Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tiểu luận Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.23 KB, 27 trang )

Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Thiên đô chiếu (遷 都 詔 ) hay Chiếu dời đô vỏn vẹn 214 chữ Hán, tương
truyền do vua Lý Thái Tổ (974–1028), người khai sáng vương triều Lý (1010-
1225), ngồi trên ngai vàng 18 năm (1010–1028) viết, nhằm giải thích về lý do
và quyết sách của triều đình mới trong việc dời kinh đô của nước Đại Cồ Việt
từ Hoa Lư (Ninh Bình) đến thành Đại La (Thăng Long, Hà Nội). Văn kiện này
được xem là tác phẩm mở đầu cho nền văn học thời Lý và cũng là áng văn đặc
biệt vừa có giá trị văn chương, chính trị, địa lý và lịch sử Việt Nam, vừa có
ảnh hưởng tích cực đến vận mệnh đất nước và dân tộc từ thế kỷ X trở đi.
Lý Công Uẩn, người khai sáng vương triều Lý (1010-1225), khai sáng Thủ đô
Thăng Long - Hà Nội, sinh ra và được nuôi dưỡng, giáo dục nơi cửa chùa rồi được
giới tăng sĩ ủng hộ, tôn phò làm vua. Cống hiến có ý nghĩa lịch sử quan trọng nhất
của Lý Công Uẩn sau khi lên làm vua là việc ông quyết định chọn thành Đại La
làm kinh đô, dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên thành Thăng Long, Hà Nội
ngày nay. Việc Lý Công Uẩn chọn Thăng Long làm kinh đô vừa đáp ứng được yêu
cầu phát triển mới của thời đại, của Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
đang vươn lên mạnh mẽ, vừa có tầm nhìn xa rộng và kế sách lo toan cho con cháu
muôn đời sau. Lý Công Uẩn làm vua 18 năm. Trong thời gian ấy ông đã làm được
một số việc mà quốc sử ghi chép như là những việc trọng đại.
Thứ nhất, Lý Công Uẩn cho xây dựng kinh thành Thăng Long có quy mô bề
thế, bao gồm cung điện và một hệ thống các điện Càn Nguyên (làm chỗ thiết triều),
điện Tập Hiền, điện Giảng Võ… cùng kho tàng, hào lũy. Bốn mặt thành mở 4 cửa
Tường Phù (phía Đông), Quảng Phúc (phía Tây), Đại Hưng (phía Nam), Diệu Đức
(phía Bắc).
Thứ hai, để đáp ứng nhu cầu của đời sống tâm linh, nhu cầu về tôn giáo tín
ngưỡng, mà khi đó Phật giáo là Tôn giáo được tầng lớp quý tộc, cung đình cũng
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 1
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
như dân chúng tôn sùng, Lý Công Uẩn đã cho xây cất nhiều chùa, như ở phía Nam
kinh thành, ở phủ Thiên Đức (châu Cổ Pháp cũ). Lý Thái Tổ là người đặt nền
móng vững vàng cho sự hưng thịnh của Phật giáo thời Lý.


Thứ ba, khi vương triều Lý được thành lập, ở một số địa phương, đặc biệt là ở
vùng biên giới phía Bắc, có những thế lực nổi dậy cướp phá, cát cứ. Nhằm dẹp yên
các cuộc khởi loạn và nắm được quyền uy của vương triều Lý trên toàn lãnh thổ
quốc gia, Lý Thái Tổ tiến hành những cuộc chinh phạt có hiệu quả ở châu Ái, châu
Diễn, châu Vị Long, châu Thất Nguyên…
Thứ tư, về đối ngoại, Lý Thái Tổ đã thiết lập được quan hệ ngoại giao khá tốt
đẹp với triều Tống.
Bên cạnh những thành tích lớn trên, Lý Thái Tổ còn có công bước đầu xây
dựng một bộ máy có quy chủ từ triều đình xuống tới châu, huyện, hương, ấp; bổ
nhiệm một hệ thống quan chức Thái úy, Tổng quản, Khu mật sứ, Thái bảo, Thái
phó, Tả hữu kim ngô, Tả hữu võ vệ, Ngự sử đại phu, Đô đốc Thượng tướng quân
và Viên ngoại lang. Đồng thời, Lý Thái Tổ sau khi lên làm vua, đã sớm ban bố
chiếu lệnh buộc những người trước kia trốn tránh phải trở về quê cũ sản xuất; định
lệ thuế khóa các loại… Trong chính sách thuế, ông có sự chiếu cố đối với người
già yếu, kẻ mồ côi, tàn tật, góa bụa.
Các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư khen Lý Thái Tổ “là người khoan từ nhân
thứ”. Sử gia Ngô Thì Sĩ khi đánh giá nhà Lý, nhà Trần có viết: “Triều Lý nhân ái,
triều Trần anh hùng”. Nền nhân chính thời Lý được hình thành chính là từ Thái tổ
Lý Công Uẩn. Vương triều Lý do Lý Công Uẩn khai sáng tồn tại 215 năm, với 8
đời vua, là một triều đại lớn trong lịch sử Việt Nam có những ông vua anh hùng
cứu nước và khai sáng văn hiến dân tộc, như Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý
Nhân Tông (1072-1128); những nhà quân sự, chính trị kiệt xuất, như Lý Thường
Kiệt, Tô Hiến Thành…
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 2
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Khi khảo cứu về chế độ, điển chương thời Lý, Lê Quý Đôn cũng như Phan
Huy Chú đều nói, vì thời Lý cách xa quá lâu, tài liệu mất mát, thiếu thốn nhiều,
song dựa vào các nguồn tài liệu sách vở, văn kiện hiện còn, chúng ta thấy những
dấu ấn văn hóa khá rực rỡ của triều Lý vẫn in khắc sâu trong lịch sử Việt Nam. Thí
dụ về cơ cấu tổ chức Nhà nước, về quan chế Phan Huy Chú đã khảo cứu chức “Á

tướng” đời Lý là Tả hữu Tham tri chính sự là chức ở trong Chính phủ, dưới chức
Tướng quốc. Hoặc như Lục bộ, theo Phan Huy Chú, ở nước ta chức Thượng thư
đặt ra bắt đầu từ thời Lý, nhưng tên các bộ chia đặt thế nào chưa rõ. Đời Trần theo
phép ấy của nhà Lý đặt chức Thượng thư hành khiển, Thượng thư hữu bật, sau mới
chia ra Thượng thư các bộ (bộ Lại, bộ Binh, bộ Hình).
Về quân sự, nhà Lý buổi đầu mô phỏng binh chế đời Đường… đời Tống,
nhưng có nhiều sáng tạo độc đáo, trong đó cách hành quân, cách tác chiến chính
người Tống lại phải học tập nhà Lý. Những chiến tích quân sự bất diệt của đời Lý đã
chứng minh nền quốc phòng và quân sự đương thời là vô cùng mạnh mẽ, tài giỏi.
Cùng với thành tích quân sự, nền ngoại giao triều Lý cũng giành được nhiều
thắng lợi quan trọng. Với một đường lối đối ngoại vừa khôn khéo, vừa cứng cỏi,
vương triều Lý đã buộc nhà Tống phải nể trọng, nên trong việc giải quyết về các
vụ tranh chấp đất đai ở khu vực biên giới giữa nhà Lý với nhà Tống, phía nhà Lý
thường chiếm ưu thế, bởi vậy, lãnh thổ đất nước được bảo vệ chắc chắn, toàn vẹn.
Về phát triển kinh tế, dưới triều Lý còn có nhiều bước tiến bộ quan trọng, đặc
biệt là việc xây dựng các công trình thủy lợi, trong đó công trình đắp đê Cơ Xá
(sông Hồng, Thăng Long). Nghề dệt, nhất là nghề làm đồ gốm đạt tới đỉnh cao của
kỹ thuật và nghệ thuật thủ công nghiệp. Ngoại thương phát đạt. Việc giao lưu buôn
bán giữa nhà Lý với các nước vùng Đông Nam Á như Xiêm La, Giava, Tam Phật
Tề (Palembang) khá sôi nổi. Vân Đồn trở thành thương cảng quốc tế quan trọng
của Việt Nam khi đó.
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 3
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Trong lịch sử văn minh Việt Nam, vương triều Lý là vương triều mở đầu kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Việc triều Lý mở Quốc Tử Giám, xác
lập chế độ đại học, mở khoa thi tuyển chọn nhân tài cho đất nước là những sự kiện,
những cái mốc văn hóa mang ý nghĩa trường cửu.
Phật giáo du nhập nước ta từ rất sớm. Giao Châu từng là một trung tâm Phật
giáo nổi tiếng thời cổ. Nhưng phải đến thời Lý, người Việt Nam mới xây dựng
được một đạo Phật mang đặc điểm dân tộc rõ nét, đánh dấu bằng sự ra đời của

