Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm dạy chính tả lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.7 KB, 9 trang )

Một số kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lợng giảng dạy phân môn
chính tả "nghe đọc" lớp 3 trờng tiểu học
I.Lý do chọn đề tài.
1. Cơ sở lý luận
Tiếng việt là bộ môn quan trọng chiếm u thế trong chơng trình giáo
dục bậc Tiểu học. Nó không độc lập mà còn là nền tảng vững chắc để giúp
học sinh lĩnh hội các kiến thức khoa học khác. Trong bộ môn Tiếng việt
phân môn Chính tả đợc luyện suốt bậc tiểu học. Vì sao vậy? Chính tả là
một phân môn viết, mà viết là một trong 4 chức năng (nghe, đọc, nói, viết)
của bộ môn Tiếng việt mà ngời giáo viên cần phải rèn luyện cho học sinh.
Một bài viết có sức thuyết phục không chỉ hay và đúng về nội dung
mà còn cần phải trình bày rõ ràng, viết đúng chính tả, viết đẹp, ở lớp 3 học
sinh tiếp tục hoàn thiện kỹ năng viết đúng Chính tả đã học ở lớp dới. Các
tiết dạy đều nhằm một mục tiêu nói chung là làm cho học sinh có thể viết
đúng mọi (âm tiết) trong Tiếng việt.
Chính tả của Tiếng việt chủ yếu là các quy tắc viết đúng tiếng trong
từ. Từ trong Tiếng việt có hình thức ngữ âm cố định, đợc biểu hiện trên
chữ viết cũng luôn luôn cố định. Hệ thống quy tẵc Chính tả của Tiếng việt
tơng đối đơn giản do có sự tơng ứng giữa các âm và chữ cái, giữa tiếng và
chữ. Tuy nhiên lỗi chính tả thờng mắc trong bài viết của học sinh lại là do
trong Tiếng việt tồn tại sự khác biệt về phát âm của từng vùng (tiếng Ph-
ơng ngữ nh miền Bắc, miền Trung, miền Nam) hoặc đang có sự khác biệt
về từ ngữ theo từng vùng hoặc do nguồn gốc của các từ ngữ (từ Hán việt,
từ vay mợn thuật ngữ) và còn do có sự hạn chế về trình độ hiẻu biết Tiếnga
việt mà kỹ năng sử dụng thành thạo chữ viết.
Nh vậy trong nhiều trờng hợp mắc lỗi, học sinh thờng không ý thức
đợc các cơ sở để nhận diện, tự sửa chữa và hình thành thói quen viết đúng
Chính tả.
2. Cơ sở thực tiễn.
1
Nhìn lại tình hình dạy học Chính tả hiện nay ở lớp 3 tôi nhận thấy:


Dạy còn qua loa, chiếu lệ, cha nhận thức đúng đắn về vị trí nhiệm vụ của
phân môn Chính tả. Nên hầu hết giáo viên ít quan tâm, không xác định đ-
ợc yêu cầu, kiến thức cần đạt ở lớp mình phụ trách. Dạy còn lệ thuộc vào
sách giáo viên, sách giáo khoa mà cha vận dụng tốt nguyên tắc dạy Chính
tả với xu hớng là học sinh chép xong bài chính tả tự quy định với đầy đủ
các buổi lên lớp rồi thả nổi chất lợng học sinh.
Về chất lợng học sinh, ta có thể bắt gặp những trờng hợp học sinh
điểm số phân môn này chỉ là những điểm 3, điểm 4 lặp đi lặp lại. Học sinh
lớp 3 mà chữ viết không có khuôn mẫu nào, học sinh viết đủ các kiểu chữ
một cách tuỳ tiện, viết sai lỗi, viết hoa tự do Có thể nói hiện t ợng này là
do một phần năng lực và sự phấn đấu của học sinh còn hạn chế, song cũng
có phần chất lợng giảng dạy của giáo viên kém hiệu quả, biện pháp thiếu
tích cực và bỏ sót một số học sinh yếu kém.
Trên đây là những tồn tại chung trong việc dạy và học Chính tả hiện
nay. Để thấy đợc những hạn chế này rõ nét hơn, ta sẽ điểm lại những điểm
cơ bản mà hầu hết lâu nay giáo viên khối 3 vẫn thờng thực hiện trên một
giờ chính tả nghe đọc ở các bớc sau:
- Việc chuẩn bị mục tiêu: giáo viên không bổ sung, điều chỉnh để
phù hợp với lớp mình phụ trách mà chỉ sử dụng dạy theo bài soạn, vì thế
nôi dung không thay đổi, nhất là nội dung luyện viết tiếng khó.
- ở Phần lên lớp trong bớc hớng dẫn học sinh viết tiếng khó, giáo
viên chỉ chú ý về mặt ngữ âm, cha chú ý về nghĩa của từ, đây là một yêu
cầu quan trọng mà giáo viên thờng bỏ qua. Mà nh chúng ta biết việc nắm
nghĩa của từ trong viết chính tả là rất cần thiết.
- Thêm một mặt hạn chế nữa là kỹ thuật đọc cho học sinh viết cha
chuẩn nhất là các tiếng, từ có thanh hỏi, ngã, nặng hoặc câu văn dài.
Ngoài ra phần chữa lối cho học sinh giáo viên làm còn sơ sài cha hớng dẫn
cụ thể đến từng học sinh.
Chính từ những thực trạng trên mà dẫn đến việc dạy chính tả trong
nhà trờng cha có hiệu quả cao.

