Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời mở đầu
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hệ thống tổ chức tín dụng luôn đóng vai trò to lớn đối với nền kinh tế, đặc
biệt là trong hoàn cảnh hiện nay khi Việt Nam đang xây dựng công nghiệp hóa -
hiện đại hóa và tham gia ngày càng sâu vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xu
thế khu vực hóa, toàn cầu hóa với nhiều cạnh tranh gay gắt đang đặt ra cho các tổ
chức tín dụng những cơ hội và không ít thách thức đòi hỏi phải đổi mới đa dạng
hóa và hoàn thiện các loại hình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Là một trong
những hoạt động tín dụng truyền thống, nghiệp vụ bảo lãnh bắt đầu đợc sử dụng
rộng rãi trên thế giới từ cuối những năm 70 của thế kỷ trớc đóng vai trò quan trọng
trong giao dịch kinh tế toàn cầu nhất là trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu
và thơng mại quốc tế. ở nớc ta, bảo lãnh ngân hàng xuất hiện từ thập kỷ 80 và đợc
đề cập đến trong các văn bản pháp luật nhng còn mang tính chất nh là một công cụ
hỗ trợ do Ngân hàng Nhà nớc thực hiện nhằm giúp các doanh nghiệp quốc doanh
vay vốn nớc ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh. Trong vài năm gần đây, bảo
lãnh ngân hàng thật sự là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ thông dụng trong lĩnh vực
dịch vụ ngân hàng do hiệu quả bảo đảm cao cho quyền lợi của ngời thụ hởng.
Thời gian qua, hoạt động bảo lãnh của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam
đã đạt đợc nhiều kết quả đáng kể góp phần tích cực vào sự thành công của các
giao dịch kinh tế khẳng định chỗ đứng của nó trong nền kinh tế thị trờng. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt đợc, hoạt động này cũng đang gặp phải
không ít những khó khăn bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó phải
kể đến là sự điều chỉnh của pháp luật. Chính vì vậy, việc không ngừng nâng cao
pháp luật về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam là một trong những yêu
cầu cấp thiết hiện nay. Làm thế nào để hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân hàng
thật sự là đề tài rất đáng đợc quan tâm.
Với những lý do trên nên em đã mạnh dạn chọn đề tài Pháp luật về bảo
lãnh ngân hàng ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích của đề tài
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trên cơ sở phân tích quy định hiện hành để rút ra những giải pháp kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân hàng của Việt Nam phù hợp với
những yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tợng: Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng
Phạm vi: Nghiên cứu pháp luật bảo lãnh ngân hàng của Việt Nam và một số
kết quả thu đợc từ việc áp dụng pháp luật trên thực tiễn.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Đề tài đợc nghiên cứu dựa trên cơ sở áp dụng các phơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng kết hợp chủ nghĩa Mac-Lenin và t tởng Hồ Chí Minh. Cụ
thể là: Phơng pháp t duy có phân tích, so sánh và đối chiếu, phơng pháp tổng hợp
nhằm đa ra những kiến giải, đánh giá khách quan phù hợp với yêu cầu đề tài.
5. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn đã đa ra đợc một số vấn đề lý luận về bảo lãnh ngân hàng và
pháp luật bảo lãnh ngân hàng.
- Luận văn đã phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành
trên cơ sở đó đóng góp một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
bảo lãnh ngân hàng của Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 2 chơng:
Chơng I: Một số vấn đề lý luận về bảo lãnh ngân hàng và pháp luật về
bảo lãnh ngân hàng.
Chơng II: Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam - thực trạng và
giải pháp.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng i
Một số vấn đề lý luận về bảo lãnh ngân hàng
và pháp luật về bảo lãnh ngân hàng
1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng về nguyên tắc là một trong những hoạt động thể hiện rõ
nét bản chất của bảo lãnh trong dân sự nói chung. Vì vậy để hiểu về bảo lãnh ngân
hàng, trớc hết ta phải hiểu thế nào là bảo lãnh:
1.1. Khái niệm bảo lãnh
Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm truyền thống, sớm đợc sử dụng rộng rãi,
do đó nó đợc quy định trong nhiều văn bản luật khác nhau, điển hình nh:
Trong luật La Mã: bảo lãnh đợc hiểu là hợp đồng, theo đó bên thứ ba với
mục đích bảo đảm quyền lợi của bên có quyền đã cam kết thực hiện thay nghĩa vụ
của bên có nghĩa vụ khi bên này không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ của mình. Trách nhiệm của bên thứ ba là trách nhiệm bổ sung với trách
nhiệm của bên có nghĩa vụ và nó chỉ tồn tại khi nghĩa vụ nó đảm bảo tồn tại trên
thực tế.
Trong pháp luật Hoa Kỳ: bảo lãnh chính là sự thỏa thuận, theo đó ngời bảo
lãnh chấp thuận sẽ thực hiện nghĩa vụ nợ của bên nợ chỉ khi bên nợ không trả nợ,
là việc bên bảo lãnh bảo đảm hoặc hứa thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ
trong trờng hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện.