Thiền phái Thảo Đường (1096-1205) với các thế hệ Lý Thánh Tông (1054-1017),
Không Lộ, Giác Hải, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông Dưới ảnh hưởng của tư tưởng
Phật giáo Thiền Tông, ở thời Lý, kiến trúc nghệ thuật xây chùa, tháp, đúc tượng
đạt thành tựu rực rỡ. Văn học, đặc biệt là thơ Thiền đời Lý, đã trở thành một di sản
quý giá trong kho tàng văn chương Việt Nam. Khi nói đến sự kiện Lý Công Uẩn
dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình ra Đại La, tức Thăng Long là phải nói đến Chiếu dời
đô (Thiên đô chiếu) do Lý Công Uẩn tự tay viết. Chiếu dời đô, vừa là một văn kiện
lịch sử, chính trị, vừa là một áng văn bất hủ, mở đầu 1000 năm thơ văn viết về
Thăng Long - Hà Nội.
I. Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam
1. Khái niệm
Xuất hiện và phát triển trong chế độ phong kiến, chiếu là một loại hình văn
bản hành chính có vai trò rất lớn. Ở mọi triều đại, trong mọi thời kì, chiếu luôn
được coi là một trong những loại hình văn bản hành chính quan phương nhất, bởi
nó trực tiếp thể hiện những mệnh lệnh, những ý kiến, những suy nghĩ của nhà vua
và được ban bố rộng rãi cho quần thần và dân chúng. Nhưng mặt khác đây cũng là
một thể loại văn học quan trọng ra đời từ thời cổ. Ở Việt Nam, chiếu cũng xuất
hiện tương đối sớm và được ghi chép lại khá nhiểu trong sử sách. Đặc biệt là hai
bộ sử lớn của Việt Nam là Đại Việt sử kí toàn thư và Đại Nam thực lục do Quốc sử
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 4
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
triều Nguyễn soạn.
Để đưa ra một khái niệm thống nhất về chiếu, chúng tôi tiền hành tìm hiểu
thông qua các bộ từ điển:
Trong Từ nguyên chính tục biên bản hợp đính, quyển 1, Thương vụ ấn thư
quán, năm 1947, trang 1376, một trong những định nghĩa về chiếu như sau:
“Chiếu, chiếu thư dã. Cổ thời thượng mệnh kì hạ giai viết chiếu. Tần Hán dĩ hậu
thiên tử xưng chi”. Hán thư: “Bệ hạ phất đức âm, hạ minh chiếu” nghĩa
là: Chiếu tức là chiếu thư. Thời xưa người trên ra lệnh cho người dưới thì đều gọi
là chiếu. Từ đời Tần Hán trở về sau khi dùng cho thiên tử mới dùng từ này. Sách

Hán thư: “Bệ hạ mở đức, hạ minh chiếu”.
Để làm sáng tỏ hơn định nghĩa này, cũng trong cuốn Từ nguyên chính tục
biên trên, chúng tôi xin trích định nghĩa về chiếu thư như sau: “Chiếu thư, cựu chế
dã. Quốc gia đại chính sự bố cáo dân giả viết chiếu thư, dụng ngạnh hoàng chỉ mặc
thư”. Độc đoạn: “Đế chi hạ thư hữu tứ, tam viết chiếu thư), nghĩa là: Chiếu thư là
chế cũ. Các việc chính sự lớn mà bố cáo cho dân chúng thì gọi là chiếu thư, dùng
chỉ vàng cứng và mực đen để viết. Sách Độc đoạn nói rằng: “Thư nhà vua ban
xuống cho dân có 4 thứ, thì 3 cái gọi là chiếu thư”.
Trong Từ hải, bản hợp đính, quyển 1 trọn bộ do Trung Hoa thư cục tái bản
năm 1948, trang 1241, chữchiếu cũng có rất nhiều nghĩa, trong đó có một nghĩa
như sau: Chiếu, chiếu thư dã. Sử kí Tần Thủy Hoàng kỉ: “Mệnh vi chế, lệnh
vi chiếu”, Hán thư “Đổng Trọng Thư truyện: “Bệ hạ phát đức âm, hạ minh chiếu”),
nghĩa là: “ Chiếu, tức là chiếu thư. Tần Thủy Hoàng bản kỉ trong sách Sử kí:
“Mệnh là chế, lệnh là chiếu.” Sách Hán Thư: “Bệ hạ mở đức, hạ minhchiếu”.
Và cũng trong cuốn Từ Hải này, chữ chiếu thư được định nghĩa như sau:
Hoàng đế bố cáo thần dân chi thư viết chiếu thư. Độc đoạn: Đế chi hạ hữu tứ, tam
viết chiếu thư, chiếu thư giả, chiếu cáo dã), nghĩa là : thư nhà vua ban xuống cho
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 5
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
dân có 4 thứ, thì ba cái gọi là chiếu thư, chiếu thư tức là chiếu cáo.
Qua hai bộ từ điển lớn là Từ nguyên và Từ hải trên, chúng ta có thể thấy
chữ chiếu không có một định nghĩa riêng cụ thể mà nó chỉ được xếp chung
vào chiếu thư, do người trên mệnh cho người dưới, do Hoàng đế bố cáo cho thần
dần những chuyện quốc gia đại sự.
Trong Trung văn đại từ điển do Trung Quốc Văn hóa Viện xuất bản năm
1968, trang 36182.1 – 36187.7, chữ chiếu bao gồm 13 nghĩa, trong đó có một
nghĩa như sau: “Chiếu, thiên tử chi chiếu lệnh, vương ngôn viết chiếu, hoàng hậu
thái tử viết lệnh”, nghĩa là: Chiếu, tức là chiếulệnh của thiên tử. Lời của nhà vua
là chiếu, còn lời của hoàng hậu và thái tử là lệnh.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, chiếu là văn bản nhà vua ban bố cho thần dân