2
II. Nội dung chính.
1. Quan niệm về việc dạy phân môn chính tả.
Ngoài những vấn đề nhiệm vụ, chức năng, yêu cầu, phơng pháp nêu
ở sách hớng dẫn và các tài liệu của Bộ, giáo viên cần phải nhận thức rằng
nội dung các bài chính tả cho học sinh viết là những bài khó để dựa vào đó
học sinh rèn luyện kỹ năng để biết đúng chính tả. Vấn đề đặt ra là sau
những tiết học chính tả thì kỹ năng viết của học sinh đợc nâng lên tới mức
độ nào, giải quyết đợc lỗi gì, chứ không chỉ là viết hết, viết xong xuôi nội
dung bài học quy định. Nhận thức đợc điều đó một cách cụ thể, giáo viên
muốn thực sự chủ động và sáng tạo khi dạy chính tả (biết rèn luyện nội
dung gì, cho đối tợng nào để phù hợp với thực tiễn sinh động của lớp học).
Một vấn đề không thể thiếu đợc là phải xác định và phân loại đợc
trình độ năng lực của học sinh để lập kế hoạch dạy học cho sát đối t-
ợng. Phải nhận thức thực sự rằng khi các em viết bài chính tả là lúc đó
đang đợc rèn luyện, đnag thực hành để thành kỹ năng viết đúng chính tả
chứ không phải viết chính tả kiểm tra, thử thách các em. Mà nhiệm vụ của
chúng ta là giáo dục và rèn luyện các em để dần cõ kỹ năng viết đúng theo
yêu cầu đề ra trong mục tiêu đào tạo.
2. Một số biện pháp phân tích nhằm nâng cao chất lợng
phân môn chính tả (nghe đọc) ở lớp 3 bậc tiểu học.
2.1. Điều tra cơ bản để nắm vững trình độ học sinh qua các bài viết
chính tả. Giáo viên thống kê lỗi, ghi những lỗi hay mắc phải của từng học
sinh để tổng hợp chung cả lớp. Qua đó tiến hành phân loại các đối tợng
học sinh theo năng lực để lập kế hoạch dạy học phù hợp với từng giai
đoạn học. Việc thống kê, phân loại chất lợng cần phải cụ thể, đánh giá
đúng thực chất, xác định đúng nguyên nhân dẫn đến việc học sinh viết sai
chính tả. Học sinh lớp 3 đã có quá trình luyện tập tơng đối nhiều những
cũng có nhiều sai sót hết sức non kém. Do đó khi đánh giá phải thấy đợc
hết các nguyên nhân để không bỏ qua những biện pháp đơn giản, những

