Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VÀ KHÔNG QUÂN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.51 KB, 18 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
TIỂU LUẬN QUÂN SỰ
I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VÀ KHÔNG QUÂN
THẾ GIỚI
Máy bay là loại phương tiện bay nặng hơn không khí, có động cơ và có khả năng
bay trong khí quyển nhờ các lực nâng khí động học.
Có loại máy bay cánh nâng cố định, có loại máy bay cánh nâng quay hay máy bay
trên đệm khí hở, máy bay xuồng.
Sự phát triển của máy bay là đỉnh cao của trí tuệ con người. Chế tạo máy bay và vận
chuyển hàng không đang nằm trong những ngành khoa học về công nghệ chính.
Năm 1783, khí cầu bơm bằng khí nóng đầu tiên ra đời. Mặc dù không phải là máy
bay song nó cũng cho phép con người lần đầu tiên bay lên không trung. Đột phá căn
bản trong thiết kế máy bay diều ra đời vào năm 1799, với mẫu của Cayley. Từ đó, lực
nâng và lực đẩy được tách biệt hoàn toàn. Lực đẩy do một cơ cấu động lực riêng. Năm
1804 xuất hiện máy bay cánh cố định, thực chất đó là một tàu lượn không người lái
phóng bằng tay được làm bằng gỗ và giấy. Tàu lượn này dài một mét, có một cánh nâng
cố định, thân và đuôi, với các cánh đuôi thẳng đứng và nằm ngang như những máy bay
ngày nay.
Tuy nhiên, phải mãi đến năm 1891 mới ra đời tàu lượn có người lái đầu tiên trong
lịch sử. Do Gohlitwtal người Đức thiết kế và bay thử đã thành công. Rồi sau một loạt
thử nghiệm với hầm gió, năm 1902 hai anh em Wright người Mỹ đã chế tạo và cho bay
thử thành công một tàu lượn. Ngày 17/12/1903, họ đã thực hiện được chuyến bay đầu
tiên bằng phương tiện bay nặng hơn không khí có động lực và có người điều khiển. Đặc
biệt họ đã sáng tạo ra hệ thống điều khiển với các dây cáp, cần lái bàn đạp thay cho
cách điều khiển bằng thay đổi tư thế và trọng tâm người lái như với làu lượn trước đây.
Đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất , máy bay đã được thiết kế hợp lý một cách
đáng kể, bằng cách giảm lực cản khí động và tăng công suất động cơ để có độ cao và
vận tốc lớn hơn. Cuộc chạy đua chế tạo các máy bay có vận tốc lớn bắt đầu từ năm
1927, như chuyến bay xuyên Đại Tây Dương một mình của Lindberg.
Từ 1913 đến 1931, vận tốc cực đại của máy bay đã tăng gấp hơn 5 lần, từ 74km/h
với máy bay cánh đơn (máy bay Deperdussin của Pháp) lên tới 386 Km/h (máy bay


Supermarine 5.6B) . Cũng từ thời kỳ này máy bay cánh cố định đã có dáng dấp như
ngày nay. Thân được bọc kín, kết cấu chắc chắn, hình thuôn, ít chịu lực cản, cấu tạo
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cánh đơn dài. Thời kỳ này, máy bay ngoài nhiệm vụ chở quân đội, vũ khí, khí tài còn
chở bom và được trang bị thêm súng máy. Đồng thời hàng loạt kiểu máy bay chiến đấu
chuyên dụng ra đời. Có loại máy bay ném bom đường dài, máy bay ném bom bổ nhào,
máy bay cường kích- chi viện trực tiếp cho lực lượng mặt đất, và máy bay tiêm kích-
chuyên để chống máy bay.