biết rõ một số chính sách của nhà nước, viết theo lối văn tứ lục biền ngẫu, mỗi câu
ngắt thanh hai đoạn bốn – sáu hoặc sáu – bốn và có về đối ở từng cặp câu.
Theo Từ điển Văn học (bộ mới), chiếu lệnh là một hình thức văn chương của
Trung Quốc và nhiều nước phương Đông thời cổ, dùng để gọi chung các văn từ
mệnh lệnh do nhà vua ban bố cho quần thần, bao quát các thể văn sách, chiếu,
mệnh, lệnh, chế, cáo… vốn không thống nhất về thể loại cũng như tên gọi.
Trong Thơ văn Lý – Trần nhìn từ thể loại, NXB Giáo dục,1996, tác giả
Nguyễn Phạm Hùng đã đưa ra định nghĩa về chiếu như sau:
“Chiếu là loại văn bản hành chính của triều đình nhằm công bố cho thần dân
trong nước biết và thực hiện những nhiệm vụ hay những vấn đề có liên quan tới
đời sống quốc gia, dân tộc, vương triều”.
Từ những khái niệm trên, chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa chung cho
văn chiếu như sau: Chiếu là văn bản hành chính có tính quan phương trong thời kì
trung đại, nhằm công bố cho thần dần trong nước biết và thực hiện những nhiệm
vụ hay những vấn đề có liên quan tới đời sống quốc gia, dân tộc, vương triều và
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 6
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
thường được viết theo lối văn tứ lục biền ngẫu, mỗi câu ngắt thành hai đoạn bốn –
sáu hoặc sáu – bốn , có vế đối ở từng cặp câu.
Có các loại chiếu như: tức vị chiếu (chiếu kế vị), di chiếu (chiếu dặn lại trước
khi qua đời), ai chiếu, phục chiếu, mật chiếu, thủ chiếu, khẩu chiếu. Thư tịch cổ
Trung Quốc còn lưu lại những bài Chiếu thề hiện tư tưởng lớn trong việc trị nước
đáng làm mẫu mực cho các Hoàng đế đời sau như: Cao đế cầu hiền chiếu (Chiếu
cầu người hiền của Hán Cao Tổ), Văn đế nghị tá bách tính chiếu (Hán văn đế đề
nghị các đại thần nghĩ cách giúp đỡ trăm họ), Cảnh đế lệnh nhị thiên thạch tư chức
chiếu (Hán Cảnh đế lệnh cho các quan phải thực hiện đúng chức trách), Vũ đế cầu mậu
tài dị đẳng chiếu (Hán Vũ đế cầu người tài xuất chúng để lập chiến công lừng lẫy).
Với tư cách là những văn kiện chính trị, chiếu trước hết là thể văn nghị luận, trong
đó không phải chỉ có lý lẽ, mà phải thể hiện hình ảnh vị thiên tử có tầm nhìn xa
trông rộng, có tâm hồn cao cả. Nhiều bài chiếu có lý lẽ xác đáng, lời văn sáng sủa,

gãy gọn, mạnh mẽ được trân trọng lưu truyền.
2. Lịch sử hình thành , phát triển của văn bản chiếu
Chiếu là một loại hình văn bản hành chính đặc biệt đã xuất hiện ở Trung Quốc
từ thời cổ và được truyền sang các nước phương Đông thuộc vùng ảnh hưởng của
văn hóa Hán, trong đó có Việt Nam. Sở dĩ đặc biệt vì đó là một trong những loại
hình văn bản hành chính có tính quan phương nhất của nhà nước đã ra đời từ rất
lâu, tồn tại trong suốt thời kì phong kiến.
Trong tác phẩm Lịch sử văn hóa Trung Quốc được tác giả Nguyễn Phạm
Hùng trích dẫn trong cuốn Văn học Lí – Trần nhìn từ thể loại, Đàm Gia Kiện đã
viết về nguồn gốc của văn chiếu như sau: Chiếu là “cáo của triều đình ban bố gọi
chung là chiếu lệnh, bắt nguồn từ thể cáo trong Thượng thư, thời Xuân Thu gọi là
mệnh, thời Chiến Quốc gọi là lệnh. Sau khi Tần thống nhất, đổi mệnh thành chế,
đổi lệnh thành chiếu. Đầu đời Hán mệnh chia làm bốn loại, danh mục, công dụng
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 7
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
khác nhau. Chiếu là cáo với bách quan…” Như vậy, chiếu vốn được bắt nguồn từ
thể cáo trong sách Thượng thư, được gọi là chiếu lệnh, trải qua các tên gọi khác
nhau, đến đời Tần mới có tên gọi là chiếu như hiện nay. Thực chất, nó là loại văn
bản hành chính của triều đình nhằm công bố cho thần dân biết và thực hiện những
nhiệm vụ có liên quan đến đời sống xã hội, dân tộc, hoàng triều.
3. Một số đặc trưng của văn bản chiếu:
Chiếu không chỉ đơn thuần thuộc phạm vi của văn bản hành chính của thời kì
Trung đại mà còng là một thể loại có nhiều đóng góp cho nền văn học mỗi nước
trong thời kì này. Đó là một thể loại văn học có chức năng cao, phục vụ cho việc
giao tiếp có tính quan phương. Tùy vào mỗi triều đại, mỗi thời kì cụ thể mà văn
bản chiếucó những đặc điểm riêng phù hợp với từng triều đại, mỗi thời kì cụ thể
mà văn bản chiếu có những đặc điểm riêng phù hợp với từng triều đại, từng thời kì
đó. Nhưng về cơ bản, đặc trưng của thể loại này, xét về nội dung là mệnh lệnh của
vua chúa đối với thần dân; xét về hình thức thì đó là sự vận dụng phổ biến các cách
diễn đạt của văn xuôi cổ thể, của biền văn, tản văn, và cả vận văn nữa, trong

đó phổ biến nhất là hình thức biền văn. Từ ngữ được sử dụng trong
văn chiếu cũng rất đa dạng, phong phú. Điều này nhằm phù hợp với mục đích sử
dụng của văn chiếu: vừa đảm bảo tính bác học vừa đảm bảo tính phổ cập, vì phải
để mọi tầng lớp nhân dân đều có thể hiểu được.
Các nhà lí luận văn học cổ xem chiếu là một hình thức văn học quan trọng.
Trong Văn tâm điêu long, Lưu hiệp đã xếp thiên Chiếu sách vào thiên thứ 19.
Ông viết: “Duy có chiếu sách hồ Hiên Viên, Đường, Ngu gọi là mệnh, giáng cập
thất quốc tịnh xưng lệnh. Tần cải lệnh vi chiếu Cổ chi chiếu từ giai dụng tản văn,
cố năng thâm hậu , nhĩ nhã, cảm động hổ nhân”. Duy có chiếu sách vào thời Hiên
Viên, Đường, Ngu được gọi là mệnh ban xuống cho 7 nước thì gọi là lệnh, về sau
Tần sửa mệnh thành chiếu Lời chiếu thời cổ đều dùng tản văn, cho nên ý tứ thâm
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 8
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
sâu, điển nhã, cảm động lòng người ”
Chiếu thuộc kiểu giao tiếp cộng đồng, lấy số đông làm đối tượng. Tất nhiên
trong một số trường hợp, nhà vua có thể ban di chiếu riêng cho một số người.
Nhưng về cơ bản, đó vẫn là sự giao tiếp giữa vua và thần dân, giữa triều đình
phong kiến và dân chúng, giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. Sự tồn tại của
văn học chiếu gắn bó với sự tồn tại của các triều đại phong kiến, chính vì thế, khi
chế độ phong kiến sụp đổ, loại hình văn hành chính này cũng sẽ không còn lí do để
tồn tại.
4. Hệ thống văn bản chiếu trong lịch sử Việt Nam
Nhằm phần nào tái hiện diện mạo khái quát nhất về hệ thống văn
bản chiếu Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và lọc các bài chiếu trải qua
các thời lịch sử chủ yếu trong hai bộ chính sử đáng tin cậy (Đại Việt sử kí toàn
thư Và Đại Nam thực lục) cũng như một số nguồn tư liệu khác (Nguyễn Trãi toàn
tập, Tổng tập văn học Việt Nam, Thơ văn Lí Trần). Chúng tôi đã lập bảng thống kê
số lượng chiếu trong các thời kì lịch sử Việt Nam dưới đây.
Bảng thống kê số lượng chiếu các thời trong lịch sử Việt Nam
(Qua một số nguồn tư liệu)

