Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

luận văn đại học sư phạm Hoa văn hoa Sen trong Mĩ thuật nửa đầu thời kì Phong kiến ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.09 MB, 22 trang )

Hoa văn hoa Sen trong Mĩ thuật nửa đầu thời kì Phong kiến ở Việt Nam
a. PHầN Mở ĐầU
1. LÝ do chọn đề tài
Đối với người Việt, hoa Sen luôn có vị trí và vai trò đặc biệt cả về tinh thần và văn hoá. Từ
bao đời nay hoa Sen đã đi vào lòng người, đi vào cuộc sống và văn hoá của người Việt. Ngắm hoa
sen chóng ta có thể thấy và nhận ra hình ảnh con người Việt Nam , mặc dù sinh ra trong bùn lầy
nhưng hoa sen không bị ô nhiễm mà lại có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh sống, vì hoa sen hễ
mọc ở nơi nào thì sẽ làm nước đục nơi đó lắng trong. Sắc sen kín đáo, đằm thắm, cánh trắng phớt
hồng nhụy vàng. Từ khi nở cho đến khi tàn không hề có ong bướm bén mảng tới qua bao giàng
buộc để đến được chỗ khoáng đạt hư không, sen tiếp tục vuơn lên dưới ánh mặt trời, khai nụ kết
hoa, khoe sắc và xông hương tràn ngập không gian. Sự hình thành của sen diễn ra theo quy luật
nhân quả luân hồi. Sen có cả nụ – hoa – hạt, hoa nở tượng trưng cho quá khứ, đài sen tượng trưng
cho hiện tại và hạt sen tượng trưng cho tương lai, sự nối tiếp liên tục. Vì vậy, hoa sen trở thành biểu
tượng trong nghệ thuật Phật giáo của Phương Đông. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp thần bí, huyền ảo,
tư tưởng sâu kín. Bông sen cũng tượng trưng cho sù thanh cao, bất khuất của người quân tử, giữ
chặt lòng mình trước cám dỗ của lợi danh, giữ cho mình sự trong sạch dù ở giữa chốn bùn nhơ.
Từ ý nghĩa tâm linh Êy, bông hoa này đã đi vào tâm thức của người Việt Nam, trở thành
hình tượng trong kiến trúc vào điêu khắc của người Việt xưa, trong nghệ thuật, trong văn học, Èm
thực
Cho đến tận hôm nay, khi bạn bè quốc tế đến với Việt Nam thì hình ảnh đầu tiên họ gặp là
hình ảnh bông sen vàng trên những chuyến bay của Vietnamairline, hình ảnh biểu hiện cho sù khai
sáng và hoàn mĩ, vừa đời thường lại vừa cao quý, linh thiêng, vừa duyên dáng, mềm mại, nhưng
không kém phần cứng cáp, đĩnh đạc, tượng trưng cho những con người Việt Nam dũng cảm kiên
cường nhưng đôn hậu và cởi mở.
Hiện nay ở nước ta, “Theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, môn Mỹ thuật nói
chung và phân môn Trang trí nói riêng phải được đổi mới nội dung và thống nhất trong các trường
ĐH, CĐ trong cả nước, nhằm tạo ra các giảng viên, giáo viên chuyên ngành cho các trường từ tiểu
hoc, trung học cho đến CĐ, ĐH có kiến thức vững vàng và có khả năng truyền thụ những kiến thức
chung một cách sáng tạo và đầy đủ nhất, góp phần đào tạo nên những con người mới toàn diện…”.
[ Tr.3 giáo trình trang trí, NXB Đại học sư phạm, 2003 ]
Nghị quyết 5 của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã đề ra những quan điểm và


định hướng xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Giáo dục giá trị
văn hoá truyền thống sẽ giúp học sinh, sinh viên tiếp thu các nền văn hoá thế giới mà vẫn giữ được
bản sắc dân tộc.
1
Làm công tác giảng dạy môn Trang trí Mỹ thuật trong nhà trường tôi muốn giúp cho sinh
viên biết tiếp thu sâu sắc hơn về giá trị vốn cổ dân tộc. Điều đó sẽ định hướng cho những hoạt động
nghê thuật của sinh viên khi ra công tác. Trên cơ sở ý nghĩa khoa học và thực tiễn đó tôi chọn đề
tài: “Hoa văn hoa Sen trong Mĩ thuật nửa đầu thời kì Phong kiến ở Việt Nam ” làm nội dung nghiên
cứu.
2. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
Chọn và nghiên cứu “Hoa văn hoa Sen trong Mĩ thuật nửa đầu thời kì Phong kiến ở Việt
Nam”, tôi mong muốn có thêm những đóng góp nhỏ bé đối với một biểu tượng văn hoá - nghệ thuật
đặc sắc nhằm tôn vinh nền mĩ thuật truyền thống Việt Nam.
Bổ xung về lý thuyết cho bài chép vốn cổ trong môn trang trí mỹ thuật và có thể giúp thêm
cho việc biên soạn giáo trình và giảng dạy môn Trang trí Mỹ thuật cũng như đóng góp thêm một ý
kiến khoa học để đồng nghiệp bàn luận và các em sinh viên tham khảo.
Tìm hiểu giá trị về nghệ thuật tạo hình hoa văn hoa sen trong hội hoạ của các thế hệ ông, cha là
tìm về những giá trị về văn hoá, tinh thần – giá trị bản sắc truyền thống của dân tộc Việt.
Qua sự hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật tạo hình hoa văn hoa sen để gìn giữ nghệ
thuật truyền thống và kho tàng hoa văn của Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về yếu tố trang trí hoa văn trên các công trình kiến trúc nửa đầu thời kì Phong
kiến ở Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
Hình ảnh hoa văn hoa sen trên các công trình kiến trúc cổ tại Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội
4. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích, so sánh, tổng hợp được áp dụng để tìm hiểu diễn biến của các mô - típ trang trí, từ
đó thấy được những nét biến đổi của hoạ tiết theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
Nghiên cứu tài liệu: sử dụng những tri thức liên nghành Giáo dục văn học, văn hoá học, văn

hoá dân gian, sử học, khảo cổ học, tôn giáo hoc, dân tộc học nghệ thuật,…để nghiên cứu biểu
tượng, thấy được cáI riêng và sức sống của hoạ tiết hoa sen trong quần chúng nhân dân.
Gặp gỡ,trao đổi ý kiến của các giảng viên, Thạc sĩ, nhà phê bình mĩ thuật về sự hiểu biết hoạ
tiết hoa sen trong mĩ thuật nửa đầu thời kì Phong kiến ở Việt Nam
5. Dự kiến đóng góp của đề tài
Các kết quả nghiên cứu của tiểu luận trước hết là sự đóng góp vào kho tàng hoa văn Việt
nam
những kết quả thực tế qua tư liệu của tôi sẽ góp phần vào việc giảng dạy, và làm tài liệu
tham khảo cho đồng nghiệp.
2
6. Cấu tróc của tiểu luận
Nội dung của tiểu luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoa văn hoa sen và sự phát triển hoa văn hoa sen
Chương 2: Hoa văn hoa sen qua các triều đại nửa đầu thời kì Phong kiến ở Việt Nam
Chương 3: Hình tượng hoa sen trong văn hoá Việt Nam
A. Phần Nội dung
Chương 1: Tổng quan về hoa văn hoa sen và sự phát triển hoa văn hoa sen
1.1 Tình hình phát triển hoa văn
Cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới, hoa văn phục vụ cho việc trang trí là một nhu cầu
lớn trong đời sống tinh thần của người dân Đại Việt thời bấy giờ. Người ta trang trang trí lên các
công trình kiến trúc như các cung điện lầu gác, các chùa tháp, các đền miếu lăng mộ, các quán đạo,
cầu cốngv.v…Người ta còng trang trí lên các đồ vật quen thuộc hằng ngày như bàn ghế, giường tủ,
thuyền bè, xe cộ, quần áo, đồ gốm sứ v.v Thậm chÝ cả lên người như tục xăm hình lên thân thể.
Có thể nói, trong đời sống hằng ngày hễ có nơi nào trống trải có liên quan đến cuộc sống của con
người, có điều kiện là người ta trang trí ngay một đồ án hoa văn gì đó.
Tuỳ theo chất liệu của đồ vật được trang trí mà người ta sử dụng các cách tạo hình khác
nhau: đục chạm nếu là gỗ đá; đổ khuôn nếu là đồng; vẽ, khắc nếu là gốm sứ.
Đề tài trang trí cũng có nhiều thể loại. Có loại mang tính chất thần thoại, cao siêu, không có
trong thực tế cuộc sống mà chỉ do con người đặt ra như các hình rồng, phượng, tiên nữ v.v…mỗi
hình loại đều được gắn vào những ý nghĩa mà tuỳ từng thời có khác nhau đôi chút do thay đổi quan