Khái niệm về bảo lãnh cũng đợc quy định rõ trong bộ luật dân sự 2005 của nớc ta:
Bảo lãnh là việc ngời thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây đợc gọi là bên đợc bảo lãnh) khi đến thời hạn mà bên bảo lãnh không
thực hiện hoặc không thực đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc
bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên đợc bảo lãnh không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình. (Điều 361)
Qua một số khái niệm trên ta có thể hiểu bảo lãnh là một hợp đồng hình
thành dựa trên sự thỏa thuận về ý chí giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh chứ
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không phải là hành vi cam kết đơn phơng của bên bảo lãnh . Về nguyên tắc, trong
quan hệ bảo lãnh luôn có sự tham gia của ba loại chủ thể là bên đợc bảo lãnh, bên
bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh nhng việc tham gia ký kết của bên đợc bảo lãnh
không phải là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ hợp đồng bảo lãnh, mặc dù
cam kết của bên đợc bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ với bên bảo lãnh sau khi
họ thực hiện nghĩa vụ thay cho mình là cơ sở để ngời bảo lãnh đa ra cam kết bảo
lãnh. Theo đó đối tợng của hợp đồng bảo lãnh chính là nghĩa vụ của bên thứ ba -
đây là nghĩa vụ phụ đợc thiết lập trên cơ sở nghĩa vụ chính đã tồn tại giữa ngời đợc
bảo lãnh và ngời nhận bảo lãnh phát sinh trong quan hệ hợp đồng trớc đó.
Tính chất là nghĩa vụ phụ thể hiện qua một số khía cạnh: áp dụng biện pháp bảo
đảm cho nghĩa vụ chính khi cha có vi phạm nghĩa vụ xảy do đó bảo lãnh chỉ thể
hiện chức năng tác động, chức năng dự phòng. Điều này khẳng định tính độc lập
của hợp đồng bảo lãnh, việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh không phụ thuộc vào các
giao dịch gốc hay bất kì yếu tố nào khác ngoài bản thân giao dịch bảo lãnh.
1.2. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Sự xuất hiện của hoạt động bảo lãnh ngân hàng đã gây ra nhiều cuộc tranh
luận xoay theo hai quan điểm trong việc xác định bản chất pháp lý của hoạt động
này:
Quan điểm thứ nhất cho rằng bảo lãnh ngân hàng không phải là một nghiệp
vụ tín dụng của các tổ chức tín dụng . Vì theo quan điểm này một hành vi chỉ có
thể đợc coi là một nghiệp vụ tín dụng khi có sự cam kết chắc chắn ứng trớc một
khoản tiền thực tế cho khách hàng sử dụng trong một thời hạn nhất định với điều
kiện có hoàn trả. Đối với hợp đồng bảo lãnh sau khi ký kết với bên có quyền tổ
chức tín dụng với t cách là ngời bảo lãnh cha hề chắc chắn sẽ phải ứng trớc tiền để
trả nợ thay cho ngời đợc bảo lãnh, mà việc thực hiện nghĩa vụ này chỉ đợc tiến
hành khi ngời đợc bảo lãnh không tự hoàn thành nghĩa vụ với ngời thụ hởng.
Quan điểm thứ hai hoàn toàn ngợc lại khi khẳng định bảo lãnh ngân hàng
chính là một nghiệp vụ tín dụng vì trong hợp đồng bảo lãnh tổ chức tín dụng cam
kết chắc chắn sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trờng hợp ngời này không tự
thực hiện đợc nghĩa vụ của mình. Theo đó bảo lãnh ngân hàng là một hành vi tín
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dụng có điều kiện và chỉ khi nào xảy ra điều kiện đó thì việc ứng trớc tiền mới đợc
thực hiện.
Hiện nay pháp luật của nhiều nớc trên thế giới và pháp luật Việt Nam đều thừa
nhận quan điểm thứ hai, điều này đợc thể hiện rõ qua một số quy định cụ thể nh:
Theo công ớc Liên hợp quốc về Bảo lãnh độc lập và Tín dụng dự phòng
(Công ớc UNCITRAL) Bảo lãnh hay cam kết là lời hứa độc lập, đợc biết trong
thực tiễn quốc tế nh là một bảo lãnh độc lập hoặc tín dụng th dự phòng do ngân
hàng hoặc tổ chức hay cá nhân (ngời bảo lãnh /ngời phát hành) thanh toán cho.
Trong các quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu (URDG-ICC458)
của Phòng thơng mại quốc tế ICC quy định Bảo lãnh độc lập là bất cứ bảo lãnh,
cam kết hay cam kết thanh toán, dù đợc gọi hay miêu tả nh thế nào, của ngân
hàng, công ty bảo hiểm hay pháp nhân hoặc thể nhân bằng văn bản thanh toán một
số tiền khi đợc xuất trình theo đúng quy định của cam kết, bản đòi tiền và các
chứng từ khác
Luật thơng mại Hoa Kỳ quy định một cách gián tiếp về bảo lãnh ngân hàng
thông qua vai trò của ngời bảo lãnh: nghĩa vụ của ngời phát hành tín dụng th hoặc
bảo lãnh độc lập là sẽ thanh toán chứng từ xuất trình theo đúng tiêu chuẩn tiến
hành.
Theo bộ luật dân sự của Liên bang Nga: bảo lãnh ngân hàng đợc hiểu là
biên pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo đó ngân hàng, hoặc tổ chức tín dụng,
công ty bảo hiểm theo yêu cầu của bên có nghĩa vụ trả một khoản tiền nhất định
cho bên có quyền khi bên này yêu cầu.
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm về bảo lãnh ngân hàng đợc quy định
rõ tại khoản 1 điều 2 Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định
số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 6 năm 2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nớc nh sau:
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo
lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên đợc bảo lãnh )
khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết
với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng
số tiền đã đợc trả thay.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Qua khái niệm trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của hoạt động bảo
lãnh ngân hàng nh sau:
Thứ nhất: Trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng luôn có sự tham gia của ba
bên là bên đợc bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh trong đó chủ thể trực
tiếp thực hiện dịch vụ bảo lãnh ngân hàng một cách chuyên nghiệp là các tổ chức
tín dụng có đủ điều kiện theo luật định.
