Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Từ ngữ ẩm thực trong tiếng việt và cách chuyển dịch sang tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 165 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ DUNG













TỪ NGỮ ẨM THỰC TRONG TIẾNG VIỆT VÀ CÁCH CHUYỂN DỊCH SANG
TIẾNG ANH





CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ: 60 22 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: VŨ THỊ THANH HƯƠNG











HÀ NỘI - 11/2009



1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu 6
5. Kết cấu của luận văn 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 7
1.1. Vấn đề định danh trong ngôn ngữ 8
1.1.1. Định danh là gì? 8
1.1.2. Các phương thức định danh trong ngôn ngữ 11

1.2. Ngôn ngữ và văn hóa 13
1.2.1. Văn hóa là gì? 13
1.2.2. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa 17
1.2.3. Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam 21
1.3. Ẩm thực Việt Nam trong văn hoá Việt 24
1.3.1. Văn hóa ẩm thực 24
1.3.2. Văn hóa ẩm thực trong tiếng Việt 28
Tiểu kết 31
CHƯƠNG 2: TỪ NGỮ ẨM THỰC TRONG TIẾNG VIỆT 33
2.1. Đặc điểm về xuất xứ và cấu tạo 33
2.1.1. Đặc điểm về xuất xứ 33
2.1.1.1. Xuất xứ món ăn có nguồn gốc Hán 34
2.1.1.2. Xuất xứ món ăn có gốc Ấn - Âu 35
2.1.2. Đặc điểm cấu tạo 37
2.2. Đặc điểm định danh 41
2.2.1. Đặc điểm định danh của thành tố trung tâm 41
2.2.2. Đặc điểm định danh của các thành tố phụ 42
2.2.3. Các yếu tố định danh 49
2.2.3.1. Nguyên liệu 50
2.2.3.2. Gia liệu 53
2.2.3.3 Phương thức chế biến 55

2
2.2.4. Các mô hình định danh xét theo ngữ nghĩa 59
2.2.4.1. Định danh món ăn theo loại thực phẩm và các yếu tố ngữ nghĩa khác 60
2.4.2. Định danh món ăn theo nguyên liệu và các yếu tố ngữ nghĩa khác 64
2.3. Đặc điểm văn hóa hàm chứa trong từ ngữ ẩm thực Việt 67
2.3.1. Phản ánh văn hóa nông nghiệp 67
2.3.2. Phản ánh văn hóa vùng miền 72
2.3.3. Phản ánh triết lý âm dương 76

Tiểu kết 80
CHƯƠNG 3: CÁC THỦ PHÁP CHUYỂN DỊCH TỪ NGỮ ẨM THỰC
TIẾNG VIỆT SANG TIẾNG ANH 82
3.1. Khái niệm tương đương dịch thuật 82
3.1.1. Các quan niệm về tương đương dịch thuật 82
3.1.2. Các kiểu tương đương dịch thuật 85
3.2. Các khả năng tương đương của từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang
tiếng Anh 87
3.2.1 Tương đương hoàn toàn 87
3.2.2. Tương đương bộ phận 89
3.2.3. Không tương đương 92
3.3. Các thủ pháp chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh 93
3.3.1. Trực dịch 94
3.3.2. Phiên âm 95
3.3.3. Dịch căn ke (sao phỏng) 96
3.3.4. Dịch tương đương văn hóa 97
3.3.5. Dịch giải thích (dịch tương đương mô tả) 98
3.3.6. Dùng các từ ngữ có nghĩa rộng hơn 100
Tiểu kết 101
KẾT LUẬN 103







3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Ăn uống của con người không chỉ là hoạt động mang tính sinh học để
duy trì sự sống mà còn mang tính văn hóa, gắn với một cộng đồng người với
những thói quen, tập tục. Ăn uống và tập tục ăn uống bảo lưu khá đậm nét
những dấu ấn văn hóa tộc người. Thông qua những món ăn, chúng ta có thể
hiểu được phần nào đặc điểm tâm lý tộc người; hiểu được tập quán, hiểu được
cung cách ứng xử của con người với môi trường. Ẩm thực trong tiếng Việt từ
trước tới nay đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm ở nhiều khía cạnh và
góc độ khác nhau, từ các món ăn, cách thức ăn, tập tục ăn uống cho đến các
triết lý trong món ăn. Trong cuốn “Nữ công thắng lãm” của Hải thượng Lãn
ông Lê Hữu Trác (1971) đã giới thiệu cách chế biến hơn 100 món ăn, Phạm
Đình Hổ, thế kỷ 18 có cuốn “Vũ trung tuỳ bút” (1972) nói tới tục uống trà,
Trần Việt Ngọc, thế kỷ 19 có “Đại Nam hội điển sự lệ” (1993) giới thiệu gần
150 món ăn và các loại đặc sản. Sang thế kỷ 20, có nhiều học giả nghiên cứu
về các món ăn ở nhiều góc độ hơn, về văn hoá, lịch sử, quan hệ giữa tập quán
ăn uống với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, trong đó đáng chú ý là
cuốn “Đất lề quê thói” của Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu (1970) giới thiệu
những món ăn ở Bắc Bộ, và cuốn “Văn hoá ẩm thực Việt Nam” các món ăn
miền Bắc, Trung, Nam của Vũ Bằng, Mai Khôi, Thượng Hồng, Băng Sơn
(2006) giới thiệu các đặc sản, đặc trưng ẩm thực từng miền, và những nét văn
hoá đặc trưng của mỗi vùng miền thể hiện trong mỗi món ăn. Tập tục ăn uống
cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm như tác phẩm “Tập quán ăn uống của
người Việt ở vùng Kinh Bắc xưa” của Vương Xuân Tình (1999), trong đó đề
cập đến lịch sử ăn uống, mối liên hệ khá thú vị giữa điều kiện tự nhiên, xã hội
và cách thức ăn của người Kinh Bắc. Tất cả những công trình nghiên cứu này
hầu hết đều nghiên cứu sâu về văn hoá, chưa có tác phẩm nào nghiên cứu về