kiến thức rất sơ đẳng cần phải bổ sung. Mặt khác cũng không nên hạ thấp
yêu cầu, khiến cho việc luyện tập lệch trọng tâm so với trình độ chung.
3
Qua điều tra thống kê cho thấy học sinh hay mắc lỗi phụ âm đầu,
phụ âm cuối (g gh, c k ) và phần, thanh điệu (dấu ? ~ ) rồi viết
hoa tuỳ tiện do không nắm vững quy tắc. Ngoài ra cần lu ý các trờng hợp
sau:
- Học sinh viết thiếu chữ, bỏ trống nhiều chỗ do tốc độ viết quá
chậm, không nghe rõ hoặc đuổi theo để viết cho kịp nên chữ nghệch
ngoạc thiếu nét.
- Học sinh viết sai do vô ý, lơ đãng viết sai một số vần nh (vần oe
thành vần eo, vần oa thành ao ).
Đặc biệt ở địa phơng tôi, ở lớp tôi có lỗi sai phổ biến về dấu thanh
(? ~ ) do phát âm sai, hoặc do hiểu sai nghĩa.
Ví dụ: Ông Cản Ngũ bỗng bớc hụt, mất đà, chúi xuống.
Thí viết thành: Ông Cản Ngụ bỗng bớc hụt, mất đà, chúi xuống.
Ví dụ: Nề nếp thì viết thành nền nếp.
Sau khi thống kê phân loại trình độ học sinh: Giáo viên dễ lên kế
hoạch giảng dạy, các số liệu thống kê lỗi sai sẽ đợc sử dụng trong các tiết dạy.
- Tỷ lệ phần trăm ở các lỗi cụ thể: ? , ~, phụ âm đầu, vần, các dạng
khác nh viết thiếu chữ, viết không ra chữ, không viết hoa theo quy định
- Phân loại và lu ý những học sinh yếu. Cụ thể ở lớp tôi phụ trách
đầu năm.
Loại
điểm
Giỏi Khá Trung bình Yếu
9 - 10 7 - 8 5 - 6 Dới 5
S.lợng Tỷ lệ S.lợng Tỷ lệ S.lợng Tỷ lệ S.lợng Tỷ lệ
6 em 18,8
%

12 em 37,5
%
12 em 37,5
%
2 em 6,2%
+ Kết hợp với các phân môn Tập đọc, từ ngữ để đánh giá, tìm ra
nguyên nhân phát hiện mối quan hệ trong chế độ hiểu biết của học
sinh. Đọc sai dẫn đến viết sai, không hiểu nghĩa dẫn đến viết sai. Từ đó có
cơ sở phân loại học sinh viết sai do không hiểu nghĩa.
4
2.2. Trên cơ sở nắm vững trình độ, đối tợng học sinh xây dựng kế
hoạch giảng dạy và vận dụng sáng tạo nội dung sách giáo khoa, sử dụng
linh hoạt các biện pháp thực hành luyện tập.
+ Việc xây dựng một kế hoạch dạy học chính tả cần lu ý đảm
bảo những nguyên tắc chung. Phải đề ra những nôi dung rèn luyện từ dễ
đến khó, từ những trờng hợp có thể khắc phục vài tuần học đến trờng hợp
cần có thời gian dài hơn
Nội dung trọng tâm cần rèn luyện ở phần Chính tả nghe đọc.
- ở mỗi giai đoạn, cần đặt ra yêu cầu dứt điểm từng nội dung nâng
cao dần số lợng chữ viết theo tốc độ quy định.
- Yêu cầu đặt ra: Tiếp tục khảo sát các lỗi, viết hoa đúng quy định,
chấm dứt tình trạng viết thiếu chữ, viết cẩu thả, viết chữ biến dạng, các lỗi
dấu hỏi, ngã, ở các từ thông thờng, cách trình bày bài sang sửa chữ viết rõ
ràng, bài viết sạch đẹp.
Với yêu cầu đặt ra ở trên nên khi dạy chính tả tôi có điều chỉnh bổ
sung thêm.
Ví dụ: Khi viết bài chính tả nghe đọc Hội vật tuần 25 sách Tiếng
việt lớp 3 tập 2. Tôi đã bổ sung thêm một số từ: gấp rút, giục giã, Cản
Ngũ, Quắm Đen, nữa, loay hoay, nổi.
- Bớc hớng dẫn học sinh viết tiếng khó ở bớc này giáo viên chú ý

