAI): Là loại virus cúm A có khả năng gây tổn
thương nhiều cơ quan nội tạng trong cơ thể bị nhiễm, trên gia cầm chúng thường
gây chết 100% số gia cầm bị nhiễm trong vòng 48 h sau nhiễm. HPAI lây lan
nhanh hơn LPAI và gây chết cao hơn với các loài họ nhà chim. Từ 1959 đến
2001 trên tồn thế giới đã có 19 chủng cúm A của lồi lơng vũ được phân lập có
độc lực cao thuộc loại HPAI, trong đó, một số đã lây nhiễm và thích ứng gây
bệnh trên người [24].
1.3.7.2. Sức đề kháng của virus:
Virus cúm type A tương đối nhạy cảm với các chất hóa học như fomalin,
axit pha lỗng, ete, sodium desoxycholat, hydroxylamon, ... [2].
TRẦN THẾ ANH


16

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Những chất sát trùng thông thường như: NaOH 2%, Formol 3%, Crezin
5%, Chloramin B 3%, Cồn 70 - 90 0, vôi bột hoặc nước vơi 10%, nước xà phịng
đặc, ... đều diệt được virus cúm gia cầm. Người ta có thể dùng các chất này để
tổng tẩy uế chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi và các thiết bị chăn nuôi khi cơ sở bị
đe dọa [4].
Virus không bền với nhiệt độ [32]:
- Ở 50 - 600C chỉ vài phút là virus mất độc tính, ở 70 0C virus chết ngay, ở
40C virus tồn tại được 35 ngày, trong thịt đông lạnh virus tồn tại được 23 ngày,
nhiệt độ bảo tồn của virus là -700C đến - 800C.
- Virus có thể sống trong chuồng gà tới 35 ngày, trong phân gia cầm
bệnh tới 3 tháng.
Điều kiện ngoại cảnh có ảnh hưởng rõ rệt đến sức đề kháng của virus cúm
H5N1. Virus thường sống lâu hơn trong khơng khí ở độ ẩm tương đối thấp, trong
phân ở điều kiện nhiệt độ thấp và độ ẩm cao [4].
1.3.8. Động vật cảm nhiễm.
Tất cả các loài gia cầm (gà, vịt, ngan, chim cút, vẹt, bồ câu, chim hoang dã
đặc biệt là thủy cầm di trú) đều mẫn cảm với virus cúm type A.
Ngoài ra virus cúm type A cịn gây bệnh cho nhiều lồi động vật có vú như
lợn, ngựa, chồn, hải cẩu, thú hoang dã và cả con người. Lợn mắc bệnh cúm
thường do phân type H1N1 và H3N3. Trong một ổ dịch tại một trại nuôi chồn ở
Thụy Điển đã phân lập virus cúm type A H4N1, chồn mắc bệnh 100% nhưng chỉ

chết 3%. Phân type này đang lưu hành trong các loài gia cầm [1].
Vịt ni cũng bị nhiễm virus cúm nhưng ít phát bệnh do vịt có sức đề kháng
với virus bệnh, kể cả những chủng có độc lực cao gây bệnh nặng cho gà tây. Tuy
TRẦN THẾ ANH

17

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

nhiên năm 1961 ở Nam Phi đã phân lập được virus cúm type A H5N1 gây bệnh
cho cả gà và vịt [1].
Phần lớn các loài gia cầm non đều mẫn cảm với virus cúm type A.
Mới đây các nhà khoa học đã phát hiện virus cúm gia cầm có trong máu
muỗi ở Thái Lan và hiện nay có thêm một lồi động vật có vú nữa là chó bị
nhiễm. Trước đó các nhà khoa học đã phát hiện được virus cúm gia cầm trên hổ
(Thái Lan), mèo (Hà Lan), cầy vằn (Việt Nam), lợn, tôm sú (Anh) [26].
1.3.9. Sự lây truyền.
Khi gia cầm bị nhiễm, virus được nhân lên trong đường hô hấp và đường tiêu
hoá. Sự truyền lây bệnh được thực hiện theo hai phương thức là trực tiếp và gián
tiếp:
Lây truyền trực tiếp do con vật mẫn cảm tiếp xúc với con vật mắc bệnh
thơng qua các hạt khí dung được bài tiết từ đường hô hấp hoặc qua phân, thức ăn
và nước uống có chứa mầm bệnh.
Đối với các virus gây bệnh cúm truyền nhiễm cao ở gia cầm thì sự lây chủ
yếu qua phân, đường miệng.