4
tên các món ăn. Tuy nhiên, đã có một bài nghiên cứu “Đặc điểm các loại bánh
ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thu Hằng (2007) trong đó tác giả đã mô tả

cách thức cấu tạo tên các loại bánh và đưa ra những nhận xét bước đầu về
những đặc trưng văn hoá của người Việt.
Việc tìm hiều nội dung hay cách cấu tạo của từ ngữ ẩm thực giúp
chúng ta có một cách nhìn toàn diện hơn về lớp từ ngữ ẩm thực của Việt
Nam. Cùng với lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm, văn
hoá được kết tinh ở nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có ẩm thực. Ẩm
thực là những món ăn thông thường trong những bữa cơm gia đình, cũng có
khi lại là mâm cao cỗ đầy trong những dịp quan trọng như giỗ chạp, lễ tết,
hiếu hỷ…làm cho đời sống vật chất của người Việt trở nên phong phú. Mỗi
vùng miền lại có những dấu ấn riêng, bản sắc riêng trong bản sắc chung của
dân tộc Việt. Người miền Bắc, người miền Trung hay người miền Nam có
những cách thể hiện món ăn, chế biến, trình bày theo vùng khí hậu, vùng văn
hoá rất đặc trưng. Mỗi vùng lại có đại diện tiêu biểu, miền Bắc, có món ngon
Hà Nội, miền Trung có đặc sắc ẩm thực Huế với cách ăn cầu kỳ theo lối cung
đình, người miền Nam có Sài Gòn với sự dung hoà của rất nhiều lối ẩm thực
khác nhau. Thông qua những tên gọi món ăn, chúng ta phần nào hiểu được
nét văn hoá, nét sinh hoạt của người Việt, ẩn sâu trong đó là những triết lý
cuộc đời mà người Việt ý nhị gửi vào tên đó.
Xã hội ngày càng phát triển, sự giao thoa giữa các nền văn hoá gần
hơn, không phải sang tận Mỹ, Pháp chúng ta mới thưởng thức được hương vị
của bánh Hamberger, hay KFC - những đồ ăn nhanh nổi tiếng của phương
Tây và ngược lại, cũng không nhất thiết phải ở Việt Nam mới có thể biết đến
tô phở bò, phở gà, mà có thể ngồi ở Cali - Mỹ bạn vẫn biết phở Việt Nam thế
nào. Với xu thế phát triển như vậy, tên các món ăn cũng cần được chuyển
dịch sang một thứ tiếng khác, phổ biến hơn, toàn cầu hơn. Sự cần thiết để


5
chuyển dịch tên các món ăn Việt sang tiếng Anh là rất lớn, không chỉ đáp ứng
nhu cầu xã hội trong các dịch vụ ăn uống, mà cũng là một cách chuyển tải

một phần văn hoá đến với bạn bè quốc tế. Ăn không chỉ là ăn nữa, mà còn
hiểu được cả cách thưởng thức món ăn của người Việt, thưởng thức cách nêm
nấu món ăn của người Việt, và cả những dấu ấn lịch sử, văn hoá của người
Việt. Trong quá trình chuyển dịch món ăn Việt, có nhiều tên gọi gần như mất
hết nét nghĩa văn hoá bao hàm trong đó, ví dụ: bánh phu thê được chuyển
dịch sang tiếng Anh là Wedding Cake, người phương Tây đều hình dung ra
loại bánh gato nhiều tầng thường được cô dâu và chú rể cắt trong tiệc cưới,
chứ không phải thứ bánh làm bằng bột nếp, đỗ xanh, đường kính với những
hàm ý sâu xa từ một tích truyện. Việc nghiên cứu cụ thể các trường hợp như
vậy trong lớp từ ẩm thực sẽ giúp chúng ta chỉ ra những bất cập khi chuyển
dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh.
Trên đây là những lý do thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài "Từ ngữ ẩm
thực trong tiếng Việt và cách chuyển dịch sang tiếng Anh" để làm luận văn
thạc sỹ. Với nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn góp phần tìm hiểu lớp từ
vựng ẩm thực trong tiếng Việt và những cách thường được sử dụng để chuyển
dịch sang tiếng Anh.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các từ ngữ ẩm thực trong tiếng
Việt và một phần từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt được chuyển dịch sang
tiếng Anh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là muốn khảo sát, thống kê, phân tích và
miêu tả một cách chi tiết về từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt và cách thức
chuyển dịch chúng sang tiếng Anh.

6
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết
những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Xây dựng một cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu từ ngữ ẩm thực
trong tiếng Việt.

- Phân tích, miêu tả các đặc điểm về nguồn gốc và cấu tạo của từ ngữ
ẩm thực trong tiếng Việt.
- Phân tích, mô tả các đặc điểm văn hóa của từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt.
- Tìm hiểu các kiểu dịch từ ngữ ẩm thực từ tiếng Việt sang tiếng Anh.
Thực hiện được nhiệm vụ trên, luận văn " TỪ NGỮ ẨM THỰC
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ CÁCH CHUYỂN DỊCH SANG TIẾNG ANH "
hy vọng sẽ góp phần vào việc nghiên cứu từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt sâu
hơn, góp phần làm rõ những cách thức chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt
sang tiếng Anh. Trong xu thế hội nhập hiện nay, quảng bá văn hóa trong đó
có ẩm thực là việc làm cần thiết, do đó dịch từ ngữ ẩm thực sang tiếng Anh để
người nước ngoài có thể hiểu được và cảm nhận được phần văn hóa của Việt
Nam là rất cần
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Tư liệu luận văn được thống kê từ các nguồn trong Từ điển tiếng Việt
(Nguyễn Như Ý), từ điển LacViệt Anh - Việt, Internet, Menu của một số nhà
hàng tại Hà Nội có nhiều khách nước ngoài đến thưởng thức như Quán ngon,
Hot Rock, Bếp Việt, Brother Cafe…, một số tạp chí như Món ngon, Heritage.
1553 đơn vị từ ngữ ẩm thực tiếng Việt và 678 đơn vị từ ngữ ẩm thực đã được
chuyển dịch sang tiếng Anh đã được thu thập và phân tích trong luận văn này.
Những phương pháp chúng tôi sử dụng trong luận văn này là những
phương pháp thông dụng dùng trong nghiên cứu ngôn ngữ như:


7
Phương pháp phân tích, mô tả cấu trúc và ngữ nghĩa.
Phương pháp thống kê ngôn ngữ học.
Phương pháp đối chiếu từ vựng.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm 3 chương với các
nội dung như sau:

Chương 1: Trình bày các vấn đề lý thuyết liên quan như: Vấn đề định
danh, văn hóa ẩm thực, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, ẩm thực trong
ngôn ngữ và ẩm thực trong tiếng Việt. Đây là chương lý thuyết làm cơ sở cho
những nghiên cứu của chương 2 và chương 3.
Chương 2: Tập trung phân tích các đặc điểm về nguồn gốc, cấu tạo,
định danh, ngữ nghĩa và yếu tố văn hóa của từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt.
Chương 3: Chương cuối của luận văn, ngoài trình bày một số lý thuyết
về dịch thuật, vấn đề tương đương trong dịch thuật, luận văn chủ yếu tập trung
vào phân tích các cách thức chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh.
Ngoài phần nội dung, luận văn còn có các phụ lục về từ ngữ ẩm thực
trong tiếng Việt và từ ngữ ẩm thực tiếng Việt được chuyển dịch sang tiếng
Anh.