Thứ hai: Bảo lãnh ngân hàng là hoạt động mang tính bảo đảm gián tiếp
đồng thời mang tính tín dụng trực tiếp. Tính đảm bảo gián tiếp thể hiện ở việc sau
khi kí kết hợp đồng bảo lãnh, bên bảo lãnh không ngay lập tức dùng vốn của mình
để thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền mà trách nhiệm chính vẫn thuộc về ngời đ-
ợc bảo lãnh, chỉ khi nào ngời này không tự thực hiện đợc nghĩa vụ thì ngời bảo
lãnh mới phải thực hiện thay. Trong trờng hợp này, khách hàng phải nhận nợ và
hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã đợc trả thay - nh vậy quan hệ bảo lãnh đã
chuyển thành quan hệ tín dụng trực tiếp giữa tổ chức tín dụng với khách hàng.
Thứ ba: Bảo lãnh ngân hàng là loại hình bảo lãnh có thu phí, đây là một
trong những tiêu chí để phân biệt nó so với tính chất của bảo lãnh trong một số
lĩnh vực khác nh dân sự, hình sự Khi đứng ra bảo lãnh cho khách hàng thông
qua việc phát hành cam kết bảo lãnh, tổ chức tín dụng có quyền thu phí ngay sau
đó mà không phụ thuộc vào việc có phải thực hiện thay nghĩa vụ hay không.
Thứ t: Tính độc lập của bảo lãnh ngân hàng. Tơng tự nh các tín dụng th, bảo
lãnh ngân hàng cũng có một đặc tính quan trọng là tính độc lập với hợp đồng
chính. Hợp đồng bảo lãnh hình thành dựa trên sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng
và ngời thụ hởng, theo đó việc thanh toán một bảo lãnh chỉ căn cứ vào các điều
kiện đợc dự liệu trong cam kết bảo lãnh. Một khi đáp ứng các điều khoản đó, ngời
thụ hởng ngay lập tức có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đã cam
kết với mình một cách vô điều kiện.
Thứ năm: Tính chứng từ chặt chẽ. Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch đợc hình
thành và thực hiện dựa trên cơ sở chứng từ, điều này đợc thể hiện rõ qua các văn
bản th bảo lãnh, yêu cầu trả tiền va tuyên bố vi phạm. Đây chính là một trong
những đc điểm góp phần làm cho bảo lãnh ngân hàng thật sự là một biện pháp
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bảo đảm chắc chắn cho quyền lợi của các bên tham gia đặc biệt là quyền lợi của
ngời thụ hởng.
1.3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
Với những đặc tính nổi trội và sự u việt vốn có, công dụng của bảo lãnh
ngân hàng đợc thể hiện qua ba chức năng chính sau:
Chức năng đảm bảo, hạn chế rủi ro: có thể khẳng định đây là chức năng
quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng trong việc đảm bảo chắc chắn cho quyền
lợi của ngời thụ hởng sẽ luôn nhận đợc khoản bồi thờng do hành vi vi phạm của
ngời có nghĩa vụ gây ra. Tuy là mục đích chính của việc xác lập bảo lãnh, nhng
trên thực tế khả năng xảy ra nghĩa vụ bồi hoàn của bên bảo lãnh là rất nhỏ, đơn cử
nh theo thống kê của những nhà ngân hàng Mỹ thì chỉ có 1% trên tổng số các bảo
lãnh đợc phát hành ở Mỹ bị ngời thụ hởng yêu cầu thanh toán. Do đó bảo lãnh đợc
sử dụng nh một công cụ bảo đảm chứ không phải là một công cụ thanh toán.
Chức năng tài trợ: Trong một số trờng hợp đặc biệt đòi hỏi bên tiến hành
phải thực hiện công vic trong thời gian dài, với số vốn đầu t lớn điều này đồng
nghĩa với nguy cơ xảy ra rủi ro là rất lớn và khả năng thu hồi vốn chậm. Để đảm
bảo nhu cầu tài chính họ sẽ tìm đến các ngân hàng yêu cầu đứng ra bảo lãnh vay
vốn cho mình. Hay để tránh rủi ro do phía đối tác mang lại, họ tìm cách thơng l-
ợng với phía đối tác tạm ứng trớc một khoản tiền từ hợp đồng với điều kiện có bảo
lãnh từ phía ngân hàng của mình. Nh vậy dù không trực tiếp cho vay vốn nhng
việc chấp nhận bảo lãnh cho khách hàng chính là một phơng thức tài trợ gián tiếp
của ngân hàng cho khách hàng.
Chức năng đốc thúc hoàn thành hợp đồng: Trong thời hạn bảo lãnh, một
mặt khách hàng luôn phải chịu sự kiểm tra giám sát của bên bảo lãnh, mặt khác
luôn phải chịu áp lực của việc bồi hoàn bảo lãnh trong trờng hợp họ vi phạm và đã
đợc bên bảo lãnh đứng ra thực hiện thay nghĩa vụ. Do đó, bằng khả năng đòi tiền
phạt vi phạm hợp đồng, bên nhận bảo lãnh đã tạo ra sức ép trong việc đôn đốc bên
đợc bảo lãnh thực hiện theo đúng hợp đồng đã kí kết.
Nh vậy trong ba chức năng trên, ta thấy chức năng thứ nhất và chức năng
thứ ba có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau, điều ny thể hiện ở chỗ do ngời bảo
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lãnh luôn chịu sự đôn đốc thực hiện đúng hợp đồng từ phía ngời bảo lãnh nên khả
năng bảo đảm quyền lợi cho ngời thụ hởng đợc nâng cao hơn.