Đối với gia cầm nuôi nguồn dịch thường là từ:
Các gia cầm nuôi khác nhau trong cùng một trang trại hoặc trang trại khác
liền kề như vịt lây sang gà hoặc từ gà tây lây sang gà, gà nhật lây sang gà lôi. Từ
gia cầm nhập khẩu, từ chim di trú (đặc biệt là thủy cầm di trú).

TRẦN THẾ ANH

18

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Hình 3. Mối quan hệ lây nhiễm và thích ứng các lồi vật chủ của virus cúm A.
1.4. Triệu chứng và bệnh tích.
1.4.1. Triệu chứng:
Thời gian ủ bệnh từ 2 giờ đến 3 ngày kể từ khi nhiễm virus đến khi xuất
hiện những triệu chứng đầu tiên (tùy theo lượng virus, đường lây nhiễm và
loài cảm nhiễm).
Biểu hiện lâm sàng của bệnh cúm rất khác nhau do các yếu tố sau: chủng
virus, lồi cảm nhiễm, tuổi, giới tính, liều gây nhiễm, mơi trường (độ bụi, thừa
amoniac, ...), chế độ dinh dưỡng, tình trạng miễn dịch của vật chủ trước khi
nhiễm virus và sự cộng nhiễm cùng với virus cúm gia cầm của các vi khuẩn,
virus khác như E.coli, các Mycoplasma, Newcastle.
Triệu chứng bệnh ở gà [12]:
- Gà từ 3 tuần đến hai tháng tuổi bệnh biểu hiện chủ yếu là ho hen đột ngột
và nhanh chóng lan ra cả đàn. Gà bị sốt rất cao, nước mắt, nước miệng chảy dàn

dụa, nhiều gà phải há mồm thở dốc, có con vảy mỏ khạc đờm, đờm nhầy đặc đôi
khi lẫn máu. Gà bị tụt mào, mào tích thâm tím hoặc xuất huyết nhưng ít phù nề.
TRẦN THẾ ANH

19

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Xuất huyết ở dưới da chân, kẽ ngón chân ở những gà sắp chết. Gà kém ăn nhưng
uống nhiều nước, ỉa chảy phân loãng xanh trắng. Gà hay nằm, run rẩy, đi không
vững, đầu cổ co giật. Bệnh thường kéo dài 1 - 10 ngày và kết thúc với tỷ lệ chết
rất cao 70 - 100%.
- Ở gà từ 3 - 10 tháng tuổi, đặc biệt là gà sắp đẻ và đang đẻ bệnh diễn biến
rất nhanh, ln ở thể cấp tính và quá cấp tính với các triệu chứng sau: trong đàn
gà khỏe bỗng dưng thấy một số con sốt cao, mào và tích bị thâm tím, phù nề và
xuất huyết. Sau đó khó thở, rướn cổ để hít khí hoặc để khạc đờm, đờm dãi
thường đặc quánh và lẫn máu. Tình trạng đàn gà khơng bình thường, có con chạy
tán loạn, xoay vòng một lúc rồi chết. Một số con tự nhiên dãy chết mà khơng có
triệu chứng gì. Các biểu hiện lâm sàng ở mỗi cá thể gà trong cùng một đàn cũng
rất khác nhau.
Triệu chứng bệnh ở vịt và ngan [12]:
Bệnh thường tập trung ở lứa tuổi 2 - 11 tháng tuổi với các biểu hiện:
- Về hô hấp: Ngan, vịt bị cúm lúc đầu chảy nước mũi, nước mắt, mắt bị
viêm giác mạc và có dử mắt. Sau đó sốt cao, khó thở.
- Về tiêu hóa: Ngan, vịt kém ăn hoặc bỏ ăn, tiêu chảy mạnh phân lỗng