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Để có cơ sở lý thuyết làm nền tảng cho những vấn đề cần giải quyết
của luận văn, chúng tôi đã cố gắng tiếp cận những tư tưởng, ý kiến có giá trị
của các nhà nghiên cứu. Chương này, chúng tôi trình bày một số vấn đề lý

8
thuyết liên quan đến nội dung của luận văn như vấn đề định danh trong ngôn
ngữ, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, ẩm thực Việt Nam trong văn hóa
Việt Nam.
1.1. Vấn đề định danh trong ngôn ngữ
1.1.1. Định danh là gì?
Khái niệm này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, theo tác giả Vũ
Thế Thạch (1996), định danh là sự cấu tạo các đơn vị ngôn ngữ có chức năng
dùng gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực khách quan và trên cơ sở đó
hình thành những khái niệm tương ứng về chúng dưới dạng các từ, cụm từ,

ngữ và câu.
Khi bàn về bản chất của quá trình định danh ngôn ngữ, tác giả Hoàng
Lai (1970) đã trích dẫn ý kiến của Viện sĩ hàn lâm khoa học Nga B. A
Serebrenikov về những nhân tố để tạo ra những đơn vị định danh. Đó là:
- Những tri thức lịch sử, xã hội, văn hoá cho phép nhận ra những đặc
điểm của sự vật, hiện tượng, chức năng của chúng, cần thiết phải phân biệt
chúng với những sự vật, hiện tượng khác bằng cách cho chúng những tên gọi riêng.
- Cá nhân cũng giữ vai trò quan trọng vì chính cá nhân đã sử dụng ngôn
ngữ của cộng đồng để tạo ra các đơn vị định danh mới.
- Tổ hợp âm, từ, từ tổ là phương tiện làm tên gọi cho sự vật, hiện tượng.
Theo triết học Mac - Lenin, các sự vật phân biệt nhau chính là ở “chất”
của nó. Chất là “sự thống nhất hữu cơ những thuọc tính, những đặc trưng
phân biệt sự vật hay hiện tượng với sự vật hay hiện tượng khác” (Hoàng Lai,
hiệu đính bản dịch Ngôn ngữ học đại cương, Matxcơva, 1970).


9
Một nhân tố quan trọng khác ảnh hưởng tới số phận của các đơn vị
định danh mới là đơn vị định danh đó được xã hội chấp nhận hay không. Dầu
sao cộng đồng xã hội cũng là nhân tố quyết định trong việc tạo đơn vị định danh mới.
Và một nhân tố không kém phần quan trọng trong quá trình định danh
là đặc điểm cấu trúc ngôn ngữ hay nói rộng hơn là loại hình ngôn ngữ. Chẳng
hạn tiếng Việt, sử dụng các loại từ khác nhau như cái, cục, con, chiếc theo tuỳ
theo sự phạm trù hoá.
Theo đó thì từ được nghiên cứu từ quan điểm của mối liên hệ sự vật
của nó với thế giới khách quan ngoài ngôn ngữ. Còn bình diện ngữ nghĩa của
việc nghiên cứu từ xem xét nội dung của các đơn vị từ vựng từ quan điểm của
mối liên hệ bên trong hệ thống, bên trong từ. Việc nghiên cứu những đặc
trưng của sự biểu hiện bằng các đơn vị ngôn ngữ trước hết gắn liền với việc
nghiên cứu từ trong mối quan hệ của nó với đối tượng, sự vật xung quanh.

Trong các ngôn ngữ khác nhau, các phương pháp định danh cũng khác nhau,
định danh theo từ căn, định danh từ phái sinh, định danh tổ hợp từ, định danh
gián tiếp trên cơ sở các ý nghĩa liên hệ của từ.
Bằng các đơn vị, ngôn ngữ phản ánh hai phạm vi thực tế khách quan có
quan hệ chặt chẽ với nhau: phạm vi sự vật, hiện tượng (danh từ) và phạm vi
các thuộc tính, các quan hệ của sự vật hiện tượng đó (động từ, tính từ, trạng
từ). Danh từ thường biều hiện sự vật, hiện tượng ấy.
Một số nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng đưa ra những nhận đinh về
vấn đề định danh như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Tu,
Lý Toàn Thắng…
Theo nhà nghiên cứu Lý Toàn Thắng (2002), chức năng định danh của
tín hiệu ngôn ngữ được thể hiện trong chức năng giao tiếp và chức năng làm
công cụ của tư duy. Cũng theo đó, các tên gọi là sản phẩm của tư duy trừu

10
tượng, chúng xuất hiện do nhu cầu phân biệt, cần nhận thức các sự vật, đối
tượng và nói lên những kinh nghiệm, hiểu biết của con người về các sự vật,
đối tượng đó. Quá trình định danh sự vật phải tuân thủ các nguyên tắc tâm lí
ngôn ngữ có tính phổ quát vốn chi phối:
- Cách thức phân loại các sự vật;
- Cách thức phạm trù hoá các sự vật;
Còn theo tác giả Đỗ Hữu Châu (1983), chức năng định danh chỉ là một
dạng của chức năng biểu vật. Từ đã có chức năng định danh thì có chức năng
biểu vật. Nhờ các tên gọi mà sự vật, hiện tượng thực tế khách quan tồn tại
trong lý trí của chúng ta, phân biệt được với các sự vật, hiện tượng khác cùng
loại và khác loại. Vì các tên gọi làm cho tư duy trở nên rành mạch sáng sủa,
cho nên một sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan chỉ thực sự trở thành
một sự vật được nhận thức, một sự vật của tư duy khi nó đã có một tên gọi
trong ngôn ngữ.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tồn (2002) nhấn mạnh đến đặc trưng văn

hoá dân tộc trong vấn đề định danh. Đặc trưng văn hoá dân tộc của định danh
ngôn ngữ được biểu hiện trước hết ở việc lựa chọn đặc trưng của đối tượng để
làm cơ sở cho tên gọi của nó. Trong quá trình tạo ra các từ, có ý nghĩa lớn lao
là vấn đề lựa chọn đặc trưng để lấy làm đối tượng để là cơ sở cho tên gọi đối
tượng. Vai trò của việc lựa chọn này bị quy định bởi một loạt nhân tố, trong
đó một phần thuộc về những đặc điểm sinh lý của con người, một phần thuộc
về cơ chế của lời nói.
Mỗi khách thể ở thế giới khách quan có một hệ thống những thuộc tính
và mối liên hệ khác nhau. Quá trình con người nhận thức được đặc tính, hay
đặc trưng nào đó là tiêu biểu, để nó chính là nó và để khu biệt nó với những
đối tượng khác thì những đặc trưng ấy cũng có tên gọi trong ngôn ngữ. Vấn