ngoài việc phát âm chuẩn cho học sinh nghe viết mẫu cho học sinh xem
còn đặc biệt chú ý giải nghĩa từ cho học sinh hiểu, vì tôi nghĩ rằng chỉ có
nắm đợc nghĩa của từ thì học sinh mới viết đúng đợc từ trong những hoàn
cảnh khác nhau. Hơn nữa đây cũng chính là một trong những đặc trng
quan trọng của chính tả Tiếng viẹt là chính tả ngữ nghĩa.
Bớc điều chỉnh tiếp theo là kỹ thuật đọc cho học sinh viết, không
thực hiện việc đọc trọn câu lần thứ nhất cho học sinh nghe, rồi sau mới
đọc từng cụm từ cho học sinh viết mà tôi đọc ngay cho học sinh viết cụm
từ đầu tiên, sau đó đọc lại lần thứ hai, thứ ba cụm từ này cho học sinh viết,
xong chuyển sang cụm từ khác cho đến hết câu. Quy trình này đợc lặp đi
lặp lại ở các câu sau cho đến hết đoạn viết. Cuối cùng đọc lại cả bài 1 lần
5
cho học sinh soát xem có bị lôix, bị thừa thiếu hay không. Một điều lu ý
trong việc điều chỉnh kỹ thuật đọc, viết này dù cha thành những cụm từ
nhỏ đến đâu cũng phải đảm bảo không làm sai nghĩa của từ trong câu.
Để chuẩn bị cho việc thực nghiệm tôi đã tiến hành kỹ thuật đọc trên
bài đã chọn nh sau:
Viết đoạn từ: Tiếng trống dồn lên chân ng ời nữa.
Tiếng trống dồn lên / gấp rút / giục giã. Ông Cản Ngũ vẫn cha ngã /
Ông vẫn đững nh cây trồng giữa sới/ Còn Quắm Đen thì đang loay hoay /
gò lng lại/ không sao bè nổi cái chân ông lên./ Cái chân tựa nh bằng cột
sắt / chứ không phải là chân ngời nữa.
Hoặt đến bài tuần 28: Buổi học thể dục chính tả nghe đọc: Viết
đoạn: Thầy giáo nói chúng tôi. Tiếp tục củng cố nhắc cách viết hoa
danh từ riêng (tên ngời) của nớc ngoài, chỉ viết hoa chữ cái đầu của tiếng
đầu tiên, giữa các tiếng có gạch nối. Củng cố kết hợp sử dụng dấu ngoặc
kép, dấu chấm than, dấu hai chấm và viết đúng: Cái xà, khuỷ tay, rạng rỡ,
chiến thắng.
Cần coi trọng việc chấm, chữa bài cho học sinh, phải thờng xuyên,
viết bài nào là chấm bài đó. Nếu lớp đông quá thì giáo viên cần có kế

hoạch để ít nhất một tuần có một con điểm. Khi giáo viên chấm, chữa bài
cho học sinh trong vở nhất thiết phải dùng bút mực (chì) đỏ và cần lu ý
gạch dới những chữ viết sai chính tả, có thể ghi ra lề vở, không chữa ngay
hộ học sinh: Phê lời nhận xét ngắn gọn (nếu thấy cần thiết) ví dụ khi viết
hoa đầu câu, chú ý viết đúng g / gh.
Tóm lại: Việc chấm chữa bài phải hết sức cẩn thận, tỷ mỹ và chuẩn mực.
2.3. Tăng cờng hình thức luyện tập.
Đối với phần luyện tập trớc khi viết, cần tăng cờng củng cố gợi mở,
tạo điều kiện cho học sinh nắm chắc chữ trớc khi thực hành viết. Sử dụng
các phơng tiện trực quan nh phấn màu, cách đọc chuẩn mực của giáo
viên.
6
- Yêu cầu mỗi học sinh có một sổ tay chính tả, để sau mỗi bài viết
học sinh lại viết cho đúng những từ đã viết sai, sổ tay chính tả còn dùng để
ghi tiếng khó, viết những quy tắc cần nhớ khi viết chính tả.
- Trong phần bài tập giáoviên cũng cần chấm, chữa nh các bài viết.
Trong phần luyện tập gần nh đều có bài tập điền vào chỗ trống, mục
đích là để phân biệt giữa các phụ âm đầu, vần hoặc thanh hoặc bài tập đã
cho các từ, yêu cầu học sinh đọc thầm rối viết lại cho đúng.
Ví dụ: Khi cho học sinh viết bài chính tả nghe đọc: Bài Sự tích lễ
hội Chữ Đồng Tử. Có bài tập
a) r, gi, hay d
Hoa ấy đẹp một cách ản ị. Mỗi cánh hoa ống hệt một chiếc
lá, chỉ có điều mong manh hơn va có màu sắc ực ỡ. Lớp lớp hoa
ấy ải kín mạt sân, nhng chỉ cần một làn ó thoảng, chúng tản mát bay
đi mất.
Theo: Trần Hoài Dơng
Qua bài tập trên các từ hoa ấy, giản dị, giống hệt, rực rỡ, rải kín, gió
thoảng, vừa là ngữ liệu dùng để viết chính tả phân biệt r, d, gi lại vừa là
các từ ngữ mà qua đó giáo viên giúp học sinh củng cố nghĩa của từ và mở