Những trận không chiến đầu tiên đã diễn ra trên bầu trời Tây Ban Nha thời nội chiến
1936-1939. Đến chiến tranh thế giới thứ hai, đã xuất hiện các tập đoàn không quân tập
trung cho các trận đánh lớn. Tiếp đó là giai đoạn máy bay phản lực, bắt đầu từ 8-1939,
mở đầu là cuộc bay thử của máy bay phản lực He-178 do Đức chế tạo. Do tác dụng của
động cơ phản lực cộng với những cải tiến hợp lý khác (cánh cụp) khiến máy bay ngày
càng bay nhanh và có tốc độ tiếp cận vận tốc truyền âm. Tới tháng 10 năm 1947 máy
bay thử nghiệm Bell X-l có người lái bay nhanh hơn tiếng động. Từ những năm 1950,
các máy bay chiến đấu phản lực quân sự đã bay nhanh gấp 2÷3 lần tốc độ truyền âm
(2÷3M). Cuộc chiến tranh Triều Tiên là nơi Mỹ đã sử dụng máy bay chiến đấu phản lực
đầu tiên. Máy bay phản lực siêu âm ngày càng được nhiều nước trên thế giới sử dụng
với quy mô lớn. Trong đó có loại vận tốc cao nhất (>3M) là máy bay trinh sát chiến l-
ược SR-71 của Mỹ. Trong chiến tranh ở Việt Nam lần đầu tiên máy bay tác chiến điện
tử chuyên dụng kiểu EB-66 đã được Mỹ sử dụng.
Thời gian từ sau đại chiến thứ II đến nay được gọi là kỷ nguyên vàng của ngành
hàng không với sự phát triển tới đỉnh cao của nó. Tuy các chuyến bay vũ trụ đã thay thế
vị trí chiếm lĩnh không gian độc tôn của nó, song thực tiễn lịch sử đã khẳng định vai trò
của máy bay trong đời sống hàng ngày cũng như trong quân sự. Thời gian gần đây các
nhà thiết kế máy bay đã thử nghiệm các dáng vật liệu và hệ thống động lực mới, tạo ra
những máy bay cánh quay (máy bay tạo lực nâng bằng cánh quay-máy bay trực thăng)
và những phương tiện có thể bay như máy bay đồng thời cho phép cất hạ cánh thẳng
đứng, hoặc cho phép chuyển hướng luồng phụt của động cơ (như máy bay Harrier của

Anh).
Những phát triển vượt bậc của máy bay, cũng như ngành hàng không thế giới ta có
thể thấy không quân đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong quân đội của tất cả các
nước trên toàn thế giới
Có thể nói: “Trong lịch sử các cuộc chiến tranh, không quân đóng vai trò hầu
như quan trọng nhất, nó quyết định đến sự thành bại của mỗi cuộc chiến.”
Điều đó có thể được thấy cụ thể qua những cuộc chiến
1. Trong chiến tranh thế giới lần thứ II.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, không quân Liên Xô đã tiêu diệt khoảng 95%
tổng số máy bay chiến đấu của Đức. Kết quả đó đã tạo điều kiện cho Không quân Liên
Xô giành ưu thế chiến lược trên không từ 1943 và giữ được ưu thế đó cho đến khi kết
thúc chiến tranh. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu chiến tranh, Không quân Liên Xô bị tổn
thất nặng vì:
- Chỉ trong một thời gian 18 ngày (22 - 6 ÷ 10 -7 - 1941), Không quân Đức đã giành
được ưu thế chiến lược trên không, tạo thuận lợi cho quân Đức nhanh chóng tiến công
vào sâu lãnh thổ Liên Xô. Tương quan lực lượng chung của Không quân hai bên là 2/1
nghiêng về phía Không quân Đức (Liên xô có 1970 máy bay, Đức có 4000 máy bay).
- Không quân Đức đã hoàn thiện chiến lược tiến công, trong khi Không quân Liên
Xô vẫn hành động bảo thủ theo chiến lược phòng ngự. Đức áp dụng nguyên tắc chỉ huy
tập trung, Liên Xô theo nguyên tắc phi tập trung.
- Không quân Liên Xô có rất ít máy bay mới, đội ngũ phi công chưa được huấn
luyện tốt.
- Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô bố trí những máy bay mới tập trung tại các sân bay
gần biên giới Đức, nên bị Không quân Đức đánh thiệt hại nặng.
2. Trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 (Chiến dịch Bão táp sa mạc)
Trong chiến dịch này Mỹ và đồng minh đã đặt hy vọng chủ yếu vào các đòn tiến
công bằng không quân. Mỹ và liên quân đã tập trung một lực lượng lớn, bao gồm 2600
máy bay chiến đấu và trực thăng hiện đại, trong đó có 1800 máy bay của Mỹ. Chiến

dịch kéo dài 6 tuần (từ 1-1991 đến 2-1991) thì 5 tuần đầu Mỹ và liên quân dùng không
quân để không kích Irắc.
Trong chiến dịch không kích, lưu lượng trên không của chiến trường rất dày đặc, với
đủ loại máy bay và trực thăng của nhiều quân chủng và nhiều nước tham gia, nhưng
nhờ có hệ thống quản lý vùng trời làm việc rất hiệu quả nên không xảy ra một vụ tai
nạn máy bay nào. Không quân đã thực hiện tốt nhiệm vụ của họ.
Không quân đã phá huỷ làm tê liệt hệ thống chỉ huy quân đội của Irắc, chế áp và tiêu
diệt hệ thống phòng không, chế áp và phá huỷ các sân bay, phá sập các cầu cống, đường
giao thông các trạm rađa, các trận địa pháo và gây khó khăn cho lực lượng Irắc vận
động trên chiến trường.
Ngoài ra Mỹ đã phóng 290 quả tên lửa hành trình Tomahawk từ tàu ngầm và tầu
chiến hạm vào các mục tiêu quân sự và dân sự của Irắc, với xác suất trúng đích lên đến
90%.
Cơ quan tổng kiểm toán (GAO) của Mỹ, năm 1997 đã tổng kết, đánh giá hiệu quả
của chiến dịch "bão táp sa mạc" 1991 của không quân Mỹ và liên quân như sau:
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- 43% trong tổng số 2665 xe tăng thuộc 12 sư đoàn của Irắc bị tiêu diệt, trước khi
cuộc tiến công trên bộ bắt đầu, cùng với 32% trong tổng số 2624 xe thiết giáp chở quân.
- Trong tổng số 724 máy bay cánh cố định của Irắc, chỉ có 290 chiếc bị tiêu diệt, 121
chiếc chạy thoát sang Iran và 313 chiếc sống sót.
- Hệ thống phòng không của Irắc đã bắn rơi được 11 máy bay của Mỹ và liên quân
trong 3 ngày cuối của cuộc chiến tranh.
Trong chiến tranh vùng Vịnh, sau 38 ngày không kích, Mỹ và liên quân đã đưa
70.000 lục quân (4.100 xe tăng, thiết giáp) và 7.500 hải quân đánh bộ vào tham chiến.
Không quân đã chi viện cho lực lượng lục quân và hải quân đánh bộ mở các cuộc tấn
công trên bộ. Chiến tranh trên bộ đã giành được thắng lợi trong 4 ngày là nhờ trước đó
không quân đã tiến hành oanh kích 5 tuần liền.
Cũng có một vài nhân tố khác góp phần vào sự sụp đổ của quân đội Irắc, bao gồm
cả khả năng chỉ huy và tinh thần chiến đấu kém. Các phi công Irắc thể hiện kỹ năng

chiến đấu rất thấp. Trong các cuộc không chiến, đôi khi họ không thực hiện nổi động
tác cơ động tránh né đơn giản nhất. Họ lái những chiếc máy bay hiện đại, nhưng không
khai thác được những tính năng ưu việt của chúng, và đó là nhược điểm, bất lợi trong
chiến đấu.
Các cuộc tấn công của không quân đã làm cho Irắc không thể thực hiện phòng ngự
hiệu quả. Các đợt oanh kích dồn dập vào các đơn vị, mục tiêu của Irắc đã tạo một đòn
tâm lý choáng váng, trong khi tổn thất của không quân Mỹ là không đáng kể.