11
đề này có liên quan tới việc sử dụng đối tượng nào đó trong thực tiễn và phụ
thuộc vào nhu cầu, mục đích của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định. Đó là lí
do mà mỗi dân tộc chọn đặc điểm để định danh theo cách riêng của mình, và
cùng một đối tượng trong các ngôn ngữ khác nhau sẽ được gọi tên theo các
cách khác nhau. Cùng một đối tượng có thể được gọi tên trong các ngôn ngữ
theo cách khác nhau phụ thuộc vào đối lập kiểu nào về tâm lí, lịch sử, dân tộc
và xã hội đã làm cơ sở cho sự định danh. Quan điểm trên hoàn toàn hợp lý,
hiển nhiên, sự đối lập làm cơ sở cho sự định danh ấy phụ thuộc vào chủ thể
định danh. Việc tách chọn đặc trưng của các khách thể khi gọi tên chúng cũng
làm nên đặc trưng văn hoá - dân tộc của từ vựng trong một ngôn ngữ nhất
định. Chính việc chọn đặc trưng làm cơ sở cho tên gọi đối tượng đã quy định
hình thái bên trong của từ. Đó là đặc trưng định danh được biểu thị bằng từ và
tham gia với tư cách một thành tố đặc biệt vào thành phần ý nghĩa từ vựng
của từ.
Như vậy có thể nói, việc tìm hiểu một lớp từ nào đó trong vốn từ vựng
của mỗi tộc người sẽ giúp chúng ta hiểu biết thêm về cách tư duy, cách lựa

chọn đặc điểm để mỗi sự vật “có tên”, và cả lối sống, văn hoá của cư dân, tộc
người đó. Và vì vậy, có thể nói thông qua nghiên cứu lớp từ ẩm thực tiếng
Việt chúng ta sẽ có thể hiểu biết về nếp sinh hoạt mà biểu hiện cụ thể là các
món ăn trong đời sống, hiểu về “văn hoá ứng xử với môi trường”, hiểu về nếp
sinh hoạt của cư dân lúa nước, về các món ăn các vùng làm nên những nét đặc
trưng văn hóa ở người Việt.
1.1.2. Các phương thức định danh trong ngôn ngữ
Trong bài nghiên cứu của Vũ Thế Thạch (1996) có chỉ ra rằng khi định
danh một khái niệm mới, chủ thể định danh có thể sử dụng một trong ba cách sau:

12
- Sử dụng một đơn vị từ vựng đã có sẵn trong ngôn ngữ và chuyển
nghĩa nó. Tên gọi được tạo ra bằng cách này chính là đơn vị định danh thứ sinh.
- Tạo ra một đơn vị hoàn toàn mới. Đó là đơn vị định danh nguyên sinh.
- Vay mượn từ ngôn ngữ khác.
Trong các ngôn ngữ khác nhau, các phương thức định danh, các dạng
định danh cũng khác nhau. Theo cấu trúc hình thái học có thể là:
- Định danh từ phái sinh.
- Định danh tổ hợp từ.
- Định danh trên cơ sở nghĩa liên hệ của từ.
Việc xác định các dạng định danh trong tiếng Việt liên quan tới việc
xác định đặc điểm cấu tạo từ của nó. Trong tiếng Việt có một số lượng lớn
một âm tiết. Đó là những đơn vị định danh cơ bản, định danh gốc, dạng định
danh tạo từ như đất nước, đi lại, ăn chơi…; định danh tổ hợp từ như liên hợp quốc, nhà
nghỉ…
Tác giả Nguyễn Đức Tồn (2002) đã tổng hợp hai trường hợp về cách định danh.
Theo ý kiến của các đại biểu thuộc trường phái ngôn ngữ học Pra-ha ta có:
- Định danh bằng từ và từ tổ (đây là định danh từ vựng).
- Định danh bằng câu (mệnh đề).
- Định danh bằng văn bản.

Cũng có ý kiến cho rằng có những cách định danh khác như:
- Sử dụng tổ hợp ngữ âm biểu thị đặc trưng nào đó trong số các đặc
trưng của đối tượng này.
- Mô phỏng âm thanh.


13
- Phái sinh.
- Ghép từ.
- Cấu tạo các biểu ngữ đặc ngữ.
- Sao phỏng
- Vay mượn
Theo quan điểm của tác giả cũng cần bổ sung thêm phương thức định
danh rất phổ biến và quan trọng đó là sự chuyển nghĩa của từ. Cách định danh
nay thường được gọi là định danh thứ sinh.
Nhìn chung, mỗi dân tộc, mỗi loại hình ngôn ngữ khác nhau có những
lựa chọn khác nhau để định danh. Tư duy, văn hóa của dân tộc có ảnh hưởng
lớn đến việc định danh, đến việc lựa chọn yếu tố, tính chất nào của sự vật để
định danh. So sánh giữa tiếng Anh và tiếng Việt, tiếng Anh thuộc loại hình
ngôn ngữ biến hình, từ được cấu tạo bởi căn tố (yếu tố gốc) và phụ tố, trong
khi tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập (từ ngữ được cấu tạo chủ yếu
là ghép các thành tố). Đặc trưng văn hóa dân tộc bộc lộ rõ ràng ở phạm trù
hóa hiện thực và bức tranh ngôn ngữ về thế giới. Chính vì vậy khi chuyển
dịch văn bản Việt sang văn bản Anh hoặc ngược lại cũng sẽ có nhiều yếu tố
không tương đương, một phần do văn hóa khác biệt - một phương Đông (kín
đáo, thâm trầm, có xu thế hướng nội), một phương Tây (cởi mở, có xu thế
hướng ngoại), một phần do hai loại hình ngôn ngữ khác nhau, cách thức định
danh khác nhau. Do vậy, trong quá trình chuyển dịch từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ kia tương đương hoàn toàn gần như không có.
1.2. Ngôn ngữ và văn hóa