niệm. Có loại có trong đời sống thực tế nhưng vẫn được con người lồng vào đó những ý nghĩa biểu
tượng nhất định như hoa sen – biểu tượng của Phật giáo, hoa đồng tiền biểu tượng của hạnh phúc,
giàu sang phó quý.v.v….Phần lớn ý nghĩa về các đề tài của hoa văn này được du nhập từ ngoài vào
cùng với sự du nhập của một tôn giáo tín ngưỡng nào đó. Ví dụ ý nghĩa của hoa sen được truyền
tụng cùng vơí sự du nhập của Phật giáo, ý nghĩa về hình kỳ lân được truyền tụng với sự phát triển
của Nho giáo, cũng có trường hợp ý nghĩa biểu tượng của một loại đề tài nào đó từ ngoài khi du
nhập vào nước ta nó đã kết hợp và bổ sung bởi các tín ngưỡng dân gian sẵn có trong nước để làm
cho ý nghĩa và biểu tượng của đề tài đó được phong phú đa dạng thêm. Ví dụ như hoa văn hình
rồng chẳng hạn. Nó vừa là biểu tượng vốn có trong dan gian nhưng dần dần về sau tiếp thu thêm
nhiều yếu tố của rồng phương Bắc.
Bên cạnh đó cũng có những trường hợp hình được trang trí chỉ để phục vụ cho mét ý nghĩa
đơn giản nào đó. Ví dụ như người ta vẽ hình chim nghịch lên đầu mũi thuyền vì chim nghịch là loài
chim biển hay bắt cá ở ngoài khơi, không sợ sóng gió. Vẽ như vậy nhằm làm tăng dũng khí cho
những người đi biển. Hoặc thích hình rồng vào đùi vì “Nhà ta vốn là người vùng hạ lưu đời đời ưa
chuộng hùng dũng, thường thích rồng vào đùi, nếp nhà theo nghề võ nên thích rồng vào đùi để tỏ là
3
không quên gốc….”(Lời của thượng hoàng Trần Nhân Tông), “Đại Việt sử kí toàn thư,TII,
1972,H.6.”
Tất nhiên, trong các đề tài hoa văn này cũng có những hình được trang trí hoàn toàn không
mang mét ý nghĩa biểu tượng nào cả, mà chỉ là để cho đẹp, cho vui mắt mà thôi. Thường thường
đây là những hoa văn về đề tài hiện thực có trong đời sống hằng ngày như: cỏ cây, hoa lá, chim
muông, cá mó v.v…Loại hoa văn này thường là những tác phẩm dân gian, mà ngày nay chưa tìm
thấy nhiều trên các di vật còn lại.
Có thể đề tài dân gian này cũng có trong các kiến trúc và đồ vật ở các làng bản nhưng vì
phần lớn chúng thuộc các chất liệu rẻ tiền, dễ bị huỷ hoại như gỗ tre nứa.v.v…nên ngày nay không
còn.
Hơn nữa cũng không loại trừ việc sử dụng hoa văn này giữa các tầng lớp xã hội cũng có sự
ngăn cách, cấm đoán. Giai cấp thống trị mà đứng đầu là các vua chúa luôn luôn muốn giành riêng
cho mình việc trang hoàng trang trí những hoa văn có ý nghĩa cao quý nên họ đã ban hành các sắc
lệnh cấm đoán nghiêm ngặt. Chẳng hạn như năm 1118, triều đình nhà Lý đã ban hành sắc lệnh

“Cấm những kẻ nô bộc của các nhà trong và ngoài thành không được thích dấu mực vào ngực và
chân như kiểu cấm quân và thích rồng ở mình, ai sai phạm thì sung làm quan nô” “Đại Việt sử ký
toàn thư,1972,h.249 ”. Các sắc lệnh tương tự cũng được các triều đại kế tiếp áp dụng rộng dãi để
cấm đoán dân gian.
Và cũng không phải chỉ phân biệt cấm đoán với dân gian, hoa văn còn đựơc dùng để phân
biệt các cấp bậc cao thấp của quan lại và tôn thất, các quan văn võ: “…Tôn thất thì kiệu đầu đòn
chạm phượng, tướng quốc thì kiệu đầu đòn chạm anh vũ(tức chim vẹt) sơn then, lọng màu tía. Từ
tam phẩm trở lên thì kiệu đầu đòn chạm mây, lọng xanh. Từ tứ phẩm đến lục phẩm thì kiệu đầu đòn
bằng đồng….” “Đại Việt sử ký toàn thư,1972,h.26”.
Càng chức sắc càng cao thì được sử dụng những hoa văn càng có ý nghĩa cao quý.Năm 1396
Hồ Quý Ly đã cho phát hành tiền giấy Thông bảo hội sao. Trên tiền giấy có in hình hoa văn, giá trị
đồng tiền càng to thì hình hoa văn càng được trang trí trên nó càng có ý nghĩa cao quý.Qua đó
chúng ta thấy thời gian này quan niệm về ý nghĩa các hoa văn từ thấp đến cao như sau:tờ 10 đồng
vẽ rong,giấy 30 đồng vẽ sóng, giấy 1 tiền vẽ mây, giấy 2 tiền vẽ rùa, giấy 3 tiền vẽ lân, giấy 5 tiền
vẽ phượng, giấy 1 quan vẽ rồng” “Đại Việt sử ký toàn thư,1972,h.217”
Sang đến thời Lê sơ, vào các năm 1429,1446,1471,1500 và 1509 triều đình tiếp tục sử dụng
trang trí hoa văn trên trang phục để phân biệt cấp bậc như: “ … bổ tử(của áo): các công tước trong
hoàng thân dùng hình con Kỳ lân, quan nhất nhị phẩm về hàng văn dùng hình con Tiên hạc, về hàng
võ dùng hình con sư tử, tam phẩm về hàng văn dùng hình con cấm kệ về hàng võ dùng hình con
bạch thạch… ”. Các quan từ tứ phẩm đến ngũ phẩm: “ quan tứ phẩm về hàng võ dùng hình con hổ
4
về hàng văn dùng hình con công, ngũ phẩm về hàng võ dùng hình con báo, về hàng văn dùng hình
con vân nhạn”…Còn các quan lục phẩm trở xuống, bổ tử(của áo): “về hàng võ dùng hình con voi,
về hàng văn dùng hình con bạch nhàn….” “Việt sử thông giám cương mục,TII,1998,H.10 ”.
Tất cả những điều đó chứng tỏ cha ông ta từ xa xưa chẳng những dùng hoa văn để trang trí
là một nhu cầu mà còn biết sử dụng những tín hiệu của luật pháp của một sự tôn ti trật tự cần thiết
trong xã hội. Hiện nay các di vật di tích nghệ thuật của giai đoạn này còn lại không nhiều. Do thời
tiết mưa, nắng, khí hậu Èm thấp của xứ nhiệt đới cùng với năm tháng đã huỷ hoại hầu hết.Các di
tích của hai triều đại Đinh và Tiền Lê cho đến nay chóng ta chưa phát hiện được thêm gì ngoài khu
vực của hai vua Đinh và vua Lê ở Hoa Lư. Tại đây các nhà khảo cổ học đã tìm thất một lớp nên

cung điện, với nhiều gạch và nhiều đồ nung khác. Hoa văn thời này chỉ mới thấy chủ yếu là trên các
viên gạch và bệ sen. Thời Lý chỉ còn lại đến nay 26 phế tích và di chỉ mà trong đó có không Ýt nơi
chỉ còn có một tấm bia hoặc một lớp nền. Hiện vật thời Lý còn lại là một số đồ đá và đồ đất nung.
Những di tích này thường do triều đình hay tầng lớp quý tộc xây dựng. Bởi vậy những hoa văn
trang trí trên các hiện vật này là những hoa văn mang tính chất chính thống quý phái và cao
sang.Thời Trần thì số lượng di tích các nhà khảo cổ phát hiện được lên con sè 98. trong số này gần
một nửa là các chùa làng, nơi mà dấu tích nghệ thuật còn để lại là một bệ tượng Phật bằng đá kiểu
hoa sen hình hộp, và trong sè di tích di chỉ thời này có 4 nơi giữ được giấu tích kiến trúc bằng gỗ,
số còn lại thường là hiện vật đá và đất nung. Di vật trong các di tích nghèo nàn, không hiếm di tích
chỉ còn lại một tấm bia đá hay mấy viên gạch đất nung sứt mẻ. Hoa văn về thời này phong phú hơn,
cả về đề tài cũng như số lượng. Đáng chú ý hơn là trong các bệ đá của chùa làng chúng ta bắt gặp
một số đề tài của nghệ thuật dân gian, tuy chưa nhiều lắm.Thời Lê sơ tồn tại vẻn vẹn 100 năm, lại là
thời kỳ có chủ trương hạn chế đạo Phật và đạo Lão nên các chùa, tháp các quán đạo không được
xây dựng thêm. di tích còn lại cho đến nay mà các nhà khảo cổ học mới chỉ tìm thấy con số khiêm
tốn là 20. Trong số này chiếm phần nửa là các lăng mộ các vua. Hiện vật ở các di tích này cũng
không có gì ngoài một số đồ đá như bia và tượng ở lăng mộ, một số thành bậc cửa ở các cung điện.
Hoa văn thời Lê sơ nghèo cả về hình và số lượng.Ngoài các di chỉ di tích, hiện nay chóng ta còn tìm
được nhiều đồ gốm đẹp thời này. Chúng nhiều thể loại và kiểu dáng như bát đĩa, Êm chén, bình, lọ,
chậu, ang, thạpv.v…Men và màu sắc của chúng cũng phong phú, phản ánh một kĩ thuật chế tác đã
đạt trình độ cao.Thời Lý có loại gốm men màu bóng trong các nhà nghiên cứu quen gọi là gốm men
ngọc. Người thợ khắc rạch các kiểu hoa văn vào phôi gốm sau đó tráng men kên trên rồi đưa vào lò
nung. Men chảy đều, hoa văn hiện lên, hơi mờ ảo nhưng rất thú vị. Đề tài hoa văn ở đây chủ yếu là
các cỏ, cây, hoa, lá, mây.Có một loại gốm khác, có từ thời Lý nhưng chủ yếu là phổ biến ở thời
Trần, đó là loại gốm hoa nâu. Hoa văn ở đây không khắc vạch mà dùng bút vẽ lên trông rất hoạt và
gợi cảm. Đề tài hoa văn này cũng phong phú. Chúng bao gồm hoa lá muông thú và cả sinh hoạt của
5
con người. Phần lớn đề tài hoa văn ở đây đều có ảnh hưởng của nghệ thuật dân gian.Thời Lê sơ
xuất hiện loại gốm nhẹ, xương đất mỏng, có men nên màu trắng còn hoa văn màu xanh lam mà các
nhà nghiên cứu gọi là gốm hoa lam. Gốm hoa lam cũng sử dụng nhiều bút vẽ hoa văn với nhiều đề
tài phong phú.Loại gốm này được phát triển nhiều ở thời Mạc. Gốm thời Mạc đã đạt trình độ phát