Stt
Tên nguồn tư liệu
Số lượng chiếu
Lý Trần Lê Nguyễn
1 Đại Việt sử kí toàn thư 24 23 56 0
2 Đại Nam thực lục 0 0 0 191
3 Nguyễn Trãi toàn tập 0 0 6 0
4 Tổng tập văn học Việt Nam 0 0 0 0
5 Thơ văn Lý Trần 6 0 0 0
Tổng 30 23 56 191
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 9
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Căn cứ vào bảng trên chúng ta có thể đi đến một vài nhận xét:
Trải dài thời kì Trung đại, thời đại nào cũng có các văn bản chiếu. Song Nguyễn là
thời kì có số lượng văn bảnchiếu nhiều nhất. Điều đó hoàn toàn có thể giải thích
được bởi lí do khách quan về thời gian, khí hậu, chiến tranh cũng như vì ý thức của
con người mà số lượng chiếu của các thời Lí, Trần, Lê đã bị mai mốt nhiều.
Qua việc khảo sát chúng tôi thấy rằng các văn bản chiếu ngày càng hoàn thiện
dần đạt tới độ ổn định cho loại văn hành chính mang tính chất quan phương này.
Như vậy qua khái quát về tình hình chiếu của Việt Nam qua các thời kì ta
thấy chiếu là văn bản hành chính quan phương xuất hiện từ thời cổ ở Trung Quốc,
tồn tại song hành cùng với sự phát triển của các vương triều phong kiến.
Khi chế độ phong kiến Việt Nam được hình thành thì các văn bản chiếu cũng
lập tức được lựa chọn và sử dụng. Hiện nay văn bản chiếu sớm nhất được xác định
là Thiên đô chiếu của Lí Công Uẩn sáng tác vào năm 1010 và bản chiếu cuối cùng
là Thoái vị chiếu của vua Bảo Đại (tháng 8 năm 1945). Văn bản chiếu sau cùng
này cũng đánh dấu sự chấm dứt vĩnh viễn vai trò của văn bản chiếu trong chế độ
phong kiến Việt Nam đã tồn tại lâu đời.
II. “Chiếu dời đô” (Lý Công Uẩn) – Văn bản chiếu mẫu mực
Nguồn sử tịch sớm nhất chép bài văn Chiếu dời đô của Thái Tổ Lý Công Uẩn

là Đại Việt sử ký toàn thư, bộ quốc sử do Ngô Sĩ Liên biên soạn năm 1479, dưới
triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Trong Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn (nửa sau thế kỷ XIX) cũng có
bài Chiếu dời đô. Ngoài ra, còn có một số sách khác cũng chép bài Chiếu dời đô,
thí dụ Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích (1744-1818). Sau khi đối chiếu các
văn bản Chiếu dời đô được chép ở ba bộ sách vừa dẫn trên, chúng tôi chọn
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 10
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
bài Chiếu dời đô trong Đại Việt sử ký toàn thư để dịch lại và giới thiệu, vì đây là
văn bản có niên đại sớm nhất (thế kỷ XV) mà về sau Bùi Huy Bích cũng như Quốc
sử quán triều Nguyễn đều dựa vào để sao chép lại (rồi sửa chữ như Bùi Huy Bích,
hoặc lược bớt đi cho gọn như các sử thần ở Quốc sử quán triều Nguyễn đã làm).
Dưới đây là phần phiên âm và dịch nghĩa, chú thích toàn văn bài Chiếu dời đô.
Phiên âm
"Thủ chiếu viết:
"Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành vương tam tỉ;
khởi Tam đại chi sổ quân, tuận vu kỷ tư, võng tự thiên tỷ, dĩ kỳ đồ đại trạch trung,
vi ức vạn thế tử tôn chi kế. Thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện
triếp cải, cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh, Lê nhị gia, nãi
tuận kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu
tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi,
Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỷ. Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch
thiên địa khu vực chi trung, đắc long bàn hổ cứ chi thế, chính nam, bắc, đông, tây
chi vị, tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ
cao nhi sảng khải, dân cư miệt hôn điếm chi khốn, vạn vật cực phồn phụ chi
phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa, thành tứ phương bức thấu chi yếu hội,
vi vạn thế kinh sư chi thượng đô. Trẫm dục nhân thử địa lợi, dĩ định quyết cư,
khanh đẳng như hà?".
Dịch nghĩa
"(Nhà vua) tự tay viết Chiếu rằng:

"Xưa kia nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời
Thành Vương lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại liều vì riêng mình, tự ý
bậy bạ chuyển đi nơi khác, mà bởi họ mưu tính lớn lao, chọn ở nơi trung tâm, làm
kế muôn vạn đời cho con cháu về sau. Trên cung kính mệnh trời, dưới dựa theo ý
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 11
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên phúc nước dài lâu, phong tục giầu
thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê mới vì riêng mình, quên mệnh trời, bước đạp bừa
lên dấu tích Thương, Chu, cứ yên ở mãi ấp nhỏ của mình nơi ấy, để đến nỗi đời
chẳng được dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không thích hợp,
Trẫm rất thương xót, không thể không di dời khỏi đó. Huống chi thành Đại La,
đô cũ của Cao Vương

ở khu vực giữa trời đất, có được thế đất rồng cuốn, hổ ngồi;
chính vị đông, tây, nam, bắc; tiện nghi phía trước là sông, phía sau là núi. Khu
vực ấy rộng rãi, bằng phẳng; đất ở đấy cao ráo, sáng sủa, dân cư không bị ngập
chìm tối tăm khổ sở, muôn vật thịnh vượng, tốt tươi.
Ngắm xem khắp nước Việt, thấy đây là vùng đất có phong cảnh tốt đẹp nhất,
thực là nơi trọng yếu cho bốn phương hội tụ; là đất kinh sư của kinh sư muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy để định đô ở đó, các khanh nghĩ thế nào?".
Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) cũng mang những đặc điểm của thể văn chiếu
nói chung nhưng đồng thời cũng có những đặc điểm riêng: bên cạnh tính chất
mệnh lệnh là tính chất tâm tình, bên cạnh ngôn từ mang tính đơn thoại, một chiều
của người trên ban bố mệnh lệnh cho kẻ dưới là ngôn từ mang tính chất đối thoại,
trao đổi. Đặc điểm này còn thấy ở một số bài Chiếu thời Lý nữa như Xá thuế chiếu
của Lí Thánh Tông, Lâm chung di chiếu của Lí Nhân Tông, Chung hối tiền quá
chiếu (Chiếu hối lỗi) của Lí Cao Tông.
Nội dung bài chiếu chia làm hai phần: phần một giải thích vì sao phải dời đô
khỏi Hoa Lư, phần hai giải thích vì sao lại chọn Đại La làm nơi đóng đô mới. Kết
cấu hai phần thế này rất rõ ràng và logic, chặt chẽ.

Trong phần một lại chia là hai đoạn nhỏ: đoạn một từ đầu đến “phong tục phú
phụ” nói về lí do, bài học lịch sử và mục đích của việc dời đô; đoạn hai từ “Nhi
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 12
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Đinh Lê nhị thị” đến “bất đắc bất tỉ” phê phán hai nhà Đinh Lê chọn Hoa Lư làm
kinh đô là sai lầm và bắt buộc phải dời đô.
Trong đoạn một của phần một, đầu tiên Lý Công Uẩn nêu ra những bài học về
việc dời đô trong lịch sử Trung Quốc – đất nước gần gũi, quen thuộc với Việt
Nam. Nhà Thương – một triều đại cổ của Trung Quốc – từ vua Thành Thang đến
vua Bàn Canh đã năm lần dời đô. Vua Thành Thang đóng đô ở phía Đông Nam
huyện Thương Khâu (nay thuộc Hà Nam – Trung Quốc), đời Trọng Đinh dời đô
đến huyện Thành Cao (Hà Nam), đời Hà Đản Giáp dời đô đến phủ Chương Đức
(Hà Nam), đời Tổ Ất dời đô đến phủ Thuận Đức (nay thuộc Hà Đông), đời Bàn
Canh dời đô đến huyện Yên Sư (Hà Nam). Liên tiếp bốn đời vua nhà Thương đã đi
tìm cho mình miền đất hứa để đóng đô, cho đất nước phát triển nhưng không thành
công, làm cho cả dân tộc “dã tràng xe cát” rồi mới tìm được nơi hợp lý để đóng đô,
ấy là Yên Sư.
Nhà Chu cũng là một triều đại cổ của Trung Quốc và cũng trải qua ba lần dời
đô. Chu Văn Vương dời đô đến huyện Trường Yên, đến đời vua Thành Vương lại
dời đô đến huyện Lạc Dương (nay là Hà Nam, Trung Quốc). Khác với việc dời đô
của nhà Thương, ba lần dời đô của nhà Chu là do hoàn cảnh lịch sử bắt buộc, và
việc dời đô ấy cả ba lần đều là quyết định đúng đắn.
Từ bài học về việc dời đô của hai nhà Thương Chu, vua Lý Công Uẩn đã lấy
đó làm chứng cứ để khái quát lên quy luật dời đô một cách rõ ràng, thuyết phục.
Cả ba nhà Hạ, Thương, Chu trong lịch sử Trung Quốc cổ đại không hề tự tiện dời
đô, làm theo ý thích của mình mà đều vì sự phát triển của đất nước, tìm nơi phù
hợp nhất cho sự phát triển ấy. Ông tổng kết việc dời đô theo quy luật là để tìm nơi
trung tâm, mục đích là tính kế lâu dài cho sự phát triển của dân tộc và yêu cầu phải
được ý trời, hợp lòng dân, căn cứ vào điều kiện, thế phát triển của đất nước.
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 13

Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Sau khi khái quát quy luật dời đô, Lý Công Uẩn đi vào giải thích nguyên nhân
tại sao lại phải dời đô lúc này. Theo quy luật ấy, kinh đô phải là nơi làm cho vận
nước phát triển lâu dài, nhưng hai họ Đinh Lê đã chọn kinh đô là đất nước hao tổn
dần. Lý Công Uẩn phê phán họ Đinh Lê là tự tiện làm theo ý mình , không nhìn
đến mệnh trời (trái với quy luật dời đô đã khái quát ở trên), không biết nhìn vào bài
học kinh nghiệm của hai nhà Thương Chu, coi thường lịch sử nên ở yên ở Hoa Lư.
Chính vì ở yên ở Hoa Lư làm cho đất nước có những hậu quả nghiêm trọng: hai
triều Đinh Lê không kéo dài, chỉ truyền được qua hai đời, nhân dân hao tổn dần (vì
những cuộc nội chiến, phân phong, cát cứ và chống ngoại xâm), muôn vật mất đi
những điều kiện thích hợp với nó. Chính vì hai họ Đinh Lê đã đi ngược lại với quy
luật dời đô, đi ngược lại lịch sử gây hậu quả nghiêm trọng nên Lý Công Uẩn đã rất
đau lòng, không thể không dời đô.
Như vậy, trong phần một Lý Công Uẩn đã thuyết phục dời đô khỏi Hoa Lư rất
thành công. Đầu tiên là nêu những sự thực lịch sử từ đó khái quát quy luật, bài học
dời đô; sau đó ông chứng minh hai họ Đinh Lê đi ngược lại với bài học đó, gây hậu
quả nghiêm trọng nên bắt buộc dời đô.
Trong Chiếu dời đô, khái niệm gây tranh luận nhiều nhất và dễ hiểu lầm nhất
là “thiên mệnh” có nghĩa đen là “mệnh trời.” Vua Lý Thái Tổ giải thích nguyên
nhân dời đô của ông là nhằm đáp ứng yêu cầu: “Trên thuận mệnh trời, dưới hợp
lòng dân” (上謹天命,下因民志: thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí). Sống
trong chùa từ nhỏ, được học hỏi triết lý Phật giáo từ thiền sư Lý Khánh Vân và
được làm vua nhờ vào sự sắp xếp tài tình của thiền sư Vạn Hạnh, vua Lý Thái Tổ
không thể có và không thể chấp nhận thế giới quan Nho giáo hay bất kỳ Nhất thần
giáo nào, rằng thế giới này do thượng đế tạo ra và vận mệnh quốc gia và con người
là công trình độc quyền của thượng đế.
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 14
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Theo triết lý Phật giáo mà vua Lý Thái Tổ học được, nghiệp tức ý chí, hành
động của con người tạo ra mọi thứ, trong đó tâm làm đạo diễn, hành động thân thể

và ngôn ngữ chỉ là các biểu hiện. Không có số phận an bày, dù của cá nhân hay của
một dân tộc:
"Này các Tỳ-kheo, những ai có kiến chấp như sau: 'Phàm tất cả cảm giác gì
mà con người phải lãnh thọ hạnh phúc hay đau khổ, đều do nghiệp quá khứ (Túc
mạng luận, Tất định luận). Hay phàm tất cả cảm giác gì mà con người phải lãnh
thọ, hạnh phúc hay đau khổ, đều do Đấng Tạo Hóa tạo ra (Thần ý luận).' Ta nói với
họ như sau: 'Như vậy thời theo lập luận của các Tôn giả, do "nghiệp nhân quá
khứ," do "Thượng đế" con người sẽ trở thành ác độc, trộm cướp, tà hạnh, nói láo,
nói hai lưỡi, nói ác độc, nói phù phiếm, tham lam, sân hận, si mê và tà kiến '
Nhưng này các Tỳ-kheo, với những ai dựa vào "Thượng đế," dựa vào "nghiệp
quá khứ" cho là lý do chân thật thì nên biết rằng họ là "người tà kiến" và nguy hại
hơn nữa là họ sẽ không có ước muốn, không có tinh thần "đây là việc phải làm,
đây là việc không nên làm" và họ sẽ sống thất niệm buông lung, tội ác với tâm
không hộ trì. Này các Tỳ-kheo, đó là những chủ trương của ngoại đạo, họ vẫn chấp
chặt và bảo thủ quan điểm sai lầm ấy.”
Nói cách khác, theo Phật giáo, thượng đế chưa từng có mặt, do đó, cái gọi là
“thiên mệnh” chỉ là cách giải thích sai lầm về bản chất quy luật của nhân quả đối
với thế giới vật chất và nghiệp báo đối với con người. Số phận của một cá nhân do
chính nghiệp của con người tạo ra. Số phận của một đất nước do chính nghiệp tập
thể của dân tộc tạo ra. Đức Phật xác định điều này trong kinh Tăng Chi như sau:
“Này các Tỳ-kheo, con người và các chúng sanh là chủ của Nghiệp, là thừa tự
của Nghiệp, là sanh căn của Nghiệp. Phàm chúng sanh nào tạo tác hành vi gì, thiện
hay ác, chính họ phải gặt hái những kết quả của những hành vi đó.”
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 15
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Nếu vua Lý Thái Tổ là người theo đạo Nho hay Nhất thần giáo thì “thiên
mệnh” trong Chiếu dời đô có thể hiểu là giới hạn của chủ nghĩa định mệnh trong
chính trị. Đằng này, vua Lý Thái Tổ là người theo đạo Phật, nên khái niệm “thiên
mệnh” có thể là thuật “chơi chữ” với hai nghĩa, nhằm đáp ứng hai dụng ý. Thứ
nhất, trong vương triều, người theo Nho giáo khó tánh nhất cũng không thể có ý