1.2.1. Văn hóa là gì?


14
Có hàng trăm định nghĩa về văn hoá nhưng chưa có một định nghĩa
thống nhất và mang đầy đủ ý nghĩa. Ở góc độ chung nhất, văn hoá thường
được hiểu - đó là phẩm chất đặc hữu chỉ thấy ở con người, nó là cái để phân
biệt giữa người và động vật. Như vậy, văn hoá là dấu ấn đặc trưng cho xã hội
loài người, khác về cơ bản với tổ chức của xã hội động vật, nó là cái do học
được mà có, không phải cái kế thừa theo con đường sinh học. Văn hoá gắn
với ý niệm - thế giới tinh thần của con người, nó được truyền lại trong lịch sử
xã hội loài người, bằng việc sử dụng các hình thái biểu tượng - ngôn ngữ.
Nhà nghiên cứu triết học Phạm Duy Đức (2008) dẫn lời nhà triết học
và cổ sinh học người Pháp - Viện sĩ Teilhard de Chardin (1881- 1955) đưa ra
cách giải thích như sau về văn hóa: Trái đất hình thành và phát triển đến một
giai đoạn nào đó thì xuất hiện sự sống, ông gọi đó là sinh quyển. Tiếp đó là sự
ra đời của tri quyển - quyển về ý thức, tinh thần của con người. Theo ông, tri
quyển là văn hóa. Như vậy, văn hóa thuộc bình diện ý thức tinh thần của con người.
Theo Nhà văn hóa học Phan Ngọc (2001): Văn hóa không phải là kỹ
thuật, không phải là hoạt động tinh thần hay hoạt động chính trị xã hội, cũng
không phải là phong tục tập quán, mà “văn hóa là dấu ấn của một tập thể cộng
đồng trên mọi hiện tượng tinh thần, vật chất, một sản phẩm của tập thể cộng
từ tín ngưỡng, phong tục cho đến cả sản phẩm công nghiệp bán ra thị trường”
Nhà sử học Trần Quốc Vượng (2000) khẳng định: “Văn hóa là sự thích
nghi và biến đổi thiên nhiên, thiên nhiên đặt ra trước con người những thử
thách, những thách đố. Văn hóa là sản phẩm của con người, là phản ứng, là sự
trả lời của con người trước những thách đố của tự nhiên”. Văn hóa xét ở mỗi
cá nhân cũng như ở mỗi cộng đồng còn là do lịch sử hun đúc nên. Những số
phận, vận mệnh lịch sử khác nhau tạo nên những văn hóa khác nhau. Theo tác
giả, văn hóa, theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao



15
hàm cả kỹ thuật, kinh tế… để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử,
một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là
cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống những chuẩn mực,
những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm… tạo nên phong cách diễn
tả tri thức và nghệ thuật của con người. Như vậy, thì phải xuát phát từ những
điều kiện tự nhiên vốn là một sản phẩm của tự nhiên, là một phần của tự
nhiên, đứng đối diện với tự nhiên mà tạo thành văn hóa rồi sau đó là những
điều kiện lịch sử để nhìn nhận về cội nguồn và bản sắc của nền văn hóa Việt Nam.
Tác giả Lê Quang Thiêm (1998) lại xem xét văn hóa từ quan điểm giá
trị "văn hóa là giá trị bao chứa tính ổn định, bền vững nhất định. Nó được tích
lũy và lũy và truyền đạt từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó giúp cho lịch sử xã
hội, vận động, phát triển, nối kết với truyền thống".
Tác giả Trần Ngọc Thêm (1996) đã đưa nhận định phạm vi khái niệm
và cấu trúc giữa văn hóa và văn minh. Theo ông, văn hóa chứa đựng cả các
giá trị vật chất và tinh thần, mang tính dân tộc và có bề dày lịch sử. Tuy
nhiên, văn hóa gắn bó nhiều hơn với nền nông nghiệp phương Đông. Còn văn
minh chỉ một trình độ thiên về giá trị vật chất và kỹ thuật, có tính quốc tế và
gắn bó nhiều hơn với sự phát triển của phương Tây đô thị.
Nhà nghiên cứu Trần Đức Thảo (1996) dẫn ý kiến của Krobe và
Kluckholm về văn hóa cho rằng, văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra, từ
nếp ăn, nếp ở, những thói quen từ cuộc sống, lịch sử bao gồm tư tưởng, giá trị
và con người tạo ra, là lịch sử bao gồm những tư tưởng, khuôn mẫu và giá trị,
là sự lựa chọn, là sự học hỏi, cả sự lựa chọn, là sự học hỏi, văn hóa hình thành
trên nền các biểu trưng dân tộc và văn hóa vừa là sự trừu tượng của hành vi
vừa là sản phẩm của hành vi. Mọi nền văn hóa đều được hình thành chủ yếu
dựa vào cách người ta ứng xử, cảm giác và phản ứng.


16
Nhìn chung thuật ngữ văn hóa hàm chỉ rất nhiều mặt, từ những tập tục
lâu đời, từ những nghi lễ truyền thống, từ những nếp sinh hoạt rất đời thường
đến cả lối sống hiện đại Văn hoá, nói theo một cách khác là tất cả những gì
làm cho cộng đồng này khác biệt với các cộng đồng khác. Đã có rất nhiều
định nghĩa về văn hoá, nhưng chúng ta có thể hiểu một cách tương đối đầy đủ
về văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị, vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn và tương tác giữa con
người với con người, với môi trường tự nhiên và xã hội.
Chúng ta có thể xem xét văn hóa trong mối quan hệ gắn bó giữa cái ta
với thế giới tự nhiên, môi trường xã hội trải dài trong quá trình hình thành,
tồn tại và phát triển của các cộng đồng tộc người và cuối cùng là giữa cái ta
với chính cái ta.
Vậy phải xem xét mối quan hệ và lối ứng xử giữa con người với thế
giới tự nhiên để có cái nhìn toàn diện về văn hóa. Thế giới tự nhiên bao gồm
tất cả những gì thiên nhiên dành cho con người. Thế giới tự nhiên có vai trò
vô cùng quan trọng, mỗi cộng đồng tộc người sống trong môi trường tự nhiên
khác nhau sẽ hình thành nên những lối sống khác nhau. Ví dụ như người đồng
bằng Bắc Bộ ở Việt Nam, nhờ những con sông chứa đầy phù sa và khí hậu
nhiệt đới nên họ đã sớm hình thành nền văn minh nông nghiệp lúa nước, còn
những người ở vùng cao hơn họ lại trồng nương đốt rẫy, du canh du cư. Môi
trường tự nhiên đó cũng hình thành nên các lối ứng xử khác nhau, các giá trị
khác nhau được biểu hiện qua các biểu trưng văn hóa. Cách ăn, cách mặc
mang những nét đặc trưng của từng tộc người. Chính môi trường tự nhiên
cũng hình thành nên những thói quen ăn khác nhau trong cùng một đất nước,
như người miền Trung Việt Nam thích ăn cay, người miền Nam lại thích ăn ngọt.