triển cao, nhiều sản phẩm nổi tiếng thế giới. Đáng tiếc là số còn lại hiện nay không còn nhiều,
những đồ gốm thời Mạc còn lại này là do trao đổi buôn bán với nước ngoài và hiện đang nằm trong
bộ sưu tập của các tư nhân và các bảo tàng lớn trên thế giới. Chính nhờ các hiện vật bày ở các bảo
tàng này mà chúng ta hiểu thêm về những giá trị nghệ thuật của ông cha để lại.1.2 Hoa văn về các
loài hoaTrong thế giới tự nhiên, hoa là sự kết tinh cái đẹp của cac loài thực vật và có sức hấp dẫn
con người. Bởi vậy nên đề tài hoa đã được chú ý thể hiện rất nhiều trong nghệ thuật trang trí cổ
truyền của các dân tộc trên thế giới. Nước nào cũng có nhiều loại hoa nhưng mỗi nước đều tìm chi
mình một vài loài hoa tiêu biểu như Tuy líp của Hà Lan, Mẫu đơn của Trung Quốc, Anh đào của
Nhật bản v.v…có loại như hoa sen thì lại khá phổ biến ở nhiều nước, nhất là những nước có dân
chúng theo đạo phật. Người Trung Quốc chọn 4 loại hoa xuất sắc liệt vào “tứ quân tử” là Mai, Lan,
cóc hay mẫu đơn. hoặc mỗi quý chọ một loại hoa tiêu biểu gọi là tứ quý hay tứ hữu. đó là
Mai(Đông), lan(xuân), cúc(thu), trúc(hạ) hoặc cũng có nơi thay trúc bằng hoa sen.ở Việt Nam, đề
tài này xuất hiện khá sớm trong nghệ thuật trang trí cổ truyền. Ngay từ thời hậu kì đồ đá cũ, người
Việt cổ ở Mai Pha đã biết rạch lên đồ gốm của mình những hoa văn 4 cánh kiểu hoa thị. Hoặc sang
thời Phùng Nguyên cư dân Việt cổ vùng Hoa Lộc đã biết kẻ những hình hoa 4 cánh trang trí thành
dãy dài hoặc một loại có đài to tròn ở giữa và các nhị như những chấm nhỏ bao quanh.Cho đến giai
đoạn đầu thời kì Phong kiến độc lập này đề tài hoa đã có mặt trong nhiều văn hoá nghệ thuật. Nhiều
loài hoa như hoa cóc, hoa mai, hoa sen….đã trở đi trở lại trong các bài thơ của các thi sĩ quý tộc
thời này. các nhà thơ muốn thông qua những vẻ đẹp của loài hoa để nói lên tấm lòng thanh bạch,
kiên định và tiết tháo của mình như một số nhà thơ lớn của Trung Hoa: Đào Tiềm, Khuất Nguyên
đã từng làm.Còn về nghệ thuật tạo hình, các loài hoa như hoa sen, vốn là biểu tượng của đạo Phật
nên hầu như ở đâu cũng có và thời nào cũng dùng nó vào việc trang trí. Có loài hoa như hoa mẫu
đơn, có lẽ do không hợp khí hậu nên không trồng được ở Việt Nam, trong thơ ca kì này Ýt được nói
đến, nhưng trong đồ án trang trí vẫn có mặt ở nhiều nơi. Còn hoa cóc, hoa mai ở thời này không
những là đề tài ngâm vịnh của các thi sĩ tầng lớp quý tộc mà còn được các nghệ nhân thể hiện
nhiều trong các đồ án trang trí. Một hình dáng đáng lưu ý là do tính cách điệu và tính ước lệ khá cao
của nghệ thuật thời này nên ngày nay việc phân biệt hình mẫu hoa văn của các loại hoa gặp rất
nhiều khó khăn. Các nghệ nhân thường bỏ hết lá, rồi biến chúng thành một chùm hoa dây, mỗi ô là
một cách điệu, nên việc tách bạch ra từng loại không phải là việc dễ dàng. Bởi vậy trừ hoa sen là
loại hoa có gương sen với những hạt tròn dễ nhận ra trên các đồ án, còn nữa các nhà nghiên cứu gọi

gộp lại cả là hoa cóc.
6
Chóng ta có thể phân biệt một số đồ án các loại hoa như sau:
Hoa sen: Như trên đã nói, nhờ có gương sen, trong gương lại có hạt nên dễ nhận ra. Hơn
nữa dáng của các cánh hoa còng thon dài, thứ úp trong gương, thứ nở đều toả ra các phía.
Hoa cóc: ở giữa là một hạt tròn nhỏ, bao quanh là nhiều cánh hoa tua tủa, cánh hoa mỏng,
đầu cánh tròn thon. Các cánh hoa không chia thành lớp cố định. Đài hoa có một hoặc hai lớp mỏng,
khác hẳn cánh hoa.Hoa mẫu đơn: cánh hoa to, đầu cánh lượn sóng và có nhiều gân nhỏ chạy dọc
theo cánh. ở giữa là lớp cánh non úp xếp vào nhau chia khối tròn giữa thành ba hoặc bốn. Nó giống
như bắp cảI, loại rau phổ biến ngày nay.Hoa mai: ở giữa là một chấm tròn, bao quanh chỉ là một
lớp cánh. Số lượng cánh là 5, cũng có đồ án thành 6 hoặc 8 cánh, cánh tròn, ngắn, khác hẳn cánh
cúc và mẫu đơn.
Ngoài ra, còn có một số hình mẫu khác nữa như hoa lan, hoa quả Phật thủ, hoa cải đường,
hoa phù dung…
Nhìn chung, do tính cách điệu và tính ước lệ cao nên hình mẫu ở đây khác hẳn ngoài thực tế.
Chúng đa được các nghệ nhân khai thác, phản ánh dưới nhiều góc độ bố cục khác nhau để tạo nên
bộ mặt phong phú, đep đẽ và sang trọng cho nền nghệ thuật trang trí thời bấy giờ.
1.3 Hoa văn hoa sen trong các công trình kiến trúc cổ ở Việt Nam
không riêng gì ở Việt Nam mà dường như ở tất cả các nước châu á, ai ai cũng đều yêu thích
và trân trọng một loài hoa tuy bình dị mà thanh cao, giản đơn nhưng quyến rũ, rất thực tế đời
thường nhưng đồng thời cũng rất siêu thoát thiêng liêng: Hoa sen. Theo truyền thống Tây Tạng, hoa
sen được dùng làm biểu tượng cho các luân xa trọng yếu trong con người. ở Thái Lan, cứ sau mỗi
vụ mùa thu hoạch người ta thường tổ chức lễ hội “Loykrathong” bằng cách làm những chiếc thuyền
trang hoàng đầy hoa sen và đèn cầy, thả trên sông để cám ơn thần nước. ở Trung Quốc, thì hoa sen
còn mang nhiều ý nghĩa phong phú như: sự thanh khiết, nhân quả luân hồi (quá khứ - sen nở; hiện
tại - đài sen; hiện tại – hạt sen.), sự hôn nhân (hai hoa nở cùng một bụi), sự nối truyền liên tục (hạt
sen còn gọi là “tử” có nghĩa là “con”), và sự thịnh vượng, tiềm năng mạnh mẽ (hoa vươn lên khỏi
mặt nước, lá xanh phủ rợp mặt hồ). Đối với người Việt, thì hình tượng hoa sen được nâng cao lên
với ý nghĩa triết lý sống sâu sắc.
ở đây, ý nghĩa càng thâm thuý hơn khi được các nhà nghệ nhân vận dụng những họa tíêt của