1.4. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng
Với bên đợc bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh: Khi tham gia vào quan hệ bảo
lãnh, bên bảo lãnh đã dùng uy tín của mình để tạo sự tin tởng cho các bên tham
gia kí kết và thực hiện hợp đồng. Có thể thấy bảo lãnh nh một chất xúc tác giúp
các chủ thể này nhanh chóng đạt đợc sự thỏa thuận thống nhât khi tham gia vào
các giao dịch kinh tế. Bên cạnh đó, trong một số trờng hợp nh bảo lãnh vay vốn,
bảo lãnh hoàn thanh toán hoạt động bảo lãnh ngân hàng đã giúp các chủ thể
kinh doanh tiết kiệm đợc nguồn vốn tự có, tăng cờng tận dụng nguồn vốn lu động
nhằm thu hồi lợi nhuận trong thời gian ngắn.
Với chính bên bảo lãnh: Sự xuất hiện của loại hình bảo lãnh đã làm đa dạng
hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, giúp ngân hàng thỏa mãn đợc các yêu cầu
ngày càng cao của nền kinh tế, mang lại khoản phí dịch vụ đáng kể, góp phần tăng
doanh thu từ hoạt đông kinh doanh ngân hàng. Ngoài ra, sau khi kí kết hợp đồng
bảo lãnh, ngân hàng không phải ngay lập tức xuất vốn cho ngời thụ hởng từ đó có
thể sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đó cho các hoạt động sinh lời khác mà
vẫn không sợ đánh mất cơ hội kinh doanh. Trên thc tế, việc tiến hành bảo lãnh chủ
yếu đợc thực hiện thông qua hệ thống đại lý ngân hàng do đó việc phát triển bảo
lãnh đã giúp các ngân hàng mở rộng mạng lới đại lý, làm tăng cờng danh tiếng uy
tín cho các ngân hàng, tạo ra môi trờng cạnh tranh lành mạnh.
Với nền kinh tế: đây là vai trò gián tiếp có đợc do hai vai trò trên mang lại.
Bảo lãnh ngân hàng giúp cho các hợp đồng đợc kí kết và thc hin thuận lợi hơn,
góp phần làm cho hot động kinh tế diễn ra ngày càng sôi động. Là một công cụ
tài trợ, bảo lãnh đã phần nào đáp ứng nhu cầu vốn cao để mở rộng sản xuất kinh
doanh, ứng dụng khoa học kĩ thuật tiến bộ vào quá trình sản xuất. Bên cạnh đó,
việc sử dụng một phần phí bảo lãnh thu đợc đã góp phần không nhỏ vào việc thực
hiện các chơng trình quốc gia và vực dậy một số ngành kinh tế hiệu quả thấp. Nh
vậy, bảo lãnh ngân hàng đơc sử dụng nh một công cụ điều hòa nền kinh tế.
1.5. Rủi ro trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy là một trong những công cụ đợc sử dụng rộng rãi trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng thu hút đợc sự la chọn của khách hàng, nhng cũng giống nh
các hoạt động sinh lời khác trong ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói
chung, bảo lãnh ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro khó tránh khỏi xét theo các
góc độ khác nhau, nh:
Rủi ro đối với ngời đợc bảo lãnh: trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng đây là
chủ thể có nghĩa vụ chính và trực tiếp đối với ngời thụ hởng nên mọi rủi ro từ phía
ngời đợc bảo lãnh luôn dẫn tới rủi ro của hoạt đông bảo lãnh ngân hàng. Trong
hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày, doanh nghiệp luôn phải đứng trớc
những rủi ro chủ quan và khách quan bất khả kháng dẫn đến khả năng thực hiện
hợp đồng là rất khó đợc đảm bảo. Do đó để đảm bảo an toàn cho hoạt động bảo
lãnh, một yêu cầu cần đợc đặt ra là trớc khi tìm tới sự bảo lãnh khách hàng phải dự
liệu trớc rủi ro có thể xảy ra, tự đánh giá khả năng thực hiện công việc, tính toán
trớc kết quả thu đợc.
Rủi ro đối với ngời bảo lãnh: khi tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh
có khả năng chịu rủi ro do hai chủ thể còn lại gây ra:
Từ phía ngời đợc bảo lãnh: trong trờng hợp ngời này vi phạm nghĩa vụ với bên có
quyền và đợc bên bảo lãnh thực hiện thay nghĩa vụ sau đó không có khả năng
hoàn trả lại cho bên bảo lãnh số tiền đã đợc trả thay. Nh vậy, họ đã phải gánh chịu
một rủi ro tín dụng rất lớn. Do đó trớc khi quyết định bảo lãnh, bên đợc yêu cầu
cần phải thẩm định kĩ năng lực của khách hàng, phạm vi giới hạn đợc yêu cầu
hoặc đề nghị khách hàng thực hiện một số biện pháp bảo đảm cần thiết.
T phía ngời thụ hởng: mà bên bảo lãnh có thể gặp phải là rủi ro về chứng từ.
Vì theo thông lệ quốc tế, bên bảo lãnh chỉ có quyền kiểm tra trên bề mặt chứng từ,
còn nghĩa vụ chứng minh lại thuộc về khách hàng, do đó trong trờng hợp thanh
toán trớc khi phát hiện ra hành vi lừa đảo về nguyên tắc họ vẫn có quyền đòi bồi
hoàn từ phía ngời đợc bảo lãnh nhng khả năng thành công là khó có thể đạt đợc.
Rủi ro đối với ngời thụ hởng: rủi ro này xảy ra trong trờng hợp ngời đợc bảo
lãnh vi phạm nghĩa vụ, nhng bên bảo lãnh không có khả năng thực hiện thay do
mất khả năng thanh toán cho ngời thụ hởng dẫn đến không thể thực hiện theo
đúng cam kết bảo lãnh đa ra lúc đầu. Vì vậy, trên thự tế bên thụ hởng trớc khi
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đồng ý nhận bảo lãnh cũng cần phải tìm hiểu nắm bắt các thông tin cần thiết xác
định rõ danh tiếng của ngời bảo lãnh, hạn chế nguy cơ phải gánh chịu rủi ro ngoài
mong đợi.