trắng hoặc lỗng xanh, niêm mạc hậu mơn bị phù nề và xuất huyết nặng.
- Về sinh sản: Chỉ 1 - 2 ngày sau khi xảy ra bệnh năng suất trứng giảm rõ
rệt thậm chí ngừng đẻ.
- Về thần kinh: Ngan, vịt yếu chân, bại chân, đi không vững, đầu cổ lắc lư.
Triệu chứng bệnh ở người: Đối với con người cúm gia cầm gây ra các triệu
chứng tương tự như của các loại cúm khác, đó là: sốt, ho, đau họng, đau nhức cơ
TRẦN THẾ ANH

20

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

bắp, viêm kết mạc. Ở những trường hợp nghiêm trọng có thể gây suy giảm hơ
hấp và viêm phổi, có thể dẫn đến tử vong. Mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ
thuộc phần lớn vào thể trạng sức khỏe, khả năng miễn dịch, tiền sử tiếp xúc virus
của người bị nhiễm [22].
1.4.2. Bệnh tích:
Các biến đổi bệnh lý ở gà [8]:
- Bệnh tích bên ngồi: Mào tích sưng phù, tím tái, xuất huyết ở chân vùng
da không lông, nghẹo cổ, phù thũng phần đầu mặt, xung quanh hốc mắt và các
xoang.
- Bệnh tích bên trong:
+ Bệnh tích vùng hầu họng: Khí quản xung huyết, xuất huyết và có nhiều
dịch nhầy. Viêm xoang, viêm khí quản từ dạng tiết dịch có sợi huyết đến dạng
dịch nhầy có mủ hoặc bã đậu.

+ Bệnh tích trên khoang ngực và khoang bụng: Hầu hết các cơ quan nội
tạng đều xuất huyết, viêm phúc mạc từ mức độ viêm thanh dịch đến có sợi huyết.
Vỡ trứng non. Xuất huyết trên cơ tim. Thành túi khí dày lên và đục, có nhiều
fibrin bám dính. Phổi viêm, xung huyết, xuất huyết. Gan có những điểm hoại tử
màu vàng hoặc xám. Tụy có những vùng xuất huyết thành vệt đỏ sậm và hoại tử
màu vàng. Manh tràng và ruột viêm từ mức độ thanh dịch đến sợi huyết. Lách
sưng to, xuất huyết và có thể có điểm hoại tử vàng và xám. Van hồi manh tràng
xuất huyết. Buồng trứng teo, xuất huyết. Dịch hồn xuất huyết. Thận có thể có
xuất huyết, hoại tử vàng và xám.

TRẦN THẾ ANH

21

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

1.5. Chẩn đoán bệnh cúm gia cầm.
1.5.1. Dựa vào đặc điểm dịch tễ:
Bệnh cúm gia cầm có tính lây lan rất nhanh và mạnh.
Loài vật mắc bệnh: Gà, ngan, vịt, chim hoang, chim ni. Vịt là lồi mang
mầm bệnh nhưng lại có ít biểu hiện triệu chứng lâm sàng, đây chính là nguồn
gieo rắc mầm bệnh ra môi trường.
Lứa tuổi mắc bệnh: Mọi lứa tuổi, mẫn cảm nhất là đang trong giai đoạn bắt
đầu sinh sản và trong giai đoạn sinh sản.
Tùy thuộc vào các yếu tố như môi trường, độc lực, số lượng virus, tuổi,