hoa sen trong những công trình kiến trúc chùa tháp, đền đình…dưới nhiều phương thức tạo hình
nghệ thuật khác nhau để tạo ra những bức phù điêu, những đường diềm hoa văn trang trí thật tuyệt
mỹ, gây nhiều Ên tượng khó quên trong lòng mọi người. Dù là một phần nhỏ khiêm tốn bên những
7
công trình kiến trúc đồ sộ, hay lặng lẽ dưới những pho tượng Phật tôn nghiêm, nhưng ta vẫn nhận ra
yếu tố quan trọng bên trong của các hoa sen là không thể thiếu, để tạo nên một tổng thể hài hoà,
toàn mỹ.
Có thể nói, sau nền mỹ thuật Đông Sơn thì nền mĩ thuật thứ hai phát triển mạnh và nổi bật
đáng kể nhất là mĩ thuật thời Lý(1010 - 1225). Thời bấy giờ triều đình xem phật giáo là quốc giáo,
các chùa tháp được xây dựng có nhiều kiến trúc đồ sộ trang nghiêm, cùng sự ra đời của những pho
tượng Phật được tạc vào thời kỳ này rất đẹp, điều đó chứng tỏ trình độ mỹ thuật khá cao cuả cha
ông ta thời bấy giờ. Hoà cùng với những kiệt tác và các công trình kiến trúc đó là những mô - típ
hoa văn trang trí rất kỳ công và sống động, được các nghệ nhân thể hiện bên trong chùa, ngoài tháp
hay trên cửa đình, kèo miếu….Đặc biệt nổi bật đáng kể là các mô - típ hoa sen.
Điều này được minh chứng qua thực tế qua ngôi chùa Một Cột ( hay còn gọi là chùa Diên
Hựu) – Hà nội, đứng lùi xa một chút chúng ta sẽ thấy cấu trúc chùa có hình dáng giống như một đoá
sen vừa mới nở soi bóng xuống hồ Linh Chiểu. Không riêng gì chùa Một Cột, mà hầu như tất cả các
ngôi chùa ờ thời kì này dưới mỗi chân cột là một hoa sen nở, được chàm trên bệ đá, trong mỗi cánh
sen lại được trang trí “lưỡng long tranh châu” trông thật công phu, tỉ mỉ, sắc sảo không kém gì so
với bệ sen dưới tượng Phật A Di Đà (ở chùa Phật Tích – Bắc Ninh). Những bệ sen ở tháp Chương
Sơn (thuộc chùa Ngô Xá - Nam Hà) hay ở Hoàng Xá cũng là một trong những kiệt tác thời bấy giờ.
Hoa sen không những trang trí ở bên ngoài lan can, như ở chùa Hương Lãng, phần chính của lan
can là hình con chim thần đang đứng trên bông sen thật duyên dáng. ở chóp tháp Phật Tích có hình
con chim thần đang đứng trên bông sen chứng tỏ một tài năng nghê thuật cực kì khéo léo. Ngoài
những tác phẩm được thể hiện bằng chất liệu trên đá, hoa sen được chạm khắc trên gỗ còn độc đáo,
tuyệt mĩ hơn, điển hình là các mô - típ hoa sen chạm khắc trên gỗ tại chùa Thầy(Hà Tây), chùa
Ngọc Đình.
Trong hầu hết di tích thời Lý được phát hiện, như ở Hà Nội, Hà Bắc (Bắc Giang – Bắc Ninh
ngày nay), Hải Hưng cho đến Nam Hà…hình tượng nghệ thuật sáng giá nhất là hình ảnh con rồng,
kế đó là sóng nước và hoa sen. Đa số những hình ảnh này là các mẫu trang trí thường làm nên phụ

cho các tác phẩm chính, nhưng không vì đó mà các nghệ nhân xem nhẹ hay lãng quên đi sự tìm tòi,
sáng tạo. Ngược lại, ta thấy các hoạ tiết hoa sen được thể hiện dưới nhiều dáng vóc, góc độ khác
nhau thật tinh tế, sống động. Thỉnh thoảng ta lại gặp hoa sen đi với hoa cúc, những lúc này các nghệ
nhân đã linh động uốn cong những cuống sen vốn cứng thẳng thành mềm mại hoà quện với dây hoa
cúc, nhằm thể hiện được ý nghĩa cầu phúc cho con người luôn sống trong sự hoà hợp bình yên.
Điều đáng tiếc thời gian và chiến tranh đã tàn phá đi rất nhiều những sản phẩm nghê thuật quý giá.
8
H×nh 1 - a. Lo¹i 16
c¸nh trªn g¹ch
Các hoạ tiết hoa sen chỉ được tìm thấy phần lớn trong tổng thể kiến trúc của một số chùa còn tương
đối nguyên vẹn, như hoa sen chạm gỗ ở chùa Bối Khê (Hà Tây), Chùa Thái Lạc (Hưng Yên).
Bệ đá hoa sen vẫn luôn là loại hình nghệ thuật luôn được nhân dân ta ưa chuộng, Cuối thời
Trần một số bệ đá hoa sen có ghi niên đại như ở chùa Hương Trai (Hà Tây), chùa Quế Hương(Hà
Tây) và một số bệ không ghi niên đại như ở chùa Hào Xá, chùa Thầy, chùa Thanh Sam. Đó là
những khối hộp chữ nhật đồ sộ làm bệ chung cho các tượng Tam thế,
được đặt ở phần chính diện nơi tôn nghiêm nhất trong chùa. Bố cục
chung của bệ gồm ba phần: phần trên vẫn là đoá sen nở xoè cánh, giữa
là chỗ trang trí bốn con chim thần to khoẻ ngự ở bốn góc, bốn mặt thì
chạm rồng, mây và hình ảnh hoa sen lại được trang trí thêm ở đây, phần
cuối cùng của bệ đá là đế cũng được chạm khá công phu và trau chuốt.
Tất cả các hoạ tiết hoa sen trang trí thời Trần đều toát lên một vẻ
đẹp hiện thực, chắc khoẻ, hợp với mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội, hình tượng hoa sen đã dần dần
trở thành vẻ đẹp văn hoá đặc thù của dân tộc ta. Chất hào hoa vương giả nơi cung đình, hay thanh
cao huyền bí trong chốn thiền môn vốn thường được thể hiện ở thời Lý thì nay lại rất chân chất bình
dị trong đền miếu, đình làng, với các thể loại trang trí khác cũng không cầu kì lắm. Sang thời Lê sơ
(1427 - 1527) giai đoạn nàyNho giáo bắt đầu phát triển cực thịnh, vương quyền lấn áp thần quyền,
cho nên nền mĩ thuật này chỉ biểu hiện tập trung ở các lăng vua, và hoa sen đã có thêm đất để nảy
nở, góp phần tô điểm thêm nét đẹp văn hoá dan gian, điển hình là hoa sen trang trí trên thành bậc
của điện Lam Kinh (Lam Sơn – Thanh Hoá). Vào năm 1527 nhà Mạc thay nhà Lê chấm dứt thời
hoàng kim của Nho giáo, tư tưởng mọi người thoáng đạt hơn, xu hướng trước kia nay được phát

triển, một số mô - típ hoa văn ở thời Trần đã vắng bóng vào thời Lê thì nay lại xuất hiện, như ở bệ
đá chùa Mễ Sở (Hải Hưng), hình chim phượng cổ cao như đang nhảy múa trên nền dây leo có hoa
sen nở. Rõ nét, sắc sảo hơn là mô - típ hoa sen chạm khắc ở chùa Hoa Yên (Quảng Ninh), chùa
Thiên Phúc (HảI Dương). Vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVII những đề tài sinh hoạt dân gian bắt đầu
xuất hiện trong các đình, đền. Lúc này hình ảnh hoa sen lại hiện diện dưới dáng dấp mộc mạc, bình
dị, gần gũi với cuộc sống làng quê.Dù ở chùa hay ở đình hoa sen đều mang mét ý nghĩa tích cực,
cao đẹp, nếu có khác chăng là những cánh sen trang trí ở chốn thiền môn đem đến cho chóng ta một
cảm giác thiêng liêng, huyền bí hơn, còn hoa sen trang trí ở đình lại nổi bật đường nét mang tính
thôn dã, hiền hoà, rất đỗi thân thương. Bức “Tắm đầm sen” chạm gỗ ở Đông Viên, Hà Tây và tác
phẩm “Hoa sen chim cá” ở đền vua Lê là một minh chứng. Dẫu chỉ là những đường nét chạm nổi
chắc khoẻ mang tính hiện thực thô sơ, song đủ đánh động vào lòng người một cách hào hứng, vui
tươi trong sinh hoạt thường ngày dưói làng quê.Đầu thế kỉ thứ XIX, do ảnh hưởng văn hoá phương
Tây nên trong các ngành mĩ thuật truyền thống đã hiện diện thêm một số hoạ tiết hoa văn hào
9
nhoáng mới lạ. Vào cuối nhà Nguyễn những nét chạm khắc dân gian lại bắt đầu phát huy cùng với
sự dung hoà giữa Phật giáo và Đạo giáo, từ đây chúng ta bắt đầu phát hiện thêm nhiều kiểu mẫu
mới, như những hình ảnh se loan, giá phượng, vui chín ngà, sư tử, lẫn trong ván in vẫn còn nét thẩm
mĩ dân gian sâu sắc. Và mô - típ hoa sen vẫn là một trong những đồ án trang trí khá quan trọng
mang đậm sắc màu văn hoá dân gian. Ngày nay, vì yêu cầu của đời sống công ngiệp, thế nên phong
cách và kiểu dáng trong trang trí mĩ thuật có phần biến đổi tân tiến hơn, đường nét và bỗ cục khoa
học hơn nhưng vẫn giữ được tốt chất tao nhã, dản dị, cổ kính của người xưa để lại. Tháp “Cửu
phẩm liên hoa” (hoa sen chín phẩm) ở chùa Cổ Lễ (Nam Hà) xây dựng năm 1926 là một ngôi tháp
đẹp, hoa văn hoa sen trang ở trường Thiền Viện Vạn Hạnh – Học Viện Phật giáo Việt Nam tại
thành phố Hồ Chí Minh. Chùa Thiên Ân… trông thật hoàn hảo, là kết quả của sự kết hợp hài hoà
giữa nghệ thuật xưa và nay. Tuy nhiên khách quan mà nói thì trong thời đại công nghiệp, hầu như
tất cả các công trình kiến trúc nhà cửa, chùa đền….đều được xây dựng bằng xi măng cốt thép, các
hoa văn trang trí cũng đồng chất như vậy, nên có phần hạn chế về mặt thể hiện. Chất liệu xi măng
đã tạo cho chóng ta một cảm giác hơi bị khô khan, thiếu đi sự mềm mại. Hơn nữa một số mô - típ
hoa sen trang trí ở phần lan can hay phong gió của chùa, phần lớn được đổ khuôn sẵn, công đoạn
làm nguội thì có khi không được kĩ càng lắm, các đồ án hoa văn thiếu đi sự đầu tư sáng tạo, có lẽ do