kiến ngược lại với quyết sách dời đô của nhà vua. Thứ hai, trong vương triều và
thần dân bấy giờ, đại đa số là Phật tử, thì “thiên mệnh” được hiểu là “quy luật thiên
nhiên” mang tính tất yếu. Do đó, thuận thiên mệnh chỉ có nghĩa là “phù hợp với
quy luật tất yếu”, hay còn gọi là quy luật khách quan, ở đó, không có thượng đế
nào an bày vận mệnh của đất nước Việt Nam từ nhà Lý trở đi.
Theo nghĩa vừa giải thích, đoạn nguyên tác “Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức
vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp
cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ” có thể dịch nghĩa là: “Dời đô là vì
muốn ở trung tâm, lập nên nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trước thuận
với quy luật thiên nhiên, sau là hợp với lòng dân; nếu thuận tiện thì nên dời đổi.
Làm được thế thì vận nước được lâu dài, phong tục được phồn thịnh.” Nghệ thuật
chơi chữ của vua Lý Thái Tổ như mũi tên bắn trúng hai mục đích, vừa được lòng
người theo Nho giáo và vừa được lòng người theo Phật giáo có khuynh hướng
“Tam giáo đồng nguyên” thời ấy.
Cũng cần nhắc lại nơi đây, bài thơ sấm trên cây gạo làng Diên Uẩn, đề cập
đến chuyện “điềm trên cây sét đánh” trong dân gian thực ra chỉ là nghệ thuật được
thiền sư Vạn Hạnh sử dụng, nhằm tôn vinh Lý Công Uẩn có chân mạng “thiên tử”,
xứng đáng làm đế vương Đại Cồ Việt. Ngoài ra, khi lên ngôi hoàng đế đầu tiên của
nhà Lý, vua Lý Công Uẩn đặt niên hiệu là “Thuận Thiên” có nghĩa đen là “theo ý
trời.” Đây cũng là cách chơi chữ, để mọi người dễ chấp nhận hoàng đế mới, chứ
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 16
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
theo quan niệm triết học Phật giáo mà hai thầy trò thiền sư Vạn Hạnh và vua Lý
Công Uẩn truyền bá, thì thượng đế không có thật, lấy đâu mà gọi là theo ý trời!
Thông qua nghệ thuật chơi chữ khéo léo, khi xem việc dời đô là một thiên
mệnh tức “quy luật tất yếu,” mang tính khách quan thì việc cát cứ ở cố đô là một
sai lầm. Đây là bài học lịch sử từ hai triều đại Đinh và Tiền Lê mà vua Lý Thái Tổ
đã sớm nhận ra: “Nhà Đinh và nhà Lê quá trọng ý riêng, khinh thường quy luật trời
đất… cứ bám chặt kinh đô ở nơi này (tức Hoa Lư).” Dù sao, ta cũng phải thừa
nhận rằng trong bối cảnh đất nước Đại Cồ Việt ta vừa thoát khỏi ách nô lệ của

Trung Quốc, kinh đô Hoa Lư dù non trẻ này lại là kinh đô tập quyền đầu tiên của
Việt Nam thời đó.
Mặt khác, ta cũng phải thừa nhận rằng đối với các quốc gia nhược tiểu, thế núi
sông hiểm trở là sự lựa chọn thích hợp cho kinh đô trong thời chiến tranh loạn lạc,
nhằm phòng thủ và khởi nghĩa khi thời cơ thích hợp. Cố đô Hoa Lư của ta nằm
trong quy luật này. Điều ta không thể phủ định là cái gì thích hợp với thời chiến
chưa chắc tiếp tục thích hợp với thời bình và phát triển.
Lịch sử cũng cho thấy khu vực nào không thích hợp cho việc phát triển mà
kinh đô được đặt trên nó sẽ không thể thoả mãn lòng dân, do đó, quốc gia không
thể phát triển, nội loạn thường xảy ra, dân mất niềm tin và dễ bị thay thế bởi chính
thể khác. Do đó, có thể hiểu khái niệm “thiên mệnh” trong Chiếu dời đô là thuật
chơi chữ, không nên hiểu theo nghĩa đen của Nho gia là “mệnh trời”, mà cần hiểu
theo nghĩa bóng của Phật giáo là “quy luật tất yếu” lại càng sâu sắc hơn.
Triều Lý có công giữ vững đế đô, bảo vệ xã tắc, chiến thằng Chiêm Thành và
đánh bại nhà Tống trên sông Như Nguyệt. Trong 18 năm ở ngôi vị đế vương
(1010–1028), vua Lý Công Uẩn có công lập nên kinh đô Thăng Long bề thế, gồm
cung điện và các điện Càn Nguyên, điện Tập Hiền, điện Giảng Võ và nhiều hào
lũy kiên cố, điều mà các tiên đế Việt Nam hiếm có người làm được. Về phương
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 17
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
diện tôn giáo, vua Lý Thái Tổ mặc dù là Phật tử nhưng chủ trương Tam giáo đồng
nguyên, mở Quốc Tử Giám, hình thành chế độ đại học ở Việt nam, mở nhiều khoa
thi tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Về các công trình tâm linh, vua Lý Công Uẩn
cho xây cất nhiều chùa ở phía Nam kinh thành và ở phủ Thiên Đức (châu Cổ Pháp
cũ) và nhiều công khác, nhằm ủng hộ phát triển nền đạo đức và triết lý nhập thế
của đạo Phật.
Trải qua 10 thế kỷ, suốt 853 năm, kể từ Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ
được ban hành năm 1010, thành Đại La - Thăng Long, nay là Hà Nội, không chỉ là
kinh đô của 215 năm vương triều Lý với tám đời vua anh minh nhân hậu, mà còn
là kinh đô giữ vị trí độc nhất trong lịch sử Việt Nam, tiếp tục là thủ phủ của các

triều Trần, Hậu Lê, Mạc, Lê Trung Hưng và hiện nay là thủ đô Hà Nội của
nước Việt Nam, xứng đáng với lời tiên đoán của vua Lý Thái Tổ là “kinh đô bậc
nhất của các đế vương muôn đời.”
Sang phần hai, Lý Công Uẩn thuyết phục về việc lựa chọn Đại La làm kinh đô
là hợp với quy luật dời đô. Đầu tiên Lý Công Uẩn nhắc đến Đại La với sự kiện
thành Đại La của Cao Biền – một viên quan đô hộ người Hán đã cai trị nước ta
trong thời kì Bắc thuộc. Cao Biền là người giỏi phong thủy, địa lí nên đã nhìn ra
cái thế đắc địa của Đại La và chọn nơi này làm nơi đóng đô.
Vùng đất Đại La có những ưu thế hơn hẳn Hoa Lư, xứng đáng là kinh đô của
đất nước. Đây là vùng đất chọn được ở giữa trung tâm của trời đất, bờ cõi. Khái
niệm trung tâm ở đây không phải là trung tâm về địa lý mà là trung tâm về phong
thủy, tâm linh, về chính trị, xã hội. Đại La là nơi tụ hội của bốn phương, tiện cho
sự phát triển của đất nước. Đất ấy cũng là đầu mối cả các con đường bộ Bắc -
Nam, Đông - Tây, nhất là đường thủy vì nằm bên con sông lớn nhất trăm sông
trong miền chia nước: sông Cái - sông Hồng. Sông Cái lại như con hào tự nhiên
mênh mang che chở mạn Bắc thành lũy, khi có nạn giặc ngoài. Rõ là thế đất đế đô
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 18
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
của thời mở mang, hưng thịnh dài lâu, khác xa kinh đô Hoa Lư thế hiểm, nặng về
lui giữ của thời mới gây nền tự chủ Đinh - Lê.
Có một khái niệm được Lý Công Uẩn nhắc đến là “long bàn hổ cứ”. Thành
ngữ này được sử dụng nhiều lần trong các tác phẩm chữ Hán của cha ông ta, đôi
khi còn thấy xuất hiện cả trong tác phẩm Nôm, đặc biệt còn thấy tách thành long
bàn và hổ cứ để dùng, chẳng hạn như trong một bài thơ của Chúa Trịnh Căn (1872-
1709) chép trong tác phẩm Thiên hòa doanh bách vịnh.
Long bàn là từ dùng để miêu tả động tác di chuyển vị trí của con rồng. Rồng
là loài động vật thuộc họ rắn, nó di chuyển thế nào hẳn hiếm người biết được. Thế
nhưng con rắn di chuyển trên mặt đất như thế nào hẳn là nhiều người đã tận mắt
nhìn thấy. Rắn thuộc loài bò sát không có chân, nó di chuyển vị trí bằng cách uốn
các đốt xương sống lại để nhích đi từng chút, giống như con sâu đo. Quan sát cách