giống, giới tính, mật độ ni, khí hậu các ổ dịch có thời gian ủ bệnh ngắn từ 1 - 3
ngày và có thể tới 21 ngày tùy theo độc lực.
Các ổ dịch thường xảy ra nhanh ở những lần đầu với tỷ lệ chết cao 90 100% với triệu chứng lâm sàng rõ rệt.
Phương thức lây truyền: Gia cầm mắc bệnh bài thải virus qua nước bọt,
dịch nước mũi và phân. Những gia cầm cảm nhiễm khác sẽ nhiễm virus cúm khi
chúng tiếp xúc với những chất bài thải trên của gia cầm mắc bệnh.
Chim hoang được coi là nguồn truyền lây bệnh. Chim và gia cầm mẫn cảm
có thể bị nhiễm bệnh khi tiếp xúc trực tiếp với chim mắc bệnh hoặc gián tiếp qua
các bề mặt nhiễm bẩn.
Ngoài chim và gia cầm ra, một số lồi khác cũng có thể mắc bệnh như:
người, lợn, ngựa, ... [21].
1.5.2. Dựa vào triệu chứng, bệnh tích [3]:

TRẦN THẾ ANH

22

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Nếu trong đàn gia cầm hoặc trại chăn ni gia cầm có những biểu hiện sau
đây phải nghĩ ngay đến bệnh cúm gia cầm.
- Giảm 20% tỷ lệ tiêu thụ thức ăn, nước uống trong một ngày so với bình
thường.Tỷ lệ đẻ, tỷ lệ ấp nở giảm hẳn so với bình thường.
Đàn gà có những biểu hiện triệu chứng, bệnh tích như: sốt cao, chảy nước
mắt, nước dãi, ủ rũ, đứng tụm một góc chuồng, lơng xù, phù đầu và mặt, mào

tích sưng to và tím bầm, thở khó, hay vẩy mỏ, phân loãng màu sữa hoặc trắng
xanh, đi lại loạng choạng, run rẩy, nghẹo đầu. Xuất huyết dưới da thành mảng đỏ
tươi, khí quản xuất huyết, phổi xuất huyết. Túi khí dầy và đục, xuất huyết ở hầu
hết các cơ quan tiêu hóa, xoang bụng tích nước hoặc viêm dính.
1.5.3. Các phương pháp chẩn đốn phịng thí nghiệm.
Chẩn đốn xét nghiệm cúm gia cầm được thực hiện bằng cách: phát hiện
trực tiếp các protein hay gen cấu trúc virus cúm trong bệnh phẩm hoặc chẩn đoán
gián tiếp bằng phát hiện kháng thể kháng virus cúm.
Phát hiện kháng nguyên: Mẫu bệnh phẩm để phát hiện kháng ngun có thể
lấy bằng tăm bơng ngốy khí quản, lỗ huyệt, phân hoặc cơ quan phủ tạng. Đối
với phủ tạng có thể lấy khí quản, phổi, lách, lỗ huyệt và não [18].
Để phân lập virus ta dùng bệnh phẩm tiêm lên trứng gà có phơi 9 - 11 ngày
tuổi hoặc lây nhiễm trên môi trường tế bào MDCK (Madin - Darby Canine
Kidney Cells - môi trường tế bào dịng thận chó). Trên trứng gà có phơi ta dùng
bệnh phẩm tiêm vào xoang niệu mô với liều 0,2 ml/trứng. Virus cúm gia cầm
độc lực cao chủng H5N1 thường gây chết trứng trong thời gian 24 - 40 giờ. Sau
khi trứng chết thu hoạch nước xoang niệu mô và giám định. Để giám định virus
trước tiên phải thực hiện phản ứng HA. Do ngoài virus cúm, virus Newcastle
cũng gây ngưng kết hồng cầu, nên sau phản ứng HA cần tiếp tục thực hiện phản
TRẦN THẾ ANH