yêu cầu hay tầm nhìn còn hạn chế mà chúng ta đã quên rằng: hoa văn trang trí là một trong những
bộ phận thiết yếu làm tăng thêm vẻ mỹ quan và khẳng địng giá trị văn hoá con người.Như vậy hoa
văn hoa sen trong trang trí là hiện thân của cái đẹp, cái thầm mĩ, đó là kết quả của sự dung hoà đồng
điệu giữa tinh thần Phật giáo và tinh thần dân tộc Việt Nam. Nó thực sự bổ Ých thiết thực cho cuộc
đời, là một nét đẹp văn hoá truyền thống, sinh động, hài hoà, luôn có mặt và gần gũi trong cuộc
sống thường ngày của chúng ta.Chương 2: Hoa văn hoa sen qua các triều đại nửa đầu thời kì
Phong kiến ở Việt NamNhư đã nói ở những phần trên ở Việt Nam, đề tài hoa sen xuất hiện khá
sớm trong nghệ thuật tạo hình, hầu như ở thời nào cũng được các nghệ nhân thể hiện trong các đồ
án trang trí của nơi thờ tự hoặc ở các công trình văn hoá của cộng đồng. Sen được khai thác, phản
ánh dưới nhiều góc độ bố cục khác nhau, xuất hiện hằng xuyên theo chiều dai của lịc sử dân tộc qua
những công trình kiến trúc cổ.2.1 Hoa sen trong mĩ thuật thời Đinh – Tiền Lê
Cho đến nay vết tích văn hoá vật chất của thời Đinh – Lê hiện nay chóng ta chưa phát hiện
được gì nhiều ngoài một số đất nung tai khu vực đền vua Đinh và đền vua Lê. ở đây các nhà khảo
cổ học đã tìm thấy vết tích của các lớp nền nhà mà có lẽ xưa kia thuộc cung điện của triều đình,
trong đó chủ yếu là các viên gạch lát nên cỡ lớn. Trang trí trên các viên gạch này ngoài đề tài chim
phượng còn có đề tài về hoa sen. Đồ án về các hoa sen ở đây gồm 4 loại.
2.1.1 Loại hoa văn hoa sen 16 cánh (Hình 1 - a)
10
H×nh 1 - c. Lo¹i 8 c¸nh
trong viªn g¹ch lín
Loại hoa sen có 16 cánh này có trên các viên gạch vuông cỡ lớn (35cm - 35cm). Hoa sen
được thể hiện kiểu nhìn trực diện từ trên xuống. Tác giả đã bố cục chung thành một hình tròn vào
khoảng giữa viên gạch, gồm 3 lớp. Lớp ngoài cùng là 16 cánh sen xếp đều nhau chạy thành một
vòng tròn đều đặn. Ngoài các cánh chính, còn co 16 cánh phụ ở lớp dưới bị che lấp nổi lên một
phần giữa khoảng trống hai cánh sen. Lớp thứ 2 gồm những đường cong tròn được xếp cùng chiều
nối lưng chạy thành một vòng tròn. Có lẽ tác giả muốn thể hiện đây là các nhuỵ của hoa. Líp trong
cùng là một hình tròn nổi lên 13 chấm, tác giả thể hiện hình gương sen với nhiều hạt. Mười ba hạt
sen được sắp xếp thành các vạch từ trung tâm chạy ra 8 phía, cân đối,đều đặn.
Lòng của các cánh sen ở đây không chạm thêm chi tiết gì ngoài một đường gờ nhỏ viền theo
chu vi của cánh

Phía ngoài hoa sen, bốn góc của viên gạch còn thể hiện bốn hình con bướm và diềm ngoài
cùng là hoa văn dích dắc gập khúc. Loại hoa văn kiểu này từng thấy trên gốm Phùng Nguyên.
Loại đồ án hoa văn hoa sen 16 cánh này còn gặp nhiều ơ các thời kì sau. Nó không phải trên
gạch mà là trên các tảng đá kê cho nên phần giữa và phần nhị không chạm khắc gì. Loại đồ án
gương này có nhiều nét giống với các đồ án cùng loại ở Trung Quốc và Nhật Bản.
2.1.2 Loại hoa văn hoa sen 14 cánh (Hình 1 - b )
Loại hoa sen 14 cánh được trang trí trên một đài sen bằng đất nung, cao xấp xỉ 10,5cm. Đài
sen hình tròn, trang trí một hình hoa 14 cánh ở giữa và bao quanh
sen là đồ án hoa cúc dây và một băng các chấm tròn. Trong trường
hợp này, sen cũng bố cục theo lối nhìn chính diện từ trên xuống,
được chia thành 3 lớp như kiểu hoa sen 16 cánh. Lớp thứ hai làm
nhụy hoa ở đây rất hẹp, các nhụy được thể hiện như những đường
gạch chéo nhỏ. Lớp trong cùng (gương sen) đã có số ụ tròn (thể hiện
hạt sen) nhiều tới 21 hạt, gồm một hạt tương đối to ở giữa và 20 hạt
nhỏ bao quanh thành 2 vòng (vòng trong 8 và ở vòng ngoài là 12).
Đồ án này khắc họa khá tỉ mỉ. Các hạt sen ở giữa đều được
thể hiện kép bằng 2 vòng tròn đồng tâm còn trong lòng các cánh sen
không những có gờ viền quanh mà còn điểm cả võn lỏ. Phớa ngoài hoa sen là một băng hoa dây
mảnh kiểu dây leo tay mướp (có nhiều vào các thời sau). Ngoài cùng là những hình chấm tròn to,
mỗi chấm được bao quanh bằng hai đường tròn đồng tâm như
kiểu các hạt sen ở giữa.
2.1.3 Loại hoa văn hoa sen 8 cánh (Hình 1 - c)
Loại đồ án này cũng được thể hiện theo lối nhìn chính
diện từ trên xuống. Ngoài 8 cỏnh chớnh, cú 8 cánh phụ ken giữa
11
H×nh - b. Lo¹i 14 c¸nh
trªn bÖ

Hình 1.d - Loại đầu ống ngói
Hình 2. a - Đá tảng kê chân cột, chùa

Phật Tịch
tng cp cnh chnh. Ha tit ny c trang trớ trờn mt hai loi gch, mt cú dng vuụng, c 34 x
34cm v mt cú dng hỡnh ch nht, c 74cm x 34cm. Loi gch vuụng hoa sen b cc gia, cũn
loi ch nht thỡ ngi ta phõn ụi viờn gch, hai hoa sen trang trớ hai phớa. Hoa sen cỏnh to v
ngn, trong lũng cỏnh cú ng vin. Phn hỡnh trũn th hin gng sen gia, vi 9 chm trũn th
hin hỡnh nh ca cỏc ht sen c b cc vi mt ht to gia v 8 ht nh hn phõn u ra cc
pha thnh mt vũng trũn. ỏng chỳ ý l gia cỏnh sen v gng sen khụng cú lp nhy sen nh
hai ỏn trờn m ch l mt bng trn
2.1.4 Loi hoa vn hoa sen cú s cỏnh khụng c nh(Hỡnh 1.d)
Loi hoa sen s cnh khng c nh khỏ a
dng, c trang trớ u cỏc ngúi ng git gianh. Cú
loi cỏnh sen thon di, m sen vt; cỳ loi nh, ngn;
cú loi to mp; cú loi di cú ng g xen gia hai
cỏnh. S lng cỏnh cng khụng c nh, cú loi 7
cnh , cỳ loi 8, 9 cỏnh, tt c u cỏch iu n gin,
ch cú cỏnh sen v i gng. Cú khi i gng cng
khụng cú ht sen.
4 loi ỏn hoa sen trờn l nhng ỏn khỏ p, chng t tuy cỏc thi inh - Tin Lờ ngn
ngi nhng cng ó sỏng to ra nhng sn phm cú du n c trng trong lch s m thut nc
nh.
2.2 Hoa vn hoa sen thi Lý
ừy l thi k m Pht gio pht trin mnh, c coi nh quc giỏo, nờn hoa sen c
ng dung rt nhiu. Ngi ta lm cỏc i hoa sen , cỏc b tng pht bng hoa sen, cỏc kin trỳc
hỡnh hoa sen. Trong ngh thut trang trớ, hoa vn hoa sen cng c ng dng nhiu trong cỏc
ỏn. T nhng tng ỏ kờ chõn ct cho n dim ca thỏp, dim b tng v cỏc gm h õu
cú iu kin l ngh nhõn dựng ngay hoa sen trang trớ. c bit cỏc c s vt cht thuc Pht
giỏo hoc liờn quan n Pht giỏo thỡ ti hoa vn hoa sen lai c s dng cng nhiu.
Cỏc loi hoa vn thi kỡ ny rt nhiu kiu, nhiu loi. in hỡnh l nhng loi ỏn sau.
2.2.1 Loi ỏn hỡnh hoa sen chõn ct (Hỡnh 2.a)
Do yờu cu chng mi mt v m thp nn cc