2. Khái quát chung pháp luật về bảo lãnh ngân hàng
2.1. Sự cần thiết phải ban hành pháp luật về bảo lãnh ngân hàng
Xét dới các góc độ lý luận và thực tiễn có rất nhiều lý do khác nhau để ban
hành pháp luật về bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, em xin đa ra môt số nguyên
nhân chính nh sau:
Thứ nhất: Xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI(12/1986), với việc đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, đã làm cho vai trò của các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động kinh
doanh đã đợc nâng lên và thật s bớc vào một cuộc cạnh tranh gay gắt, chịu sự điều
tiết của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trờng. Thực hiện chính sách mở
cửa xây dựng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nớc, nhanh chóng hội nhập với
nền kinh tế khu vực và thế giới, Nhà nớc từng bớc cho phép các doanh nghiệp Việt
Nam mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại để nhằm thu hút ngày càng nhiều
nguồn vốn hợp tác đầu t, ứng dụng công nghệ và tiếp thu trình độ khoa học tiên
tiến của nớc ngoài vào sản xuất kinh doanh. Điều này làm cho các giao dịch kinh
tế giữa doanh nghiệp trong nớc với nhau và giữa doanh nghiệp Việt Nam với đối
tác nớc ngoài ngày càng trở nên phong phú, đa dạng về hình thức và quy mô. Do
tính đảm bảo cao cùng với khả năng vợt khỏi biên giới quốc gia, lại đợc điều chỉnh
bởi nhiều Công ớc, Quy tắc pháp luật chung thống nhất nên bảo lãnh ngân hàng đ-
ợc đặt ra nh là một lựa chọn, một yêu cầu tất yếu để phục vụ và thúc đẩy quá trình
phát triển của nền kinh tế.
Trong những năm gần đây,hoạt động bảo lãnh ngân hàng đang diễn ra sôi
động và ồn ào trên nhiều lĩnh vực khác nhau mang lại nhiều tác động tích cực cho
nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó tình trạng bảo lãnh tràn lan, kém hiệu quả đã
gây ra không ít hậu quả xấu cho hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng và nền
kinh tế nói chung. Thực tiễn này đặt ra cho nhà nớc cần phải nhanh chóng, kịp
thời ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo lãnh ngân hàng
nhằm phát huy tối đa tác động tích cực mà hoạt động này có thể mang lại.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai: xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng,
nhằm đảm bảo sự an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tổ chức tín dụng thực hiện nghiệp
vụ bảo lãnh là các trung gian tài chính, kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng,
do đó hoạt động bảo lãnh cũng luôn chứa đựng nhiều rủi ro, tổn thất là rất đa
dạng: rủi ro tín dụng, rủi ro chứng từ, rủi ro lãi suất Trong nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, khi xuất hiện rủi ro Nhà nớc luôn có sự can thiệp kịp thời thông qua
các biện pháp hành chính, do đó rủi ro ít gây ra hậu quả xấu. Từ khi chuyển sang
nền kinh tế thị trờng, thoát khỏi sự bao cấp của nhà nớc đồng thời dới tác động của
các quy luật cạnh tranh thì hàng loạt các hiện tợng nh phá sản, mất khả năng thanh
toán của doanh nghiệp nh là một trong những hệ quả tất yếu khó tránh khỏi đã làm
tăng nguy cơ xảy ra rủi ro cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động bảo lãnh
ngân hàng nói riêng. Mặt khác do tính đặc thù của hoạt động ngân hàng và khả
năng phản ứng dây chuyền nếu để xảy ra rủi ro trong bảo lãnh thì hậu qủa xấu xảy
ra cho toàn hệ thống tổ chức tín dụng khó có thể lờng trớc. Do vậy, để ngăn ngừa
rủi ro thì sự diều chỉnh của pháp luật luôn là một trong những nhân tố quyết định
tới sự an toàn của hoạt động này.
Thứ ba: Nhằm đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên trong quan hệ bảo lãnh
ngân hàng.
Cũng giống nh các quan hệ kinh tế khác trong nền kinh tế thị trờng, khi
tham gia vào hoạt động bảo lãnh ngân hàng mỗi bên đều có những quyền lợi và
nghĩa vụ nhất định. Do vậy việc thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên là vấn đề mấu
chốt cho việc đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên. Nhng trên thực tế,
không phải lúc nào họ cũng thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết và không phải
trong mọi trờng hợp các bên đều có thể tự giải quyết đợc các tranh chấp phát
sinhthông qua con đờng thơng lợng hòa giải. Vì vậy để tránh tình trạng vi phạm
kéo dài gây hậu quả xấu trực tiếp tới quyền lợi của các bên, đồng thời kịp thời
ngăn chặn hậu quả xấu có thể xảy ra cần có những quy phạm pháp luật thống nhất
điều chỉnh hoạt động này.
Nh vậy, nhằm khai thác tối đa hiệu quả kinh tế mà nghiệp vụ bảo lãnh ngân
hàng có thể mang lại và đảm bảo cho sự an toàn của hoạt động này, việc xây dựng
11
(1)
(2)
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hành lang pháp lý chung điều chỉnh là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ trọng
tâm đặt ra hiện nay.