3. Trong cuộc chiến tranh Balkan của Mỹ và NATO không kích Nam Tư 1999
Chiến dịch có tên “Sức mạnh đồng minh” này kéo dài 78 ngày đêm, bắt đầu từ 24-3-
1999. Đây là bước phát triển mới so với cuộc chiến tranh ở Irắc năm 1991. Trong chiến
dịch này Mỹ và NATO đã sử dụng một số lượng lớn chưa từng có về vũ khí và phương
tiện kỹ thuật quân sự, trong đó nổi bật là vai trò của không quân. Trong chiến tranh
Nam Tư, Mỹ - NATO đã tận dụng trinh sát từ vệ tinh (50 vệ tinh), các loại máy bay
trinh sát U-2, RC-135, E-SA, máy bay chỉ huy - kiểm soát báo động sớm trên không
AWACS, máy bay tác chiến điện tử EC-130, thiết bị quan sát chụp ảnh của các máy bay
chiến đấu và phương tiện bay không người lái, các Sensor mang trên tên lửa, bom,
đạn... Tất cả liên kết thành một hệ thống, đảm bảo cho chiến trường trở nên “trong
suốt” cả đêm lẫn ngày.
Trong cuộc chiến tranh này, quan điểm cốt lõi của Mỹ - NATO là sử dụng không
quân mang vũ khí chính xác cao tiến công các mục tiêu quan trọng nhất và sử dụng vũ
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khí thông thường để tiến công các mục tiêu khác. Khi sử dụng vũ khí chính xác cao, yêu
cầu về số lượng máy bay chiến đấu giảm từ 2 đến 5 lần.
Trong chiến tranh Việt Nam, từ 1965 ÷ 1968 không quân Mỹ bị tổn thất gần 100
máy bay, nhưng không phá được cầu Hàm Rồng (Thanh Hoá), nhưng ngày 13-5-1972,
với một tốp máy bay ném bom điều khiển bằng laze (từ độ cao 4200m, cách mục tiêu
3000 ÷ 4000m.) đã phá hỏng cầu, mà không có máy bay nào bị bắn rơi.
Điều đáng chú ý là, nếu như trong chiến tranh vùng vịnh (1991) Mỹ và liên quân
mới sử dụng gần 8% vũ khí điều khiển chính xác thì trong chiến dịch "Con cáo sa mạc”

(12-1998) con số đó là 50% và trong chiến tranh Nam Tư, Mỹ - NATO đã sử dụng vũ
khí điều khiển chính xác là 98%.
Để không kích Nam Tư, Mỹ - NATO đã sử dụng với số lượng lớn máy bay tiêm
kích tàng hình F117A, máy bay ném bom chiến lược tàng hình B2, máy bay ném bom
chiến lược đa năng tầm xa dạng cánh thay đổi B1B, máy bay ném bom chiến lược B52,
các loại máy bay tiêm kích đa năng: F14, F15, F16, F/A18, máy tiêm cường kích
MIRAGE F-1, máy bay tiêm kích đánh chặn đa năng MIRAGE 2000, mấy bay tiêm cư-
ờng kích TORNADO... và máy bay tiếp dầu đa năng KC135, máy bay trực thăng vũ
trang AH64 APACHE, máy bay trực thăng vận tải hạng trung CH47.
Ngoài máy bay Mỹ-NATO còn sử dụng một số lượng lớn tên lửa hành trình
Tomahawk cải tiến, các loại bom, đạn "tinh khôn".
Các loại máy bay B2, F117A... có tầm hoạt động toàn cầu (nếu được tiếp dầu trên
không). Máy bay F117A được lắp hệ thống quản lý bay 4 chiều, bản đồ số di động, bộ
cảm biến chỉ thị và bắt mục tiêu hồng ngoại, hệ thống đạo hàng quán tính INS, hệ thống
đạo hàng theo vệ tinh toàn cầu GPS. Máy bay F117A có diện tích phản xạ hiệu dụng
0,0025m
2
. Máy bay B2 được lắp hệ thống định vị toàn cầu, có chế độ tự động bay bám
len lỏi theo địa hình, hệ thống dẫn đường quán tính kết hợp dẫn bằng vệ tinh GPS.