chõn ct u c k . Tn dng iu ú, cỏc ngh
nhõn ó trang trớ cỏc cỏnh sen vin quanh, to cm giỏc
nh ton b ngụi chựa c dng trn cc úa hoa sen.
12
Hình 2.b D ới chân ph ợng,
thành bậc chùa Bà Tấm
Hoa sen chõn ct cú phn ging vi hoa sen trn cc viờn gch thi inh - Lờ, c b
cc cc cnh thnh mt vũng trũn theo kiu nhỡn chớnh din t trờn xung. Hoa bao gm 16 cnh
chnh v 16 cỏnh ph lp di. iu khỏc nhau l cỏc ỏn ny ca thi Lý khụng th hin
phn nh sen v gng sen, cú l vỡ ct che khut nờn khụng cn phi lm nh vy. ỏng chỳ ý l
lũng ca cỏc cỏnh sen thi Lý cỏc di tớch liờn quan ti vua, thng c chm thm i rng
dõng chu lỏ . Nột chm t m tinh t, tn thm v cao quý ca cỏnh sen.
Ngoi vic trang trớ trờn cỏc tng ỏ chõn ct. Loi ỏn ny cũn thy trờn mt s gm
men ngc thi ny. Cỏc ngh nhõn ó tõn dng vũng trũn trờn ming v trờn np ca mt s
gm nh lin, ấm tụ vin quanh thnh nhng cỏnh sen. To cho phn trờn ca chỳng nh mt
oỏ sen cú nhiu lp cỏnh khỏc nhau.
S lng cỏc cỏnh sen õy khụng dng li con số 16 cỏnh na m ty thuc vo ming
gm to nh cú s lng cỏnh sao
cho phự hp trong lũng cỏc cỏnh sen cng
khụng trang trớ gỡ.
Loi ỏn ny c cỏc th h sau
tip tc phỏt huy. V c bn vn gi kiu
cỏcnh nh vy , nhng chi tit hoa vn
trong cỏc lũng cỏnh sen cú s thay i.
2.2.2 Loi ỏn hoa sen
cỏc vt thiờng ( Hỡnh 2.b)
õy l hoa vn hỡnh cỏc i sen
ang lm b cho cỏc vt thiờng.
Nh i sen lm b cho cỏc chõn chim
phng, i sen trong cỏc ỏn phng

mỳa ti cỏc thnh bc chựa B Tm, chựa Lng hoc phng chu chỏn bia chựa Diờn Phỳc
(Hng Yờn). Hoc hoa sen lm b cho cỏc vt thiờng cú hỡnh lỏ trong cỏc ỏn v dn nhc
cỏc tiờn n, v rng chu chựa Pht Tớch v chựa Chng Sn.
B cc ca ho tit hoa sen õy c th hin theo li nhỡn nghiờng, ngha l hoa sen
c b dc nờn to thnh mt i sen dt, gm hai lp vi nhiu cỏnh, xut phỏt t gia v choói
dn ra hai bờn. Lp trờn th hin cỏc cỏc cỏnh sen mi n ang ụm ly i gng khut trong,
cũn lp di cỏc cỏnh sen ó tn, di ra hai bờn.
2.2.3 Loi ỏn hoa sen kt hp hoa cúc (Hỡnh 2.c- d)
13

Hình 2 .c Hình 2 .d
c. Chạm đá diềm tháp Long Đọi
d. Diềm đất nung, tháp Chơng Sơn
Hình 2.e Gốm men ngọc, Bảo
tàng lịch sử
y l ỏn kt hp ca hai loi
hoa sen v hoa cỳc to thnh mt bng
ú dc dim ca thỏp, m nay cũn thy
hai di tớch chựa Long i v chựa thỏp
Chng Sn. Ngh nhõn b cc thay i
mt hoa sen li n hoa cỳc. Chỳng c
th hin trong nhng vũng trũn ca
hoa dõy. õy hoa dõy c th hin mang tớnh c l, trờn thc t thỡ lỏ sen, lỏ cỳc khỏc hn v
chỳng khụng phi l loi dõy leo.
B cc cu ỏn hoa sen õy cng theo kiu b dc nhỡn nghiờng, nhng nghiờng
õy hI chch chỳng ta cũn nhỡn thy c gng sen vi mt s ht. Cỏc cỏnh sen õy cng chia
lm hai lp nh loi ỏn hoa sen cỏc vt thiờng trờn, nhng lp di ca nú va lm i
va bin thnh mt vũng trũn ụm trn ly c phn trờn ca gng sen.
Tuy cỏch iu khỏ cao nhng ỏn hoa vn hoa sen ny cú b cc thuc loi p nht. Nú
va cõn i li va n gin trong ng nột m vn mụ t c cỏc dỏng v riờng ca hoa sen.

2.2.4 Loi ỏn hoa sen trờn gm men ngc
(Hỡnh 2.e)
õy l ỏn hoa vn hoa sen trang trớ trong lũng mt
chic bỏt men ngc, hin vt c trng by ti Bo tng Lch s
H Ni. Bỏt vo loi nh, cú mu men ng hi sang mu vng
nõu sm. Ngh nhõn gm khc chỡm hỡnh hoa vn xng t, sau
ú trỏng men ri em nung. ú l k thut ph bin ca cỏc
gm men ngc ca thi Lý.
Cỏc hoa sen õy c th hin theo li nhỡn nghiờng, trang trớ mt trong ca lũng bỏt.
Cung hoa quay vo tõm vũng trũng ca long bỏt, c mt bụng sen li cú mt bụng cỳc. Chỳng
hon ton c lp vi nhau. Tng cng cú 3 hoa sen v 3 hoa cúc. Hoa sen õy gm nhiu cỏnh
cha n, ụm kớn ly gng sen v hai cỏnh ngoi cựng n rng ra hai phớa. B cc ca cỏc hoa sen
õy trit tuõn th s cõn xng ng i khụng nhng trong ton b ỏn m ngay c trong
tng hoa một.
2.3 Hoa vn hoa sen thi Trn
Sang thi Trn, hoa sen vn tip tc cú mt trờn cỏc ỏn trang trớ ca cỏc kin trỳc v hin
vt.
Nhng ỏn chỳng ta thy cú thi Lý , sang thi Trn vn c cỏc ngh nhõn khai thỏc nh hoa
sen chõn ct, hoa sen cỏc vt thiờngỏng chú ý l trờn mt s gm hoa nõu thi k ny
xut hin cỏc ỏn hoa sen v cú phong cỏch sinh ng.
14
Hình 3.b- Bệ chùa D ơng Miễu
i Sen th k 11-12
2.3.1 Loi ỏn hỡnh hoa sen chõn ct
Loi ỏn ny cú nhiu trờn cỏc tng ỏ kờ chõn ct nh chỳng ta ó gp thi Lý. S lng cỏnh
v cỏch b cc y ht cỏc ỏn ca thi Lý. Mt iu duy nht phõn bit l: cỏc hoa vn trong
lũng cỏc cỏnh sen thi Lý thng cú cỏc hỡnh rng, cũn thi Trn thỡ hon ton khụng cú. Ngi
th ỏ thi Trn thng ch chm thờm mt ng g chỡm vin theo cỏc cỏnh sen.
. 2.3.2 Loi ỏn hoa sen cỏc vt thiờng (Hỡnh 3.a)