2.2. Khái niệm pháp luật về bảo lãnh ngân hàng
Cũng nh các ngành luật khác, việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt
động bảo lãnh ngân hàng là một yêu cầu khách quan đối với nhà nớc, dựa vào các
quy định hiện hành ta có thể hiểu một cách khái quát:
Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nớc ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động bảo lãnh của các tổ chức tín dụng với
các bên liên quan và cơ quan nhà nớc có thẩm quyền.
Nh vậy, từ khái niệm trên ta có thể rút ra hai thuộc tính cơ bản của pháp luật về
bảo lãnh ngân hàng là:
Thứ nhất: đối tợng điều chỉnh của pháp luật bảo lãnh ngân hàng là các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức tín dụng thực hiện hành vi bảo
lãnh.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, bảo lãnh ngân hàng là một trong
những hành vi cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho khách hàng thông qua một
giao dịch hợp đồng theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng
một số tiền trong một thời hạn nhất định với điều kiện có hoàn trả. Về bản chất,
hành vi bảo lãnh ngân hàng chính là một hành vi pháp lý dân sự đặc biệt do đó
chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Bộ luật dân sự và Luật ngân hàng. Khi tổ chức tín
dụng đứng ra thực hiện hoạt động bảo lãnh sẽ làm phát sinh hai mối quan hệ, điều
này đợc thể hiện qua sơ đồ minh họa sau:
Trong đó: (1) là quan hệ dịch vụ ngân hàng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng
(2) là quan hệ bảo lãnh giữa tổ chức tín dụng với bên có quyền.
12
Tổ chức tín
dụng
Khách hàng
Bên có quyền
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vấn đề đặt ra là quan hệ bảo lãnh ngân hàng có phải là quan hệ hợp đồng
hay chỉ là cam kết đơn phơng của bên bảo lãnh? Do đó để xác định rõ tính độc lập
của hành vi bảo lãnh ngân hàng, ta cần phải xem nó đợc quy định nh nào trong
pháp luật hiện hành. Việc thực hiện hành vi bảo lãnh đợc tổ chức tín dụng thực
hiện thông qua cam kết bảo lãnh đợc quy định tại khoản 2 Điều 2 Quy chế bảo
lãnh ngân hàng bao gồm:
a. Th bảo lãnh: là cam kết đơn phơng bằng văn bản của tổ chức tín dụng
về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với
bên nhận bảo lãnh.
b. Hợp đồng bảo lãnh: là thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và
bên nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và
các bên liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Qua đây có thế thấy rõ việc xác định yếu tố thỏa thuận trong quan hệ bảo
lãnh - dấu hiệu cơ bản của hợp đồng đã đợc thể hiện rõ nét trong t tởng pháp lý,
khẳng định sự thỏa thuận giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh là điều kiện bắt
buộc để thiết lập quan hệ bảo lãnh. Do đó, th bảo lãnh mà bên bảo lãnh đa ra
không chỉ dừng lại là cam kết đơn phơng mà nó đồng thời đợc coi là bản dự thảo
hợp đồng. Trong một số trờng hợp, các bên không nhất thiết phải kí kết hợp đồng
bảo lãnh nếu nh việc ng thuận đã đợc đa ra ngay sau khi nhận đợc th bảo lãnh của
tổ chức tín dụng. Có quan điểm cho rằng dựa theo quy định của điều 406/ Bộ luật
dân sự 2005 thì hợp đồng bảo lãnh có thể đợc coi là một dạng hợp đồng đơn vụ
trong đó chỉ một bên có nghĩa vụ là bên bảo lãnh, điều này cũng đợc ghi nhận
trong quy chế bảo lãnh ngân hàng khi không quy định nghĩa vụ của ngời nhận bảo
lãnh trong hợp đồng bảo lãnh.
Nói tóm lại, qua một số căn cứ trên có thể khẳng định hành vi bảo lãnh
ngân hàng là một hành vi tín dụng tồn tại độc lập khách quan với nghĩa vụ chính
và đợc điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật chuyên biệt.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai: Tổ chức tín dụng - chủ thể chủ yếu của pháp luật về bảo lãnh ngân
hàng.
Tại Điều 3 Quy chế bảo lãnh ngân hàng thì tổ chức tín dụng đợc phép thực
hiện nghiệp vụ bảo lãnh bao gồm:
1. Các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín
dụng.
2. Các ngân hàng đợc Ngân hàng Nhà nớc cho phép hoạt động thanh toán
quốc tế đợc thực hiện các loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức và cá
nhân nớc ngoài.
Trớc hết, tổ chức tín dụng là doanh nghiệp đợc thành lập theo Luật các tổ
chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng (Điều
20 Luật các tổ chức tín dụng). Nh vậy xét về bản chất, tổ chức tín dụng là một loại
hình doanh nghiệp, nhng nó có những đặc điểm riêng để dựa vào đó phân biệt đợc
với các doanh nghiệp khác, nh:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp có đối tợng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu,
thờng xuyên là hoạt động ngân hàng với nội dung chính là nhận tiền gửi và sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán cho khách
hàng.
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nớc trực tiếp của
Ngân hàng Nhà nớc và thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật ngân hàng.
Về phân loại, căn cứ vào phạm vi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh, theo
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng thì các tổ chức tín dụng bao gồm:
Tổ chức tín dụng là ngân hàng: đợc thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thơng mại, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu t, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình
ngân hàng khác.
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng: là loại hình tổ chức tín dụng đợc thực hiện
một số loại hình ngân hàng nh là nội dung kinh doanh thờng xuyên nhng không đ-
ợc nhận tiền gửi không kì hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng khác.
Tổ chức tín dụng hợp tác: là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân
hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập để hoạt động
ngân hàng theo quy định của Luật này và Luật hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu
là tơng trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tổ chức tín dụng hợp
tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân và các hình thức khác.