Trong các chiến dịch đánh đêm vào Nam Tư, ngay từ ngày đầu 24-3- 1999, 2 máy bay
B2 đã ném bom từ độ cao lớn với sự hỗ trợ của hệ thống định vị toàn cầu GPS. Máy
bay B2 cắt cánh từ căn cứ không quân (sân bay Mitxuri) trên đất Mỹ, vượt Đại Tây D-
ương trong 30h. Máy bay B2 mang được 16 tấn bom có điều khiển dùng để công kích
chính xác các trạm rađa phòng không cố định. Độ chính xác của bom từ 3÷13m, bom có
trọng lượng 907 kg. Bom JDAM được điều khiển nhờ hệ thống định vị toàn cầu GPS
trong mọi điều kiện thời tiết, ngày, đêm… Máy bay B2 là loại máy bay siêu tàng hình,
có diện tích phản xạ hiệu dụng 0,001 m2… Tên lửa Tomahawk có tầm bắn 900 ÷
2500km, tên lửa có hệ thống tự dẫn đường bằng kỹ thuật ảnh hồng ngoại hoặc rađa
laze, có thể nhận biết, lựa chọn mục tiêu điểm, hoặc dùng hệ dẫn quán tính, bay bám
5

Website: Email : Tel : 0918.775.368
theo địa hình, hệ thống điều chỉnh và tương hợp địa hình số hoá kết hợp với hệ định vị
toàn cầu GPS, sai số trong vòng 9m.
Về cách đánh của Mỹ và NATO trong cuộc chiến theo kiểu leo thang đã được tính
toán rất kỹ. Lúc đầu Mỹ và NATO chỉ huy động khoảng 400 máy bay các loại, nhưng
sau hơn một tháng (đầu tháng 5-1999) đã huy động tới 1000 chiếc máy bay các loại
(riêng Mỹ có 650 chiếc), số lượng tên lửa hành trình cũng tăng thêm, các tàu chiến, tàu
bảo đảm cũng được điều động ngày càng tăng tới vùng biển Adrialic. Về mục tiêu đánh
phá, lúc đầu chỉ tập trung vào các mục tiêu quân sự (các trận địa phòng không, doanh
trại quân đội, các sở chỉ huy, sân bay quân sự nhà máy quốc phòng...) sau chúng chuyển
sang đánh các mục tiêu đần sự, kinh tế, đầu mối giao thông, cầu cống, các bệnh viện,
trường học… Bom đạn của Mỹ và NATO đã giết hại, làm bị thương hàng nghìn dân
thường trong đó có nhiều cụ già, phụ nữ và trẻ em. Đúng vào ngày quốc tế lao động l-5,
tên lửa của Mỹ và NATO đã bắn trúng một xe buýt chở khách đang đi trên một chiếc
cầu cách thủ phủ Prextina của Côxôvô 21km, làm ít nhất 60 người chết, chủ yếu là dân
thường và người nước ngoài. Từ đánh xa thủ đô tiến tới đánh gần thủ đô, sau đó đánh
thẳng vào thủ đô, tập trung chủ yếu vào các cơ quan lãnh đạo đầu não và phương tiện
thông tin truyền thông của Nam Tư, sau đó đánh tất cả các mục tiêu trên toàn lãnh thổ
Nam Tư.
Qua cuộc chiến tranh, theo thống kê chưa đầy đủ, Nam Tư đã bắn rơi 32 máy bay
các loại của Mỹ và NATO. Đã có 88 binh sĩ NATO bị mất tích, khoảng một nửa trong
số đó là lính Mỹ, 11 lính Đức, 8 lính Pháp, 7 lính Anh và 18 binh sĩ của các nước thành
viên NATO khác.
Tổng kết lại, trong cuộc chiến Nam Tư, bằng tiến công đường không, Mỹ - NATO
sau hơn một tháng đã phá huỷ hơn 200 mục tiêu, làm Nam Tư thiệt hại hơn 200 tỷ USD
mà chỉ tiêu tốn khoảng 3 tỷ USD.