Hình 3.a Chạm gỗ chùa TháI Lạc
Kiu loi hoa vn ny ó cú trờn cỏc trang trớ thi Lý, sang thi Trn vn c cỏc ngh nhõn
vn dng trang trớ lm b cho cỏc vt thiờng nh chõn chim phng trong ỏn trỏn bia
chựa Tng, hoc cỏc ngc bỏu ang to sỏng hỡnh lỏ trong ỏn chựa Thỏi Lc, chựa
Dõu. Ngoi ra trờn cỏc chõn ct trn ca vỡ núc, ca vỡ kốo chựa Thỏi Lc cng thy cú chm i
sen phớa di.
V b cc nú vn gi kiu cỏch vn cú t thi Lý. Ngha l vn hai lp cỏnh sen c dn
mng theo hai hng trờn di chy di t gia ra hai phớa. Bi vy cỏc nh nghiờn cu quen
gi loi ny l cỏnh sen do.
2.3.3 ỏn hoa sen trờn cỏc b tng pht(Hỡnh 3.b)
Cng nh thi Lý v cỏc
thi sau na, cỏc b tng Pht
ca thi Trn u chm thnh
nhng i sen ln. Cỏnh sen
õy cú hai hoc ba lớp xen l
nhau, th hin thnh nhng khi
ni, khụng cũn l hoa vn na.
15
Hình 3.c - chạm gỗ chùa Thái lạc
Hình 3.d - Thạp gốm, bảo tàng HảI D ơng
Tuy nhiờn cng cú nhng b lp phớa di cựng li ch chm nụng thnh mt vin hoa vn trang trớ.
Hoa vn õy l cỏc cỏnh sen c chm ni tip nhau vũng quanh b. Nhng cỏnh sen õy
thng to kho chen khớt dng thnh hng di theo chiu hng kiu hi xen chộo trong lũng cỏc
cỏnh sen thng chm thờm nhng hỡnh hoa la
2.3.4 ỏn hoa sen cỏch iu thnh hoa dõy (Hỡnh 3.c)
Loi ỏn ny c s dng khỏ nhiu trờn cỏc thnh phn kin trỳc ca chựa Thỏi Lc. V
cú l õy cng l ngụi chựa duy nht
cú ỏn trang trớ ny. Chỳng lỳc thỡ
thnh bng di chy phớa di ụi
rng ang trnh trng dõng chu ngc

bỏu, lỳc li ang un ln phớa trờn
cỏc tng mõy, ni cú hỡnh cỏc tiờn n
u ngi mỡnh chim ang va mỳa va dõng hoa cho Pht.
B cc ca ỏn ny l xut phỏt t mt si dõy c un ln thnh súng hỡnh sin v gia
cỏc quóng trng ca cỏc bc súng hỡnh sin ú ngi ta li th hin mt bụng hoa sen. Hoa sen
õy ó c cỏch iu cao. Cỏc cỏnh sen th hin nh cỏc du ngoc, tng ụi ng i nhau, theo
li nhỡn nghiờng, n gin v rnh mch. Mi bụng hoa ch cú 6 cỏnh sen v mt chỳt nhy hng
trờn dim b tng ỏy ca thỏp t nung ng Minh cng thy cú hoa sen un ln trong khung hoa
dõy hỡnh sin rt p nhng hoa sen õy gm nhiu lp cỏnh sen chen chúc nhau thnh mt khi
ni cm nh nhng phự iờu ch khụng cũn l hoa vn na
2.3.5
ỏn hoa
vn hoa sen
trờn gm
hoa nõu
(Hỡnh 3.d)
Gm hoa
nõu c ra i
vo cui thi Lý
v phỏt trin mnh
thi Trn, gm
nhiu loi, kiu
dỏng khỏc nhau. Cú loi to nh chu, ang, thp. Cú loi nh nh bỏt, a, lin, Hin vt ngy
nay cũn li mt s bo tng nh Bo tng Lch s, Bo tng M thut hoc cỏc bo tng a
phng H Ni, Nam nh, Hi Dng, Hng Yờn, Thanh Húa, H Từy.v.v Mt s khỏc
16
H×nh 3.e - Thµng bËc cæng V¨n MiÕu
Hµ Néi
nằm ở các sưu tập tư nhân trong và ngoài nước. Trờn cỏc đồ gốm này thường được chia thành ô
hoặc thành băng để trang trí bằng cách dùng bút vẽ lên xương đất, sau đó tráng men và kẻ vạch

rồi mới đem nung. Đề tài trang trí gồm nhiều loại mà trong đó hoa sen chiếm số lượng lớn. Hoa
văn hoa sen có loại đơn giản, chỉ vẽ vạch mấy nét mà thành, như trường hợp một chiếc âu trong
sưu tập của Bảo tàng quốc gia Bỉ, phần lớn chúng được vẽ theo lối nhỡn nghiờng Từ một
cuống hoa ở dưới vươn lên rồi tiếp đến các cánh hoa đổ ra hai phía bọc quanh một đài gương ở
giữa. Hai cánh trên cùng đang ôm lấy gương sen, hai cánh tiếp nở vươn rộng ra hai bên và hai
cánh dưới cùng đổ xuống phía dưới. Đơn giản như vậy nhưng vỡ cỏc cánh sen này không bị gò
bó trong một khuôn mẫu đăng đối nào nờn trụng rất sinh động. Nét bút của nghệ nhân ở đây tung
hoành thoải mái. Khi thì nhấn mạnh tạo một mảng đậm cho một cánh sen, lúc lại nâng cao lướt
nhẹ mô tả một chi tiết của cuống hoa hay của búp sen. Mỗi ô một hoa, mỗi hoa một kiểu dáng,
thường đứng riêng lẻ một mình hoặc kết hợp với một vài cây cỏ và búp sen. Đặc biệt có đồ án
trên một chiếc tháp gốm của Bảo tàng Hải Dương, nghệ nhân còn vẽ thêm nhiều búp sen và lá
sen nhiều kiểu dáng, có lá bố cục theo lối nhìn chính diện từ trên xuống thành cả mảng tròn to,
thấy rõ cả chi tiết các gân lá. Ở một liễn men nâu ở Bảo tàng Lịch sử Hà Nội, hoa sen lại bố cục
thành hoa dây uốn lượn cong tròn đều. Cứ mỗi ô trống là một hoa sen, bố cục theo lối nhỡn
nghiờng, cánh hoa đổ ra hai phía như ở các đồ gốm hoa nõu khỏc. Dõy hoa này có nhiều lá, có lá
như một cánh sen, có lá lại giống lá của hoa cúc trông rất sinh động.
2.4 Hoa văn hoa sen thời Lê sơ
Thời Lê sơ đạo phật bị hạn chế, các chùa tháp không phát triển nhiều nhưng hoa sen vẫn là
loại đề tài được chú ý nhiều. Hoa sen không những được trang trí trên các bệ tượng Phật, trên các
chân tảng cột chùa mà nó còn trang trí ở các thành bậc cung điện của triều đình và trên cả các bia
tiến sĩ ở Văn Miếu. ý nghĩa cao quý của hoa sen đã vượt ra khỏi biểu tượng của đạo Phật để đến
với nhiều loại hình khác. Sau đây là một số đồ án cụ thể.
2.4.1 Đồ án hoa sen ở mặt ngoài thành bậc các cung điện
Như ở bậc điện Kớnh
Thiờn (Hà Nội), điện Lam Kinh
(Thanh Hóa), Văn Miếu (Hà Nội).
Mặc dù dưới hình thức cuộn vòng
của hoa dây, nhưng trung tâm vẫn
là bông hoa sen. Hoa sen thể hiện
theo kiểu nhỡn nghiờng, thấy rõ cả

từng lớp của hoa. Trong cùng là
một búp hoa còn xếp kín chưa nở.
17
H×nh 3. f - DiÒm biea chïa Cao
Tiếp đó là các lớp cánh sen toả đều ra hai bên như bố cục hình nan quạt. Vì được cách điệu cao
nên ở đây khó nhận ra các cánh sen quen thuộc.
Ở thành bậc điện Lam Kinh đồ án hoa sen cũng giống như ở thành bậc điện Kớnh Thiờn. Đáng
chú ý là có một số đồ án ở giữa không phải là chựm cỏnh, mà lại là cả một đài sen tạo thành một
mảng to như hình lá sen, còn ở giữa là cỏc hỡnh xoắn cách điệu. Trên thành bậc cửa Văn Miếu
(Hà Nội), các cánh sen vẫn thể hiện theo lối vân xoắn, gương sen ở giữa vẫn chạm lối nhỡn
nghiờng. Rõ ràng cả hoa sen của 3 thành bậc đều có chung một phong cánh thể hiện. Đó là lối vân
xoắn cách điệu cao, đường nét chạm rành mạch sắc nét.
2.4.2 Đồ án hoa sen ở diềm bia (Hình 3. f)
Một số bia thời Lê sơ như các bia tiến sĩ ở Văn Miếu (Hà Nội - 1484), bia chùa Cao (Hà Tây -
1505) đều có trang trí hình
hoa sen xen lẫn các hoa khác.
Bố cục hoa sen theo kiểu nhỡn
nghiờng, cũn cỏc cánh hoa thì
phần lớn đang chụm lại che kín
đài gương, ở trên là 3 lớp cánh
đang xếp sát nhau, phía dưới
cũng có 3 cánh nhỏ đã nở rộng.
Đó là trường hợp hoa sen diềm
bia chùa Cao. Còn ở diềm bia
Văn Miếu bố cục cũng như vậy
nhưng có phần đơn giản hơn. Ở
giữa là hai cánh sen ôm lấy đài gương, phía ngoài có 5 cánh nở đều
ra cỏc phớa, giống hoa sen bệ chùa Ngọc Khám (Bắc Ninh - thế kỷ
XVII)
2.4.3 Đồ án hoa se trên bệ tượng phật