di chuyển của loài rắn, chúng ta có thể phần nào mường tượng thấy cách di chuyển
của loài rồng. Các thầy địa lý phong thủy ngày xưa quan sát dãy núi nhấp nhô
trùng điệp, ngọn cao ngọn thấp nối nhau chạy dài mãi, họ cho đó là hình ảnh con
rồng di chuyển vị trí trong không gian nên gọi là Sơn mạch hay Long mạch. Con
rồng vận động trong vũ trụ như thế, gặp được nơi địa lợi nó liền cuộn lại nhiều
hơn, tiếng Hán gọi động tác đó là long bàn, có thể giải nghĩa ra tiếng Việt là con
rồng cuộn mình làm tổ.
Hổ cứ, là tư thế ngồi xổm chuẩn bị vồ mồi của con hổ. Trong tiếng Hán, từ cứ
có nghĩa là ngồi với tư thế hai mông không chạm đất mà đặt nhẹ lên hai gót chân,
tức là ở tư thế sẵn sàng bật dậy tấn công đánh trả kẻ địch.
Vậy thì thành ngữ long bàn hổ cứ có thể dùng để miêu tả thế đất chắc chắn
bền vững, vừa tiện lợi cho việc phòng thủ giữ gìn, vừa phù hợp với việc phát triển
phồn vinh, để lại cho con cháu muôn đời.
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 19
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Về mặt địa lý, Lý Công Uẩn đã nhận ra đất Đại La rộng mà bằng phẳng. Đây
là trung tâm của đồng bằng sông Hồng, đất đai màu mỡ, phì nhiêu, nhất là vào thời
ấy khi đất đai mới được khai thác, chưa đắp đê ngăn lũ như hiện nay. Đại La ở vào
thế đất cao mà sáng sủa, khá sâu trong đất liền nên bão lũ không thể vào đến tận
vùng này. Chính vì tránh được cái họa thiên tai ấy – khi dân ta chưa đủ trình độ để
dự báo, giảm nhẹ hậu quả thiên tai – nên vùng đất này luôn yên bình, muôn vật
phát huy được tột cùng của sự phong phú.
Sau khi phân tích hai khía cạnh: phong thủy – tâm linh và địa lý – thực tế, Lý
Công Uẩn đã khẳng định rằng thế đất Đại La là nơi phù hợp nhất để đóng đô, là
nơi đất đẹp, cảnh đẹp, hội tụ của các chốn đô hội khắp bốn phương, là kinh đô loại
ưu đẳng của muôn đời đế vương. Từ đó, Lý Công Uẩn quyết định dời đô, ông hỏi ý
kiến các quan thần: các khanh thấy thế nào? Đây là sự thể hiện tinh thần dân chủ
của Lý Công Uẩn.
Với việc nhận thức sự khác nhau giữa Hoa Lư và Đại La, đưa ra quyết định
dời đô, Lý Công Uẩn là người có tầm nhìn xa và rất sáng suốt. Hoa Lư là vùng núi

hẻo lánh, chỉ hợp với chiến tranh, thủ chiến chứ không hợp với thời hòa bình, thịnh
trị. Các nghiên cứu khảo cổ đã cho thấy ở ven sông Hàm Long, gần cố đô Hoa Lư
có một khu đô thị dài khoảng 1km, với trình độ phát triển khá cao, đời sống thịnh
trị. Như vậy, có thể thấy Hoa Lư là một kinh đô mà thị nằm ngoài đô, không tạo
điều kiện để phát triển trong thời bình được. Nếu cứ mãi đóng đô ở Hoa Lư thì đất
nước không phát triển đi lên được.
Ngược lại, Đại La là vùng dân cư đông đúc, đời sống phát triển ở mức cao.
Đây là vùng nằm giữa trung tâm đồng bằng sông Hồng, phù hợp giao thông, phát
triển kinh tế, tập trung được cả nước. Không những thế, về thực tế, thời điểm này,
Đại La là một khu vực phát triển ở nước ta. Sau khi được chọn làm trung tâm hành
chính từ thời Bắc thuộc, nơi này đã trở thành khu vực có tốc độ phát triển khá
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 20
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
nhanh. Mặc dù dưới thời Đinh – Lê không được chọn làm kinh đô nhưng không có
nghĩa là khu vực này không phát triển. Các kết quả khảo cổ học với những sản
phẩm tinh xảo, quý hiếm cho thấy vào thời kì này, Đại La là một khu vực khá giàu
có, phát triển.
Tuy nhiên, Đại La bốn bề trống trải, không thể phù hợp cho các cuộc chiến.
Thực tế lịch sử cho thấy trong những lúc đất nước có ngoại xâm, các triều đại luôn
phải bỏ Thăng Long, lấy nơi khác làm căn cứ địa để chiến đấu. Như vậy, có thể
thấy, Hoa Lư là kinh đô của thời chiến còn Đại La là kinh đô của thời bình.
Việc Lý Công Uẩn nhận ra sự khác nhau giữa hai vùng đất này và quyết định
định đô ở Đại La chứng tỏ ông tin tưởng vào tương lai phát triển trong hòa bình
của đất nước, mong muốn và tin tưởng đất nước bình yên, phát triển thịnh trị. Việc
Lý Công Uẩn lên ngôi và trị vì đã thực sự kết thúc thời kì phân phong, cát cứ quân
sự trong lịch sử Việt Nam, đưa đất nước thống nhất, phát triển hòa bình, thịnh đạt.
Như vậy, có thể thấy Lý Công Uẩn không chỉ chú trọn đến mặt quân sự như các
triều đại trước mà đã bắt đầu chú ý đến sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa và
đặc biệt là chú ý đến việc củng cố hậu phương (vùng đồng bằng sông Hồng là hậu
phương rộng lớn và quan trọng nhất của nước ta thời kì này). Không những thế, Lý

Công Uẩn còn thể hiện cố gắng với tay tới các địa phương rộng lớn và các vùng
biên giới phía Nam cũng như phía Bắc thông qua hệ thống giao thông thuận tiện
nối với các vùng khác của Đại La, tạo điều kiện để mở rộng chính quyền phong
kiến dân tộc.
Bên cạnh đó, ta nhận thấy so với Hoa Lư, Đại La nằm ở gần Trung Quốc hơn,
nơi đây vẫn còn nhiều tàn dư của thời kì Bắc thuộc, những người ở lại có thể sẵn
sàng giúp Trung Quốc xâm chiếm lại nước ta bất kì lúc nào. Thời kì này, Trung
Quốc vẫn chưa từ bỏ ý định xâm chiếm nước ta. Việc Lý Công Uẩn – một tài năng
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 21
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
quân sự - vẫn quyết định định đô ở Đại La chứng tỏ ông hoàn toàn không nể sợ
phương Bắc, tin tưởng vào khả năng của đất nước.
Định đô là một quyết định trọng đại của dân tộc, một trong những vấn đề cốt
yếu nhất có ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển hay thụt lùi của đất nước. Lý Công
Uẩn vừa lên ngôi năm 1009, sang năm 1010 đã quyết định dời đô. Đây là việc làm
quan trọng đầu tiên của Lý Công Uẩn sau khi lên ngôi. Điều này chứng tỏ ông là
một người rất tài giỏi, có khả năng lãnh đạo, có tầm nhìn chiến lược sâu sắc, đoán
định và mong muốn, tin tưởng vào tương lai phát triển hòa bình của đất nước. Nhà
sử gia Ngô Thì Sĩ đã khen ngợi Lý Công Uẩn rằng ông vừa lên ngôi chưa nghĩ đến
việc gì khác mà đầu tiên là dời đô thể hiện khả năng thao lược, chính vì thế mà
triều đại kéo dài, thịnh trị, các vua đời sau ít người theo được.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, quyết định của Lý Công Uẩn là hoàn toàn
đúng đắn. Trong bốn kinh đô cũ của nước ta, Hoa Lư, Thăng Long, Tây Đô, Phú
Xuân ta thấy Thăng Long vẫn xứng đáng là kinh đô hơn cả. Hoa Lư và tây Đô chỉ
phù hợp với thời chiến tranh, loạn lạc còn Phú Xuân chỉ là dải đất hẹp, trải qua hơn
hai trăm năm làm kinh đô cho nhà Nguyễn – triều đại phong kiến hội tụ mọi điều
kiện tốt nhất để phát triển - vùng đất này vẫn không thể phát huy được vai trò kinh
đô của mình.
Còn Thăng Long, từ sau khi được Lý Công Uẩn chọn làm kinh đô, vùng đất
này đã chứng tỏ nơi này là nơi phù hợp nhất để làm kinh đô cho nước ta. Quá trình