17
Quan hệ ứng xử giữa con người và môi trường xã hội là chỉ sự tương

tác và các khuôn mẫu ứng xử giữa con người với con người bao gồm trong
gia đình và ngoài xã hội. Đó chính là mối quan hệ và hành vi ứng xử giữa con
người với các hình thức kinh tế, hình thái chính trị, hệ thống luật pháp, các
hình phạt, các quy tắc ứng xử, các hệ thống giá trị, các chuẩn mực, phong tục
tập quán…
Văn hóa, nói một cách ngắn gọn, là tất cả những gì làm cho cộng đồng
này khác biệt với cộng đồng khác. Xét về mặt thành phần, văn hóa là một hệ
thống đa tầng, đa chiều đan xen biện chứng, cơ bản dựa trên các yếu tố nội
sinh (bản địa, dân tộc) kết hợp với các yếu tố ngoại sinh (ngoại lai, quốc tế).
Nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc (2008) đã trích định nghĩa về văn
hóa của UNESCO: Văn hóa là một tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký
hiệu) chi phối tư duy, cách ứng xử (người với thiên nhiên, người với người)
và các mối quan hệ trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù
riêng.
1.2.2. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa

Văn hóa và ngôn ngữ có mối quan hệ khăng khít với nhau. Văn hóa là
nội dung và ngôn ngữ là phương tiện truyền tải nội dung đó.
Cùng với cách ăn, mặc, ở, đi lại của mỗi cộng đồng, ngôn ngữ cũng là
một nhân tố rất quan trọng của văn hoá, ngôn ngữ không chỉ phản ánh về tư
tưởng, tình cảm của người sử dụng ngôn ngữ đó mà còn là phương tiện lưu
giữ tốt nhất nét văn hoá, truyền thống, phong tục tập quán, ứng xử với thiên
nhiên và xã hội của một dân tộc.
Do ngôn ngữ được sinh ra trong quá trình lao động, sáng tạo của con
người nên ngôn ngữ gắn chặt với văn hoá, trực tiếp phản ánh cách tri giác và

18
tư duy thế giới của cộng đồng dân tộc, mà văn hoá dân tộc không thể không
liên quan đến cách tri giác và tư duy ấy.
Có nhiều nhà khoa học mô tả mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa và

có nhiều ý kiến khác nhau song đều có điểm chung là văn hóa bao trùm ngôn
ngữ và ngôn ngữ phản chiếu hình ảnh của văn hóa.
Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng việc các đặc trưng văn hóa
dân tộc thể hiện ở việc định danh (gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực
khách quan trên cơ sở đó hình thành những khái niệm tương ứng về chúng
dưới dạng các từ, cụm từ, ngữ và câu)
Về vấn đề mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, ngôn ngữ là một
lăng kính mà qua đó người bản ngữ tri giác thế giới, và do đó quy định cách
tư duy của họ về hiện thực, thành thử có thể nói rằng mỗi ngôn ngữ cầm tù cái
dân tộc sử dụng nó trong một thế giới riêng, và một bên là phổ quát luận của
Chomsky, chủ trương mấy nghìn thứ tiếng được các ngôn ngữ sử dụng trên
thế giới chẳng qua là những dị bản địa phương của một hệ thống ngôn ngữ
duy nhất thể hiện những nguyên lý phổ quát chi phối cách khái niệm hoá thế
giới của chúng ta.
Những ảnh hưởng của các nhân tố văn hoá đối với cấu trúc của ngôn
ngữ là điều khó có thể hồ nghi, tuy không phải bao giờ cũng dễ chứng minh.
Và do đó, ít ra cũng có thể tìm thấy những sự kiện ngôn ngữ nào đó có thể cắt
nghĩa được bằng những sự kiện thuộc về bản sắc ngôn ngữ của khối cộng
đồng nói thứ tiếng đó, và đến lượt nó, các sự kiện ngôn ngữ lại có thể gợi cho
ta những điều hữu ích về cách cảm nghĩ của người bản ngữ và từ đấy về nền
văn hoá của họ.
Nhìn chung, ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau, chúng phát triển trong sự tác động qua lại lẫn nhau. Các phạm vi của


19
ngôn ngữ và văn hoá gắn bó lẫn nhau, nhưng thường thường, tuy nét quyết
định sự tồn tại của nền văn hoá bằng ngôn ngữ, nhưng chính ngôn ngữ lại
cũng là thành tố độc lập của nền văn hoá dân tộc. Việc xem ngôn ngữ như
thành tố quan trọng nhất của văn hoá và chú ý tới chức năng xã hội của nó,

nhấn mạnh mối quan hệ lẫn nhau giữa ngôn ngữ và linh hồn. Là một thành tố
của nền văn hoá tinh thần, ngôn ngữ giữ vị trí đặc biệt trong nó. Bởi vì ngôn
ngữ là phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt
động của những thành tố khác trong văn hoá. Ngôn ngữ là một trong những
thành tố đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hoá dân tộc nào. Chính trong ngôn
ngữ, đặc điểm của nền văn hoá dân tộc được lưu giữ lại rõ ràng nhất. Chính
ngôn ngữ được một dân tộc sáng tạo ra và của riêng dân tộc này đã thực hiện
chức năng đặc trưng dân tộc. Với tư cách là đặc điểm đặc thù của một nền văn
hoá dân tộc, có thể xem ngôn ngữ theo hai hướng: “hướng nội” - khi đó ngôn
ngữ đóng vai trò nhân tố chính thống nhất dân tộc và “hướng ngoại”- trong
trường hợp này, ngôn ngữ là dấu hiệu cơ bản làm phân ly một dân tộc. Chính
do ngôn ngữ có sự kết hợp biện chứng hai chức năng đối lập như vậy nên
ngôn ngữ đã thực sự là phương tiện tự bảo toàn của một dân tộc, và đồng thời
cũng là phương tiện tách biệt dân tộc này khỏi các nền văn hoá dân tộc khác.
Tác giả Lý Toàn Thắng (2002) nhận xét về mối quan hệ giữa ngôn ngữ
và văn hoá như sau: ngôn ngữ là thành tố cơ bản và quan trọng của văn hoá,
chi phối nhiều thành tố văn hoá khác; là một công cụ có tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển của văn hoá. Nếu nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn hoá bộc lộ ở ba phương diện: ngôn ngữ biểu hiện hiện
thực văn hoá, ngôn ngữ là hiện thân của hiện thực văn hoá và ngôn ngữ biểu
trưng hiện thực văn hoá. Đó là phạm vi không gian, thời gian, động thực vật,
màu sắc, quan hệ họ hàng, bộ phận cơ thể con người…