Các bệ tượng Phật thời Lê sơ, như bệ cỏc chựa Khỏm Lạng (Bắc
Giang - 1432), chùa Cao (Hà Tây-1505) đều có trang trí cánh sen . Kiểu cách và chi tiết của
các hoa văn này gần giống với các cánh sen trờn cỏc bệ thời Trần. Đặc biệt ở chựa Khỏm Lạng,
ngoài các cánh sen to, cũn cú lớp cánh sen được chạm theo kiểu xếp gối lên nhau chỉ thấy nửa
hình, cứ thế mà thành băng dài. Lối bố cục gối lên nhau này cũng đã thấy có ở thời Trần. Ở chùa
Cung Kiệm, dưới chân bệ đá của tượng Phật niên đại 1449, còn thể hiện một đóa hoa sen nổi
trên sóng nước, chạm theo lối nhìn hơi chếch nghiờng, cỏc cánh sen nở vây quanh một búp sen ở
giữa, lỏ phớa ngoài hỡnh súng, bố cục đơn giải, ít chi tiết.
Bộ Tam Thế chùa Khám Lạng
18
H×nh 3.k - Thµnh bËc §µn Nam Giao
2.4.4 Đồ án hoa sen trên bậc đàn Nam Giao (Hình 3.k)
Nếu như hoa sen trên các thành bậc
điện Kính Thiên, điện Lam Kinh và Văn
Miếu Hà Nội, đã đi vào cách điệu cao,
thì riêng ở thành bậc đàn Nam Giao (Hà
Nội) ta lại gặp một phong cách gần gũi
với hiện thực. Tác giả chạm đầm sen với
nhiều lớp sóng xáo động, có đôi chim
uyên ương đang đùa dỡn, có hai con cá
đang hoa rồng: đuôi vẫn là cá, đầu đã là rồng và một số hoa sen, lá sen nổi lên mặt nước. Hoa
sen gồm một búp sen chưa nở, các cánh sen vẫn xếp bó lại. Còn một hoa khác thì đã sắp tàn.
gương sen lộ hẳn và chỉ còn một vài cánh hoa sen nữa mà thôi. Cùng với hoa sen có cả lá sen. Lá
sen ở đây cũng bố cục theo kiểu nghiêng hơi chếch, thấy rõ cả cuống lá. Còn ở phía trên lá cũng
uốn lượn sóng. Cả hoa sen và lá sen đều rất gần gũi với hình ảnh lá sen, hoa sen thật mà chúng ta
gặp ở ngoài đời, từ kiểu cách cho đến cả dáng hình đổ siêu cong cong trước són gió. Điều hơi lạ
là giữa một cảnh cao sang (uyên ương), xa lạ (cá hoá rồng) lại xuất hiện những lá sen, hoa sen rất
thực như vố có trong cuộc đời, phải chăng tác giả muốn gắn những ước mơ trên kia với đời thực
để nuôi cho mình một niềm tin nào đó vào tương lai.
Chương 3: Hình tượng hoa sen trong văn hoá Việt Nam

3.1. Hình tượng hoa sen trong văn học nghệ thuật
Khi nói đến Sen, Là người Việt Nam chắc hẳn ai cũng thuộc câu ca dao:
"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mựi bựn".
Khi xưa, Mạc Đĩnh Chi khi đứng trước vua Trần Anh Tụng đó thể hiện rõ phẩm chất của
mình qua bài phú “Ngọc tỉnh liờn” (Hoa sen trong giếng ngọc): Vì hoa sen vốn có tiết tháo thanh
cao, không hoa nào sánh được, tuy gần bùn mà chẳng hôi tanh mựi bựn; vả lại sen này lại trồng
trong giếng ngọc nữa thì sen càng cao quý biết bao. Ông như sen, dù có phải ở vào hoàn cảnh ô
trọc thế nào thì cũng vẫn giữ khí tiết thanh cao, huống chi ở phải vào một thời tốt đẹp, vua minh
chỏnh thỡ người ông càng cao quý biết mấy. Sen quý nhưng phải có người sành mới biết thưởng
thức…”
Làng quê nơi Bác sinh ra cũng có tên là Làng Sen, và có lẽ hoa sen đẹp nhất khi được ví
với hình tượng Bác Hồ, người cha già dân tộc, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta:
19
"Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ"
3.2. Hình tượng hoa sen trong mĩ thuật
3.2.1 hoa sen trong điêu khắc
3.2.2 Hoa sen trong kiến trúc
3.2.3 Hoa sen trong hội hoạ
3.3 Hoa sen trong văn hoá ẩm thực Việt Nam:
Từ ảnh hưởng của hoa sen trong đời sống tinh thần mà người dân Việt Nam đã đưa sen lên
đỉnh cao của văn hóa ẩm thực.
Các bộ phận trên bông hoa sen được biến chế thành những món ăn đặc trưng, mang đậm
một hương vị Việt Nam như gỏi ngó sen, mứt sen, trà sen. Sen hồ Tịnh Tâm của Cố đô Huế ngày
xưa được dùng để ướp trà cho vua. Người ta ướp trà vào ban đêm. Khi sen vừa hé nhụy là lúc
trời đất đang giao hoà, hương còn rất đượm. Trà được đặt vào trong lòng hoa rồi dùng dây buộc
lại, ép không cho hoa nở ra, để qua hết đêm trà sẽ hấp thụ toàn bộ hương sen. Sáng hôm sau thì

thu trà, trà sen Huế vì thế có hương thơm thanh khiết và đậm đà đến say lòng.
Chè sen Huế với hạt sen tươi, bóc vỏ, lột lớp lụa mỏng, xoi tim rồi đem chưng cách thủy,
chưng với đường phèn thì hương mới thơm. Chè sen được múc trong bát cổ men sứ màu xanh
nhỏ như “mắt trõu”, chỉ độ dăm bảy hạt sen vàng nở lươm tươm. Trong các dịp lễ tết hay kỵ giỗ,
chè sen là món quan trọng gần như không thể thiếu trong lễ phẩm. Cúng xong, chỉ một bỏt thụi
là đã thưởng thức đủ cái “quốc hồn quốc tỳy” của xứ Huế rồi!
Ngoài ra, người Huế cũn dựng sen để nấu cơm sen rất nổi tiếng trong các món ăn truyền thống
Huế. Cách nấu cơm sen cũng hết sức cầu kỳ, chỉ có những người phụ nữ Huế thực thụ tính tình
điềm đạm có bản sắc “tụn nữ” mới nấu được cơm sen. Trong những món ăn “bỏt bửu”, cơm sen
xuất hiện với một phong cách rất Huế. Những ai muốn thưởng thức món cơm sen Huế hãy đến
cố đô vào mùa sen nở. Ngoài ra, còn có nhiều món ăn thượng vị từ sen Huế mang nhiều hương
sắc và hương vị đậm đà.
Còn một nét đặc biệt nữa là người miền Bắc thường dùng dùng lá sen để gói cốm. Hương
đồng, cỏ nội quấn quyện với hương đồng cỏ nội. Những hạt cốm xanh màu ngọc thạch trở nên dẻo
và thơm lâu hơn khi nằm trong lòng chiếc lá sen tươi. Hương thơm dìu dịu của lá sen hoà quyện
với hương cốm. Thật là một sự kết hợp hài hòa tuyệt vời mà bất cứ ai đã thưởng thức còn nhớ mãi.
20
KếT LUậN
Hình tượng hoa sen trong nghệ thuật tạo hình Việt là một đề tài rất phong phú, được thể hiện
ở rất nhiều các hình thức trang trí mỹ thuật và kiến trúc đặc trưng riêng cho mỗi thời kỳ lịch sử dân
tộc. Nó không chỉ mang lại giá trị vật chất cho cuộc sống, mà còn mang giá trị tinh thần vô giá với
người Việt. Chính vì vậy hình tượng hoa sen không chỉ là cảm hứng sáng tác của các nghệ nhân
xưa, mà ngày nay các họa sĩ hiện đại vẫn có nhiều tác phẩm thành công với đề tài hoa sen, qua
nhiều cách nhìn và ngôn ngữ tạo hình khác nhau, nhưng đều biểu đạt được giá trị thẩm mỹ vĩnh
hằng của loài hoa đã thấm sâu vào tâm hồn dân tộc Việt.
Hoa văn trang trí nói chung, cũng như họa tiết hoa sen trang trí của người Việt nói riêng, là
một trong những di sản văn hóa - nghệ thuật quan trọng của dân tộc. Qua hình tượng hoa sen trang
trí cho thấy nó phản ánh muôn vàn dấu ấn tiến bộ, đậm đà bản sắc văn hóa của từng thời đại. Nú
cũn hàm chứa các nhân tố tư tưởng, đặc điểm kinh tế, tôn giáo, mỹ học Do đó, thiết nghĩ hoa văn
cần được các nhà làm văn hóa, cũng như các nghệ sĩ, nghệ nhân và tất cả mọi người chúng ta cần

phải biết trân trọng, quan tâm nghiên cứu hơn nữa, hầu kế thừa một cách đúng đắn, làm giàu cho
đời sống thẩm mỹ, văn hóa của thời đại. Con người, cá nhân hay cả một dân tộc, nếu muốn có một
tương lai tốt đẹp thì phải biết trân trọng và phát huy quá khứ. Núi cỏch tổng quát, không hướng đến
cái đẹp thì nhân loại không có sự phát triển, và cũng sẽ không có nền văn minh.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Lâm Biền, Trang trí trong Mĩ thuật truyền thống của người Việt. NXB Mỹ thuật Hà
Nội, 2001.
2. Trần Lâm Biền, Mét con đường tiếp cận lịch sử. NXB Văn hoá dân tộc, 2003.
3. Nguyễn Du Chi, Hoa văn Việt Nam, NXB Mỹ thuật, 2002
21
4. Phạm Thị Chỉnh, Giáo trình Lịch sử mỹ thuật NXB Mỹ thuật Hà Nội, 2001
5. Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam (qua bản rập), Viện NT, Bộ văn hoá, 1975.
6. Phan Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung khắc Lược. Đồ hoạ cổ Việt Nam, NXB Mỹ thuật,
2000.
22

×