phát triển của Thăng Long sau này có thể tóm tắt như sau:
Từ năm 1010 đến năm 1397: là kinh đô của nhà Lý, nhà Trần
Từ năm 1397 đến năm 1407: là Đông Đô của nhà Hồ
Từ năm 1407 đến năm 1427: là thành Đông Quan của nhà Minh
Từ năm 1428 đến năm 1789: là Đông Kinh của nhà Lê Sơ, nhà Mạc, nhà Trịnh
Từ năm 1789 đến năm 1801: là trấn Bắc Thành của Tây Sơn Nguyễn Huệ
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 22
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Từ năm 1802 đến năm 1840: là trấn Bắc Thành của nhà Nguyễn
Từ năm 1820 đến khi Pháp chiếm Hà Nội: là tình thành Hà Nội
Từ khi Pháp chiếm Hà Nội đến năm 1945: là thủ phủ chính trị, hành chính của
Pháp ở Đông Dương
Từ năm 1945 đến nay: là thủ đô của nước Việt Nam dân chủ công hòa rồi đến
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy, từ khi Lý Công Uẩn quyết định dời đô về Thăng Long,
nơi đây đã liên tục là trung tâm chính trị đầu não của quốc gia, dân tộc. Có hai giai
đoạn từ năm 1397 – 1427 và 1789 – 1945, tuy không phải là trung tâm đầu não
nhưng vẫn là trung tâm hành chính, chính trị đại diện cho quyền lực Nhà Nước ở
nơi đây.
Từ sự phân tích trên, có thể thấy Lý Công Uẩn là một nhà chính trị thiên tài,
người có tầm nhìn xa và chiến lược, đã nhận ra sự ưu việt của mảnh đất Đại La.
Tuy ông không phải là người đầu tiên nhìn thấy tiềm năng của vùng đất này và
chọn nơi đây là trung tâm đầu não của đất nước nhưng phải đến Lý Công Uẩn thì
tiềm năng của Đại La mới được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và phát huy tối đa.
Tuy nhiên, bên cạnh tầm nhìn tài năng, Lý Công Uẩn cũng bộc lộ hạn chế
nhất định trong Chiếu dời đô của mình. Thứ nhất, việc ông phê phán nhà Đinh, Lê
chọn Hoa Lư làm kinh đô là tự làm theo ý mình, coi thường mệnh trời là không
đúng. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, khi nội chiến, cát cứ phân phong trong cả nước
đang nổi lên, thì chọn Hoa Lư là một quyết định chính xác. Vùng đất này là nơi
hiểm trở, núi bao quanh, chỉ có một con đường độc đạo thông ra bên ngoài, hợp

với phòng thủ, quân sự. Nhờ chọn Hoa Lư mà Đinh Bộ Lĩnh mới có thể dẹp loạn
mười hai sứ quân, nhà Lê đánh tan được cuộc xâm lược của nhà Tống. Còn nếu khi
đấy chọn Đại La, bốn bề trống trải, chỉ hợp với thời bình thì chắc chắn thất bại.
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 23
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
Không chỉ thế, việc dời chuyển kinh đô không phải là việc đơn giản, muốn dời
là dời được. Nhãn quan chính trị cũng như trình độ kinh tế phải đến lúc chín muồi
mới đạt đến mức độ dời đô chứ không phải muốn dời lúc nào là được. Hai Đinh Lê
tuy đánh giặc, dẹp loạn thì giỏi nhưng tài năng phát triển đất nước thì tầm mắt còn
hạn hẹp. Hơn nữa, hai nhà Đinh Lê không tồn tại lâu, hoàn cảnh lịch sử vừa thoát
khỏi tình trạng chiến tranh, chưa đủ điều kiện để dời đô về nơi yên bình. Lúc ấy,
thế và lực của chính quyền phong kiến tập trung chưa đủ mạnh; nhà Tống lăm le
xâm lược; tình hình châu thổ sông Hồng phức tạp, nếu dời đô về đây là một quyết
định sai lầm. Chính hai nhà Đinh Lê đã tạo điều kiện vượt qua thời kì bất ổn, đưa
đất nước vào quỹ đạo hòa bình và Lý Công Uẩn là người hưởng thành quả ấy, với
mọi điều kiện thích hợp để dời đô về nơi phù hợp với thời bình.
Thứ hai, trong bản Thiên đô chiếu, Lý Công Uẩn đã gọi hai nhà Đinh Lê là
“thị” chứ không phải là “triều”. Chữ “thị” dịch sang tiếng Việt có nghĩa là “họ”,
không có nghĩa là “vương triều”. Như vậy, Lý Công Uẩn không công nhận hai nhà
này là hai triều đại, ngôn ngữ bộc lộ sự khinh miệt, xem thường. Trong khi đó,
nhìn lại tiểu sử của Lý Công Uẩn, ta thấy ông xuất thân là một đứa trẻ được nuôi
lớn trong chùa, dưới sự tiến cử của sư Vạn Hạnh – người được hai nhà Đinh Lê hết
sức coi trọng – và nhờ tài năng quân sự của mình, bắt đầu con đường quan lộ từ
việc làm quan cho nhà Đinh rồi đến nhà Lê. Thời này, tư tưởng trung quân chưa
chi phối mạnh mẽ đến quân thần, nhưng hai nhà Đinh Lê chính là người nâng đỡ
Lý Công Uẩn đầu tiên trên con đường đến ngai vàng sau này. Sự khinh miệt đấy có
thể gọi là hành động “qua cầu rút ván”, đáng phê phán của một bậc đế vương ích kỉ.
Nhìn lại quá trình phát triển của vùng đất Đại La – Thăng Long – Hà Nội
trong lịch sử, ta thấy nơi này và Chiếu dời đô có mối quan hệ rất sâu sắc. Sự phát
triển trước đó của Đại La là cơ sở để Lý Công Uẩn đưa đến quyết định dời đô

Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 24
Thể chiếu trong văn học trung đại Việt Nam và Thiên đô chiếu
nhưng chính Chiếu dời đô là bước ngoặt đưa đến sự phát triển, vai trò quan trọng
của Đại La – Thăng Long – Hà Nội sau này.
Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực
Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Thế kỷ 3 trước
Công Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết
định đóng đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15
km. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô
thị trung tâm về chính trị và xã hội.
Thất bại của Thục Phán đầu thế kỷ 2 trước Công Nguyên đã kết thúc giai đoạn
độc lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một ngàn năm bị các triều đại phong
kiến Trung Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, nước Âu Lạc được chia thành ba
quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó thuộc quận Giao Chỉ. Vắng
bóng trong sử sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng năm 454–456, Hà Nội mới
được ghi lại là trung tâm của huyện Tống Bình. Năm 544, Lý Bí nổi dậy chống
lại nhà Lương, tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Người cháu của Lý
Bí là Lý Phật Tử tới đóng đô ở Cổ Loa, nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài tới năm
602. Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Tống
Bình là trung tâm của An Nam đô hộ phủ. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao
Biền xây dựng một thành trì mới, Tống Bình được đổi tên thành Đại La – thủ phủ
của Tĩnh Hải quân. Thế kỷ 10, sau chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam
Hán, Cổ Loa một lần nữa trở thành kinh đô của nước Việt.
Như vậy, có thể thấy, trước khi Lý Công Uẩn quyết định dời đô, nơi đây đã là
một vùng đất khá phát triển, có vai trò khá quan trọng đối với chính quyền phong
kiến phương Bắc trong việc cai trị nước ta và đối với một số chính quyền tự chủ
của người Việt. Đó là cơ sở đưa đến sự phát triển của vùng đất này, đặt tiền đề cho
quyết định dời đô của Lý Công Uẩn sau này.
Nguyễn Thị Mơ – Lớp Văn học Việt Nam – Cao học Văn K55 Page 25

×