Qua các quy định trên, ta thấy pháp luật ngày càng mở rộng phạm vi chủ
thể đợc phép thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng cho các tổ chức tín dụng,
không phân biệt loại hình. Hiện nay, pháp luật chỉ quy định điều kiện thành lập và
hoạt động của các tổ chức tín dụng chứ không quy định điều kiện cụ thể để đợc
phép thực hiện từng hoạt động kinh doanh ngân hàng cụ thể, nhng về nguyên tắc
mỗi tổ chức tín dụng chỉ đợc thực hiện bảo lãnh chuyên nghiệp đối với khách hàng
khi thỏa mãn các điều kiện:
Đợc Ngân hàng Nhà nớc cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với
khách hàng, điều kiện này thờng đợc ghi rõ trong giấy phép thành lập và hoạt
động do Ngân hàng Nhà nớc cấp.
Có đăng kí kinh doanh nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng và nghiệp vụ này phải
ghi rõ trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh đã đợc cấp.
Khi tham gia quan hệ bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng đóng hai vai trò
độc lập khác nhau, do vậy việc xác định t cách pháp lý của tổ chức tín dụng là cơ
sở quan trọng cho việc xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật đối với chủ thể
này.
2.3. Quá trình xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt động
bảo lãnh ngân hàng của Việt Nam
Do sớm nhận thức đợc chức năng, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động
bảo lãnh ngân hàng đồng thời để khắc phục tình trạng bảo lãnh tràn lan, kém hiệu
quả mà trong thời gian qua pháp luật Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện khung
pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Điều này đợc thể hiện rõ thông
qua việc ban hành, sửa đổi bổ sung các văn bản sau:
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để đáp ứng cho nhu cầu phát triển của các giao dịch kinh tế, thơng mại đặc
biệt là trong quan hệ vay vốn nớc ngoài, ngày 17 tháng 09 năm 1992 Thống đốc
Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam đã ra quyết định số 192/NH-QĐ ban hành Quy chế
bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nớc ngoài. Đây có thể đợc coi là văn bản pháp lý
đầu tiên tại Việt Nam điều chỉnh nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh của các ngân
hàng thơng mại.
Sau một thời gian thực hiện, ngày 30 tháng 08 năm 1993, Chính phủ ban
hành Nghị định số 58/CP ban hành quy chế vay và trả nợ nớc ngoài. Để hớng dẫn
thi hành, Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc đã ban hành Quy chế bảo lãnh và tái bảo
lãnh vay vốn nớc ngoài, ban hành kèm theo Quyết định số 23/QĐ-NH14 ngày 21
tháng 02 năm 1994 để thay thế Quyết định 192/NH-QĐ và các văn bản hớng dẫn
thi hành. Quyết định này trên cơ sở kế thừa quy chế cũ và bổ sung một số điểm
nổi bật nh: phân biệt rõ hình thức bảo lãnh Chính phủ với hoạt động bảo lãnh
thông thờng của các ngân hàng thơng mại; quy định về việc lập quỹ bảo lãnh khi
ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho khách hàng; phân biệt rõ hơn giữa hoạt động
bảo lãnh và tái bảo lãnh của Ngân hàng Nhà nớc đối với các ngân hàng thơng mại.
Quyết định số 262/QĐ-NH14 ngày 19 tháng 09 năm 1995 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nớc về sửa đổi một số điều của Quyết định trên đã lần đầu quy định mức
bảo lãnh tối đa cho một khách hàng là 10% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Đồng thời, yêu cầu thực tế của các giao dịch kinh tế, thơng mại trong nớc
cũng đặt ra đòi hỏi phải có quy chế bảo lãnh trong nớc để các ngân hàng thơng
mại có cơ sở thực hiện. Đáp ứng điều này, ngày 16 tháng 04 năm 1994, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nớc đã ban hành Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân
hàng ban hành kèm theo Quyết định số 196/QĐ-NH14. Cùng với quy chế về bảo
lãnh vay vốn nớc ngoài, nó đã tạo ra khung pháp lý tơng đối đầy đủ cho hoạt động
bảo lãnh ngân hàng ở Việt Nam lúc đó. Quy chế này đã quy định khá chi tiết về
bên đợc bảo lãnh, bên bảo lãnh, điều kiện để đợc bảo lãnh, phí bảo lãnh, thẩm
quyền kí bảo lãnh, các loại bảo lãnh, bảo đảm cho bảo lãnh Quyết định số
262/QĐ-NH14 ngày 19 tháng 09 năm 1995 về việc sửa đổi một số điều của Quy
chế này cũng bổ sung quy định mức phí bảo lãnh tối đa đối với một khách hàng
không vợt quá 10% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tháng 12 năm 1997, Quốc hội chính thức thông qua Luật ngân hàng nhà n-
ớc và Luật các tổ chức tín dụng thay cho các Pháp lệnh trớc đó đã trở thành những
văn bản pháp lý cao nhất từ trớc tới nay điều chỉnh hoạt động của Ngân hàng Nhà
nớc và Tổ chức tín dụng. Hai luật này thống nhất thừa nhận bảo lãnh là một trong
những nghiệp vụ tín dụng đặc trng đợc thực hiện bởi các tổ chức tín dụng.Tại
khoản 12 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng quy định:
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có
quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả
cho tổ chức tín dụng số tiền đã đợc trả thay.
Điều 58 cũng quy định cụ thể:
1. Tổ chức tín dụng đợc bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của
mình với ngời nhận bảo lãnh
2. Tổ chức tín dụng đợc bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác cho các
tổ chức, cá nhân.
3. Chỉ các ngân hàng đợc phép thực hiện thanh toán quốc tế mới đợc thực
hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác
mà ngời nhận bảo lãnh là cá nhân, tổ chức nớc ngoài.