Các phương tiện mang bom, đạn, tên lửa... xuất phát từ xa hàng nghìn, vạn km,
phóng (thả) từ cự ly an toàn. Trinh sát mục tiêu, tổ chức chỉ huy hiệp đồng, điều khiển
hoả lực, tác chiến điện tử, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật… đều được thực hiện từ xa,
không trực tiếp tiếp xúc trên chiến trường. Điều này cho phép giảm thiểu phí tổn, tăng

tính kịp thời, tránh tổn thất, giảm cảm giác sợ hãi cho quân nhà, tránh vấn đề nhạy cảm
về nhân đạo trong phản đối chiến tranh, thay thế sự hiện diện của bộ binh, xe tăng...
trực tiếp trên chiến trường, giảm thiểu khả năng sa lầy, gây khó khăn, phức tạp trong
phòng chống, giảm khả năng đánh trả của đối phương.
Với vũ khí điều khiến chính xác từ xa, tất cả các mục tiêu ở bất kỳ khu vực nào của
đất nước đều có thể bị tiến công, chiến tuyến các cấp (chiến thuật, chiến dịch, chiến
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lược) không được phân định. Muốn chống trả sự xâm lược bằng vũ khí đường không
cần có hệ thống phòng không toàn quốc, phát hiện mục tiêu trên không cách xa mục
tiêu cần bảo vệ hàng trăm, hàng nghìn km mới đủ thời gian chuẩn bị đánh trả.
Các đòn tiến công được thực hiện từ xa, trên các hướng, độ cao hoàn toàn khác
nhau, chúng được tập trung lại theo yêu cầu tác chiến, thay vì sử dụng ồ ạt, mật độ lớn
của đội hình phương tiện tiến công hoặc sô lượng lớn bom đạn, tên lửa vào một mục
tiêu, thường chỉ sử dụng tốp nhỏ, chiếc lẻ tiến công chính xác để diệt các mục tiêu
điểm.
Trong cuộc chiến tranh Nam Tư, bằng sức mạnh của không quân, Mỹ - NATO đã
tàn phá các cơ sở kinh tế, huỷ hoại tiềm lực quân sự, làm mất khả năng và cả ý chí
chiến đấu của Nam Tư.
Qua cuộc chiến tranh Nam Tư, ta thấy nổi lên những đặc điểm tác chiến mới của
nước có tiềm lực quân sự mạnh đối với nước yếu hơn đó là:
Không kích và không kích theo kiểu ''phẫu thuật ngoại khoa'' bằng vũ khí công nghệ
cao có độ chính xác cao đã trở thành một phương thức chiến tranh hiện đại. Đánh chính
xác từ xa, không chiến tuyến, không trực tiếp tiếp xúc, không cân xứng đã trở thành
dạng thức cơ bản của nước có lực lượng quân sự hùng mạng răn đe vũ lực đối với một
nước có lực lượng quân sự yếu kém hơn.
II. KHÔNG QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM
Trong kháng chiến chống Mỹ, không quân làm nhiệm vụ tác chiến phòng không, bảo
vệ miền Bắc XHCN và chi viện cho miền Nam. Trong thời kỳ hiện nay, yêu cầu xây
dựng lực lượng không quân đòi hỏi lớn hơn trước rất nhiều vì đây là lực lượng tiến

công, yểm trợ, bảo vệ, chi viện cho các chiến trường, các binh đoàn trên bộ, trên biển.
Nhiệm vụ này đòi hỏi phải xây dựng và phát huy truyền thống quí báu của các thế hệ đi
trước đã xây dựng lên.
1. Sự hình thành và phát triển của không quân Việt Nam :
Lực lượng không quân của ta mới chỉ được bắt đầu xây dựng từ tháng 10- 1954 khi
ta tiếp quản các sân bay của Pháp ở miền Bắc.
Ngày 3-3-1955, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng quốc phòng nước
VNDCCH ký quyết định số 15/QĐA thành lập “Ban nghiên cứu sân bay" mang phiên
hiệu C-47 do Đồng chí Trần Quý Hai làm trưởng ban, đến cuối 1958 đổi thành cục
không quân.
Ngày 1-5-1959 đội bay vận tải đầu tiên được thành lập và sau này trở thành trung
đoàn 919 - trung đoàn không quân đầu tiên của quân đội ta. Cùng với việc thành lập
7

×