20
Tác giả Nguyễn Đức Tồn (2002) nhận xét: “Giữa ngôn ngữ và văn hoá,
ngôn ngữ dân tộc và văn hoá dân tộc có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau trong quán trình phát triển” [53; tr17]
Tác giả Nguyễn Lai (2001) cho rằng sự hình thành ngôn ngữ là tiền đề
nhiều mặt của sự hình thành văn hoá mặc dù theo cách sắp xếp hình thức thì
ngôn ngữ nằm trong phạm trù văn hoá. Tác giả khẳng định: ngôn ngữ không

chỉ là tiền đề tạo ra đối tượng văn hoá, và hơn thế - từ trong chiều sâu - trước
hết, nó là tiền đề tạo ra “con người”, đồng thời từ đó con người tạo tiếp những
tiền đề chủ quan và khách quan để làm hình thành cho mình đối tượng văn
hoá. Về đặc trưng của văn hoá và ngôn ngữ ông cho rằng cả văn hoá và ngôn
ngữ đều là thiết chế xã hội với giá trị đặc thù là: giá trị nhận thức có được về
chúng bao giờ cũng bị quy định bởi tính ước lệ vốn được tạo ra bởi một cộng
đồng xã hội xác định gắn với một trạng thái không gian và thời gian xác định.
Theo đó những lớp từ vựng được liên tục sản sinh trong những bối cảnh xã
hội và không gian văn hoá mới. Nhưng chắc chắn rằng, nền tảng văn hoá
truyền thống vẫn được bảo lưu. Ví dụ như lớp từ ẩm thực trong tiếng Việt, dù
trải qua nhiều thời kỳ khác nhau với nhiều biến động về mặt lịch sử nhưng
bánh đúc, bánh xèo, bánh ít, canh tập tàng, cá kho tộ… vẫn là những món mà
bất kể ai là người Việt Nam đều biết và đều mê. Những món ăn này cũng góp
phần làm nên đặc trưng của văn hoá Việt Nam. Do vậy nghiên cứu từ ngữ ẩm
thực tiếng Việt ta cũng hiểu thêm được văn hoá Việt Nam. Từ ngữ ẩm thực
góp phần làm đa dạng vốn từ văn hoá trong tiếng Việt. Với mối quan hệ qua
lại mật thiệt với nhau, trong ngôn ngữ có văn hoá và ngược lại, chúng ta có
thể tìm hiểu những đặc trưng văn hoá, hay những nét văn hoá của người Việt
trong lớp từ ẩm thực.
Điểm đáng chú ý là khi xem xét ngôn ngữ - văn hóa trong mối quan hệ
không thể tách rời với xã hội mà hạt nhân là con người, vì con người là chủ


21
nhân của văn hóa, ngôn ngữ, xã hội. Với quan điểm như vậy, tác giả Nguyễn
Văn Độ (2004) đã vẽ sơ đồ khái quát chỉ về mối quan hệ đa chiều giữa ngôn
ngữ, văn hóa, xã hội và con người như sau:
Ngôn ngữ




Văn hóa Xã hội
Theo sơ đồ trên ta thấy rõ vị trí của con người là trung tâm trong mối
quan hệ ba chiều không tách rời nhau là ngôn ngữ- văn hóa - xã hội. Sơ đồ
cũng khẳng định các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau
không tách rời.
1.2.3. Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Việt Nam được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh và góc độ khác
nhau, đã có rất nhiều nhà văn hóa học nghiên cứu và đưa ra nhiều nhận định
thú vị về văn hóa Việt Nam, song trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ
muốn đưa ra một số ý kiến về sự tiếp xúc và ảnh hưởng của Trung Quốc và
phương Tây đến văn hóa Việt.
Văn hóa của người Việt là văn hóa gắn liền với nền nông nghiệp lúa
nước. Cuộc sống của người Việt gắn với nghề lúa nước, các kỹ thuật cày, bừa,
gặt, hái, chăm bón, tưới tiêu. Hệ quả của môi trường tự nhiên và nghề lúa
nước đã tạo nên cơ cấu bữa ăn của người Việt, cơm là chủ đạo, sau đó đến rau
và cá. Bữa ăn của người Việt mang tính cộng đồng cao với chiếc mâm để
chung các món ăn và các thành viên trong gia đình ngồi quây quần cùng ăn.
Bữa ăn của người Việt tương đối đơn giản, chủ yếu nguồn thực phẩm tự cung
Con người

22
ứng, mùa nào thức ấy, rau trồng trong vườn, gà, cá, lợn đều nuôi. Ngày nay
đời sống thay đổi, việc tiếp xúc với nhiều nước trên thế giới cũng làm thay
đổi bữa ăn của người Việt nhiều hơn, có nhiều món ăn được du nhập và được
biến đổi theo khẩu vị của người Việt.
Theo tác giả Trần Quốc Vượng (2000), văn hóa Việt Nam hình thành
trên nền văn hóa Đông Nam Á, văn hóa Việt Nam mang đậm dấu ấn sông
nước trong toàn bộ cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của các cộng đồng