Căn cứ vào các Luật trên, Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc đã ban hành các
văn bản điều chỉnh chung hoạt động bảo lãnh ngân hàng, xóa bỏ sự phân biệt
trong việc quy định Quy chế bảo lãnh trong nớc và bảo lãnh vay vốn nớc ngoài nh
trớc đây. Điển hình là một số văn bản sau:
- Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số
283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25 tháng 08 năm 2000.
- Quyết định số 386/2001/QĐ-NHNN ngày 11 tháng 04 năm 2001 sửa đổi,
bổ sung một số điều trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết
định số 283/2000/QĐ-NHNN14.
- Quyết định số 1348/2001/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 10 năm 2001 về sửa
đổi một số quy định liên quan đến thu phí bảo lãnh của tổ chức tín dụng.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN ngày 11 tháng 02 năm 2003 về việc
sửa đổi,bổ sung một số điều của Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo
Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 08 năm 2000.
- Thông t số 02/TT-NHNN14 ngày 16 tháng 04 năm 1999 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nớc hớng dẫn việc bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu đối với hàng tiêu
dùng của tổ chức tín dụng.
Sau một thời gian dài áp dụng trên thực tế, Quy chế bảo lãnh cũ đã bộc lộ
một số hạn chế nhất định không còn phù hợp với yêu cầu đòi hỏi hiện nay. Để
khắc phục khó khăn trên, gần đây nhất ngày 26 tháng 06 năm 2ống đốc Ngân
hàng Nhà nớc Việt Nam đã ra Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN về việc ban
hành Quy chế bảo lãnh ngân hàng thay thế Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14
và các văn bản hớng dẫn thi hành.
Nh vậy, thông qua các văn bản trên ta cỏ thể thấy việc ban hành pháp luật
điều chỉnh hoạt động bảo lãnh ngân hàng là khá chậm và ít so với tính chất phức
tạp cũng nh đòi hỏi trong thực tiễn áp dụng của hoạt động này. Song bên cạnh đó
việc quy định chi tiết các khía cạnh pháp lý liên quan tới quá trình thực hiện
nghiệp vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ta thấy bảo lãnh đã đ-
ợc luật hoá trong các văn bản cao nhất của ngành ngân hàng.
2.4. Vai trò của pháp luật bảo lãnh ngân hàng
Trong thời gian qua thông qua việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong
hoạt động bảo lãnh ngân hàng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng đã đóng vai trò
khá quan trọng, điều này đợc thể hiện rõ qua một số phơng diện sau:
Thứ nhất: là công cụ pháp lý để Nhà nớc xây dựng, tổ chức, quản lý và duy
trì trật tự cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng trong nền kinh tế .
Thông qua việc xây dựng các quy phạm pháp luật quy định về các vấn đề nh : điều
kiện, trình tự, thủ tục cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động bảo lãnh của
tổ chức tín dụng Nhà nớc đã sử dụng pháp luật để quản lý, làm cơ sở nền tảng tạo
thuận lợi cho việc thực hiện nghiệp vụ này trên thực tiễn. Bên cạnh đó, Nhà nớc
còn dùng pháp luật làm công cụ đảm bảo an toàn cho hoạt động bảo lãnh ngân
hàng nói riêng và hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung. Điều đó thể hiện ở
chỗ, ngoài các quy định đảm bảo tính chủ động trong thực hiện nghiệp vụ bảo
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lãnh của tổ chức tín dụng, Nhà nớc còn ban hành các quy định các quy định mang
tính hạn chế và kiểm soát chặt chẽ hoạt động này. Chẳng hạn nh trong Điều 7 Quy
chế bảo lãnh ngân hàng quy định Tổng số d bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với
một khách hàng không đợc vợt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tổng số
d bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nớc ngoài không đợc vợt quá 15% vốn tự có
của ngân hàng nớc ngoài. Ngoài ra, trong một số trờng hợp thông qua việc xây
dựng các quy phạm về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể, đã
góp phần đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia, ổn định và duy trì trật tự cho
hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Từ đó, sẽ tạo đợc sự tin tởng và đa bảo lãnh ngân
hàng trở thành một trong những hoạt động tạo sức hấp dẫn thu hút đợc sự quan
tâm lớn và là lựa chọn của phần đông chủ thể đặc biệt là chủ thể kinh doanh trong
nền kinh tế.
Thứ hai: Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng đã góp phần thúc đẩy sự phát
triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng, kích thích sự phát triển của cả hệ thống tổ
chức tín dụng .
Bằng việc ban hành các văn bản pháp luật tơng đối đầy đủ, kịp thời điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong từng giai đoạn, đã tạo ra một hành lang pháp lý
góp phần làm cho các giao dịch bảo lãnh ngân hàng diễn ra thuận lợi, dễ dàng và
sôi động hơn. Từ đó nó thúc đẩy sự hình thành môi trờng cạnh tranh trong cuộc
đua giành chiếm thị phần bảo lãnh giữa các tổ chức tín dụng, kích thích các tổ
chức này luôn tìm cách tốt nhất có thể để mở rộng phạm vi hoạt động, tăng cờng
quy mô và xây dựng hệ thống đại lý ngân hàng nhằm làm tăng uy tín và danh
tiếng tạo ra lợi thế cạnh tranh và thu hút ngày càng nhiều khách hàng đặc biệt là
các khách hàng lớn và truyền thống. Nh vậy, sự điều chỉnh của pháp luật đã trở
thành một trong những nhân tố đòn bẩy tạo đà cho sự phát triển nhanh chóng hệ
thống tổ chức tín dụng trong nền kinh tế.
19