rộng vốn từ ngữ đồng thời củng cố luật lại chính tả.
- Đối với học sinh cha đủ năng lực để khái quát hoá các trờng hợp
riêng thành mẹo luật chính tả nên giúp học sinh hiểu rõ từng trờng hợp
cụ thể, có biện pháp ghi nhớ, tốt nhất là qua thực hành mà luyện thành kỹ
năng, thói quen khi viết chính tả.
- Sử dụng các hình thức luyện tập ở nhà sau mỗi tiết dạy bằng cách
viết lại nhiều lần các chữ sai, có kế hoạch kiểm tra nội dung bài luyện tập
ở nhà, không bỏ qua một em nào, một trờng hợp nào, u tiên đối tợng viết
kém.
4. Để góp phần nâng cao chất lợng viết chính tả của học sinh lớp 3
giáo viên cần lồng nội dung này vào các môn học khác. Những sai phạm
về chính tả không đợc bỏ qua bất kỳ ở môn học nào.
7
- Phát động phong trào thi đua viết chữ đẹp, giữ vở sạch quy định
cac mẫu để tạo thành một nền nếp, phong cách chung cả lớp.
- Thờng xuyên tổ chức sơ kết việc thực hiện giảng dạy, việc học tập
để kịp thời nhận định đánh giá hiệu quả dạy, học ở môn học này.
- Tổ chức học sinh tự kiểm tra, cá nhân, lớp tổ chức học tập để sơ
kết, kịp thời biểu dơng những học sinh viết đẹp, ít sai lỗi và nhắc nhở uốn
nắn những học sinh viết yếu.
III. Kếtluận.
Do có quan niệm đúng đắn, áp dụng những biện pháp tích cực để
nâng cao chất lợng dạy học phân môn chính tả nên kết quả đạt nh sau:
Loại
điểm
Giỏi Khá Trung bình Yếu
9 - 10 7 - 8 5 - 6 Dới 5
S.lợng Tỷ lệ S.lợng Tỷ lệ S.lợng Tỷ lệ S.lợng Tỷ lệ
27 em 84,4
%

5 em 16,5
%
0 0 0 0
- Qua quá trình giảng dạy ở lớp 3 đối với phân môn chính tả có thể
rút ra đợc một bài học kinh nghiệm sau:
1. Phải nhận thức đúng về việc dạy, học phân môn chính tả sao cho
có hiệu quả giải quyết đợc những tồn tại của học sinh, chấm dứt tình trạng
kéo lê chất lợng kém từ lớp dới lên lớp trên.
2. Điều tra cơ bản để nắm vững trình độ của học sinh phân loại đối
tợng theo năng lực.
3. Trên cơ sở nắm vững trình độ đối tợng học sinh xây dựng kế
hoạch giảng dạy, vận dụng sáng tạo sách giáo viên, sách học sinh, có ph-
ơng pháp giảng dạy phù hợp.
4. Giáo viên luyện cho mình có giọng đọc chuẩn để đọc mẫu cho
học sinh nghe và viết đúng.
5. Khâu chỉ đạo của giáo viên phải thực sự chuẩn mực và quyết tâm
xoá đợc những lối mà học sinh viết sai.
8
6. Phải luôn suy nghĩ, tìm tòi các biện pháp sáng tạo, linh hoạt chủ
động trong kế hoạch giảng dạy để nâng cao chất lợng.
7. Trong quá trình dạy giáo viên phản tận tuỵ, kiên trì hết lòng sửa
chữa uốn nắm cho học sinh từng nét chữ, t thế ngồi, không vội vàng nóng
nảy.
Trong quá trình thử nghiệm và căn cứ vào chất lợng học tập của học
sinh tôi thấy những biện pháp trên đã đạt đợc kết quả tốt và mặc dù chỉ
nghiên cứu trong phạm vi lớp 3 nhng tôi nghĩ rằng những biện pháp trên
có thể áp dụng đối với những lớp học khác.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân đã rút ra trong quá
trình giảng dạy. Rất mong sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cấp
trong Nghành giáo dục, để tôi ngày càng dạy tốt môn chính tả lớp 3 cũng nh

các lớp khác của bậc tiểu học.
9

×