dân tộc sống trong một không gian đa dạng, vừa mang tính lục địa vừa mang
tính hải đảo. Chính yếu tố sông nước đã tạo nên nét độc đáo của nền nông
nghiệp lúa nước. Trải qua nhiều thế kỷ, văn hóa Việt Nam đã tồn tại và phát
triển trong sự giao lưu mật thiết với văn hóa khu vực, mạnh mẽ nhất là đối với
nền văn hóa Trung Hoa. Đặc trưng và rõ nét nhất là việc dùng chữ Hán làm
văn tự chính thống và hàng loạt các phong tục, tập tục, thói quen, trong suy
nghĩ và hành động. Hàng loạt các tác phẩm văn chương nổi tiếng cũng ra đời
trong thời kỳ này và được viết bằng chữ Hán, hàng loạt văn bản nhà nước
cũng được viết bằng chữ Hán, và tạo ra hẳn một lớp nhà nho nặng về "Khổng
giáo". Ngày nay, xã hội có nhiều thay đổi, tiếp xúc nhưng dấu ấn của Trung
Quốc vẫn còn hiện hữu trong đời sống của người dân Việt. Nhiều món ăn
Trung Quốc du nhập vào Việt Nam và trở thành nổi tiếng như: mì vằn thắn,
sủi cảo, chí mà phù, lục tào xá, thịt kho tàu, hủ tiếu…
Lớp văn hóa phương Tây thâm nhập từ khi đạo thiên chúa giáo được
truyền bá vào Việt Nam từ thế kỷ 16. Dấu hiệu rõ nhất là sự ra đời chữ quốc
ngữ và những ảnh hưởng nhất định về văn hóa, được biểu hiện rõ trong luồng
tư tưởng của các nhà văn-nghệ sỹ như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan
Viên…Sự thay đổi này đã tạo nên công cuộc về chữ quốc ngữ, các nhà báo,
nhà văn, nhà thơ sáng tác bằng chữ quốc ngữ, nên có ảnh hưởng rất lớn đến
sự tồn tại của chữ quốc ngữ. Sự tiếp xúc với phương Tây nhiều hơn, tuy


23
không như cách tiếp xúc với Pháp đầu thế kỷ 20 tạo ra hẳn một xu thế của
thời đại, một cuộc cách mạng đổi mới hay cách tân nào nhưng cũng có tác
động khá mạnh đến đời sống tinh thần, giá trị của con người trong xã hội. Con
người cởi mở hơn, dễ được tiếp nhận tri thức khoa học, giáo dục, công nghệ,
văn hóa của phương Tây. Cùng với sự du nhập các luồng văn hóa là ẩm thực.
Các món ăn phương Tây du nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều và cũng
nhanh chóng có một vị thế nhất định trong xã hội, ví như KFC (Kentucky

Fried Chicken - món gà quay nổi tiếng của Mỹ), sandwich (bánh mì kẹp thịt,
rau sống của Mỹ), khoai tây chiên ( fried French - món ăn của Pháp),
spaghetti (món mỳ Ý nổi tiếng) ….Tất cả đều góp phần tạo nên sự phong phú
cho nền ẩm thực Việt Nam và cũng góp phần cải thiện cuộc sống con người
khi có quá ít thời gian.
Có thể nói, văn hóa Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của hai luồng văn
hóa Trung Quốc và phương Tây mà cụ thể là Pháp và Mỹ. Trong quá trình
tiếp xúc, cũng có những ảnh hưởng tích cực và cũng không ít mặt trái. Chúng
ta không thể phủ nhận nền Hán học đã tạo nên rất nhiều người tài, và cũng
không thể phủ nhận nền văn hóa phương Tây góp phần tạo nên thế hệ Thơ
mới với luồng gió mới và hơn hết chữ quốc ngữ được đưa vào sử dụng làm
ngôn ngữ chính thống của nước Việt Nam.
Tiếng Việt là một phần không thể thiếu của văn hóa Việt. Tiếng Việt là
công cụ hữu ích lưu giữ và chuyển tải văn hóa Việt.
Tác giả Lê Quang Thiêm (2003) cho rằng, từ tiếng Hán có thời gian dài
được dùng trong văn bản của nhà nước, trong giáo dục, thi cử, còn tiếng Việt
chỉ được dùng trong sinh hoạt giao tiếp nhân dân. Dù chữ Nôm được người
Việt sáng tạo vào khoảng thế ký 12 cũng trải qua nhiều thăng trầm và gián
đoạn, chữ Nôm được cho là Nôm na mách qué. Có thời kỳ của Nguyễn Huệ -

24
Quang Trung, chữ Nôm được khuyến khích nhưng thực sự cũng không có vị
thế trong xã hội và không có sức ảnh hưởng như chữ Hán.
Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ do các cố đạo phương
Tây tạo ra từ cuối thế kỷ 16, sau gần 3 thế kỷ lại bắt đầu dùng nhiều hơn.
Cùng với chữ quốc ngữ là sự áp đặt của tiếng Pháp, chữ Pháp. Tiếng Pháp
được dùng trong các văn bản nhà nước thống trị ở Nam kỳ, một phần trong
các xứ bảo hộ Trung kỳ và bán bảo hộ Bắc kỳ. Tiếng Pháp được dùng trong
các trường học Pháp- Việt, tiếng Pháp cũng được dùng trong các văn bản văn
học, lịch sử để dạy cho người Việt hoặc bản dịch từ tiếng Việt qua Pháp, giúp

cho người Pháp dễ tiếp nhận. Đến thời kỳ này, tiếng Việt, chữ Nôm lại bị
thêm một sự chèn ép mới. Trải qua nhiều biến đổi của lịch sử, các đơn vị từ
vựng, xét về nguồn gốc có 3 loại là từ ngữ gốc Hán, từ ngữ thuần Việt và từ
có gốc từ các ngôn ngữ châu Âu mà cụ thể là tiếng Pháp ở giai đoạn đầu thế
kỷ 20. Nên việc tạo ra một lớp từ mượn tiếng Pháp cũng góp phần làm phong
phú thêm vốn từ tiếng Việt, nhất là về khoa học, kỹ thuật, y học các ngành
khoa học khác.
1.3. Ẩm thực Việt Nam trong văn hoá Việt
1.3.1. Văn hóa ẩm thực

Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người,
nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý của cuộc sống. Từ xa xưa trong dân
gian nước ta đã tổng kết thành câu tục ngữ: “Học ăn, học nói, học gói, học
mở” chủ yếu để nhắc nhở con người về vấn đề lời ăn tiếng nói và việc đầu
tiên là “học ăn”. Ở các nước khác trên thế giới, ngoài quan niệm dân gian, các
nhà chuyên môn, những người yêu thích, hiểu ẩm thực… đều bàn luận, viết
những tài liệu, những cuốn sách hay về nghệ thuật ăn uống. Một trong những
cuốn sách hay là cuốn “Phân tích khẩu vị” của luật sư người Pháp Jean

×