23

Lớp: KSCNSH 0802-K15


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI


ứng HI với kháng huyết thanh chuẩn để giám định chính xác type H của virus.
Hoặc bằng phương pháp RT - PCR (Reverse Transcriptase Polymerase Chain
Reaction) để xác định cả type H và type N.
Phát hiện kháng thể: Phản ứng huyết thanh học dùng để phát hiện kháng thể
đặc hiệu với virus cúm gia cầm sau 7 ngày nhiễm bệnh. Có nhiều kỹ thuật dùng
để giám sát chẩn đoán huyết thanh học như: ELISA, HI, phản ứng miễn dịch
huỳnh quang, kỹ thuật khuếch tán trên thạch [18].
Kỹ thuật ELISA: (Enzym Linked Immunosorbent Assay): Phương pháp này
có độ nhạy cao, cho kết quả nhanh. ELISA có thể phát hiện với ribonucleotide
của virus cúm nghĩa là chỉ có thể phát hiện được type A mà không thể xác định
được kháng thể với subtype của virus cúm. Phát hiện kháng thể 1 tuần sau khi
nhiễm.
Phản ứng ngăn trở ngưng kết hồng cầu (HI): Phương pháp này đặc hiệu và
có thể sử dụng để xác định được subtype của virus.
1.6. Biện pháp phòng chống.
Phòng chống bệnh cúm gia cầm là chương trình tổng hợp của các cơng trình
giám sát, chuẩn đốn bệnh, kiểm dịch giết mổ gia cầm kết hợp với các biện pháp
an toàn sinh học tăng cường; tiêu hủy, khử trùng, tiêu độc các ổ dịch; đồng thời
giáo dục, tuyên truyền cho người dân về tác hại của dịch bệnh cũng như các biện
pháp phịng ngừa. Tiêu hủy hồn tồn đàn gia cầm bị bệnh và đàn gia cầm có
tiếp xúc với đàn bị bệnh để tránh lây lan dịch bệnh.
Hiện nay việc sử dụng vacxin là cách để giảm thiệt hại tốt nhất do bệnh
cúm gia cầm gây ra đối với ngành chăn ni. Song việc này có thể dẫn đến sự
tiến hóa của các chủng virus đang lưu hành thành các chủng mới. Do đó việc sử
TRẦN THẾ ANH

24

Lớp: KSCNSH 0802-K15



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

dụng vacxin phải kết hợp chặt chẽ giám sát sau khi tiêm phòng, giám sát lưu
hành virus ở các đàn đã được tiêm để có biện pháp xử lý kịp thời.
1.7. Miễn dịch chống virus cúm [14].
1.7.1. Đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu.
Cũng giống như đối với các mầm bệnh khác, đáp ứng miễn dịch khơng đặc
hiệu là hàng rào phịng ngự đầu tiên ngăn cản sự xâm nhập của virus vào cơ thể.
Đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu (miễn dịch bẩm sinh) gồm phản ứng
viêm, sự thực bào bị nhiễm virus, sốt, và sự sản sinh interferon có tác dụng hạn
chế sự lây lan của virus tới các tế bào chưa bị nhiễm virus.
* Các tế bào thực bào và bổ thể:
Một khi virus đã xâm nhập vào cơ thể các tế bào thực bào gồm các tế bào
trung tính, các tế bào monocyte và các tế bào đại thực bào sẽ được hoạt hóa và
thực hiện các chức năng của chúng. Bổ thể cũng có tác dụng thúc đẩy quá trình
thực bào các hạt virus.
* Các cytokin (các interferon): Có 3 loại interferon: alpha (α), beta (β) và
gamma (γ). Interferon α và β (còn gọi là các interferon type 1) là các cytokin
được các tế bào bị nhiễm virus tiết ra. Chúng kết gắn với các thụ cảm quan đặc
hiệu có trên các tế bào liền kề và bảo vệ các tế bào đó chống lại sự xâm nhiễm
của virus. Ngoài những tác dụng diệt virus trực tiếp đó, interferon α và β cũng
thúc đẩy sự thể hiện các phân tử MHC loại I và loại II trên bề mặt các tế bào bị
nhiễm virus và chính bằng cách này mà thúc đẩy sự trình diện các kháng nguyên
virus tới các tế bào miễn dịch đặc hiệu. Interferon γ (còn được gọi là interferon
miễn dịch) là một cytokin do tế bào CD4 TH - 1 tiết ra, chức năng của interferon
γ là thúc đẩy các đáp ứng miễn dịch đặc hiệu qua trung gian tế bào T. Như vậy
nếu như interferon type 1 tạo cho tế bào một "trạng thái kháng virus", đặc trưng

TRẦN THẾ ANH

25

Lớp: KSCNSH 0802-K15


×